Giới thiệu tóm lược Tứ thư và Ngũ kinh
Trong các trào lưu tư tưởng của người Trung quốc, có ảnh hưởng
nhất là Nho giáo. Các sách làm gốc cho Nho giáo là Tứ thư và
Ngũ kinh; các sách ấy vừa là kinh điển của các môn đồ đạo
Nho, vừa là những tác phẩm văn chương tối cổ ở nước Trung
Hoa
*Bộ Tứ Thư (bốn sách)
Bộ sách Tứ Thư của Nho giáo ra đời cách nay khoảng hơn 2.000
năm, đã trải qua bao sóng gió theo những giai đoạn thăng trầm
của lịch sử Trung Hoa. Lần thì bị Tần Thủy Hồng đốt, lần thì bị
tiêu tan trong các cuộc nội chiến triền miên của Trung Hoa. Do
vậy khó tránh được nạn "tam sao thất bản". Đến đời nhà Tống,
bộ sách này mới được các danh Nho tu chỉnh.
Bộ bao gồm: Đại học, Trung dung, Luận ngữ và Mạnh Tử.
-Đại học
+Là sách của bậc “đại học” cốt dạy cái đạo của người quân tử.
Chia làm hai phần: phần trên là kinh, chép lời Khổng Tử, phần
dưới là truyện theo lời cửa Tăng Tử
+Mục đích: “Đại học chi đạo, tại minh chi đức, tại thân dân, tại
chỉ ư chi thiện.(Nghĩa là: Cái đạo của người theo bậc đại học là
cốt làm sáng cái đức (đức tốt) của mình, cốt làm mới (ý nói cải
hóa) người dân, cốt dừng lại ở cõi chí thiện, người qn tử trước
phải sửa sang đức tính mình cho hay, rồi lo dạy người khác nên
hay, và lấy sự chí thiện làm cứu cánh.)
+ Phương pháp: tu thân (sửa mình trước), tề gia (chỉnh đốn việc
nhà), trị quốc (cai trị việc nước )và bình thiên hạ(làm cho cả
thiên hạ được bình n).
->tuần tự mà tiến, tự mình đến người ngồi, mà điều cốt yếu
nhất là việc sửa mình, trong Đại học có câu:”Tự thiên tử dĩ chí ư
thứ dân, nhất thị giai dĩ tu thân vi bản (Nghĩa là: Từ ông vua
đến kẻ thường dân, ai nấy đều lấy việc sửa mình làm gốc)
+ Cách thực hành:
Trước hết phải cách vật nghĩa là thấu lẽ mọi sự vật; rồi phải trí
tri, nghĩa là biết cho đến cùng cực; phải thành ý: nghĩa là ý phải
thành thực; phải chánh tâm, nghĩa là lòng phải cho ngay thẳng.
Bốn điều ấy phải theo thứ tự kể trên mà tiến hành, có làm được
điều trên mới làm được điều dưới. Làm được bốn điều ấy thì thì
sẽ tu được thân, rồi tề được nhà, trị được nước và bình được
thiên hạ, mà làm trọn được cái đạo của người quân tử.
-Trung Dung.
Gồm những lời tâm pháp của đức Khổng Tử do học trò ngài
truyền lại, rồi sau Tử Tư là cháu ngài chép thành sách, gồm có
33 chương.
“Ơng Tử Tư dẫn những lời của Khổng Phu tử đã giảng về đạo
trung dung. Ngài nói rằng: Trung hịa là cái tính tình tự nhiên
của trời đất, mà trung dung là cái đức hạnh của người ta. Trung
là giữa, không lệch về bên nào: dung là thường, nghĩa là dùng
đạo trung làm đạo thường. Đạo trung dung thì ai ai cũng có thể
theo được, thế mà khơng mấy người chịu theo. Khác nào như ai
cũng ăn uống cả, nhưng ít người ăn mà biết rõ mùi vậy. Chỉ có
thánh nhân mới theo được mà thơi, vì theo đạo ấy cốt phải có
ba cái đạt đức là: trí, nhân và dũng. Trí là để biết rõ các sự lý,
nhân là để hiều điều lành mà làm, dũng là để có cái khí cường
kiện mà theo làm điều lành cho đến cùng.
“Ơng Tử Tư lại dẫn lời đức Khổng Phu tử nói về chữ thành,
“Thành là đạo Trời, học cho đến bậc thành là đạo người”. Đạo
người là phải cố gắng hết sức để cho đến bậc chí thành. Phải
học cho rộng, xét hỏi cho kỹ, nghĩ ngợi cho sâu, biện biệt điều
phải trái cho rõ, và dốc lòng làm điều thiện cho đến cùng. Hể ai
làm được như thế thì rồi ngu thành sáng, yếu thành ra mạnh,
tức là dần dần lên đến bậc chí thành. Ở trong thiên hạ duy có
bậc chí thành tức là bậc thánh, thì mới biết rõ cái tính của Trời;
biết rõ cái tính của trời thì biết rõ cái tình của Người; biết rõ cái
tình của người, thì biết được cái tính của vạn vật; biết rõ cái tính
của vạn vật thì khả dĩ giúp được sự hóa dục của trời đất và có
cơng ngang với trời đất vậy …
-Luận ngữ.
Là cuốn sách chép các lời đức Khổng Tử khuyên dạy học trò
hoặc các câu chuyện ngài nói với những người đương thời về
nhiều vấn đề (luân lý, triết lý, chánh trị, học thuật) do các môn
đệ ngài sưu tập lại.
Chia làm hai quyển (thượng, hạ) gồm có 20 thiên (mỗi thiên
lâý hai chữ đầu đặt tên). Các chương khơng có liên lạc hệ thống
gì với nhau.
Sách Luận ngữ có thể coi là cuốn sách dạy đạo người quân tử
một cách thực tiễn và mô tả tình tình, cử chỉ, đức độ của đức
Khổng Tử như phác họa ra một cái mẫu mực hoạt động cho
người đời sau theo.
Xem sách ấy ta có thể biết được:
1) Nhiều câu cách ngôn xác đáng về đạo người quân tử.
2) Phẩm cách cao thượng (hồn hậu, thành thực, khiêm cung,
khoái hoạt) của đức Khổng Tử biểu lộ ra trong những chuyện
ngài nói với học trị.
3) Cảm tình phong phú và lòng ái mỹ của ngài.
4) Khoa sư phạm của ngài. Trong các lời khuyên dạy chuyện trò
với học trò, ngài tỏ ra là một ông thầy hiểu thấu tâm lý học trò
và khéo làm cho lời dạy bảo của mình thích hợp với trình độ
cảnh ngộ của mỗi người. có khi cùng là một câu hỏi mà ngài trả
lời khác, tùy theo tư chất và chí hướng của từng người.
-Mạnh Tử.
+ Là tên cuốn sách của Mạnh Tử (6) viết ra.
+ Gồm có 7 thiên. Các chương trong mỗi thiên thường có liên
lạc với nhau và cùng bàn về một vấn đề.
+Tư tưởng của Mạnh Tử:
Về luân lý:Thứ nhất, Theo ý ơng, thì thiên tính người ta vốn
thiện, ví như tính nước vốn chảy xuống chỗ thấp; sở dĩ thành ác
là vì làm trái thiên tính đi, ví như ngăn nước cho nó phải lên chỗ
cao vậy.
Thứ hai, mấy điều cốt yếu trong việc giáo dục ấy là: dưỡng tính
(giữ lấy thiện tính), tồn tâm (giữa lấy lịng lành), trì chí (cầm lấy
chí hướng cho vững), dưỡng khí (ni lấy khí phách cho mạnh).
Thứ ba, phẩm cách của người quân tử mà ông gọi là đại trượng
phu hoặc đại nhân: bậc ấy phải có đủ bốn điêù là: nhân, nghĩa,
lễ, và trí.
Về chính trị: Ơng nói bậc làm vua trị dân phải trọng nhân
nghĩa chớ đừng trọng tài lợi thì mới tránh được sự biến loạn và
việc chiến tranh.
Về kinh tế: Ơng nói: Người ta có hằng sản, rồi mới có hằng
tâm, nghĩa là người ta có của cải đủ sống một cách sung túc thì
mới sinh ra có lịng tốt muốn làm điêù thiện. Vậy bổn phận kẻ
bề trên là phải trù tính sao cho tài sản của dân được phong phú
rồi mới nghĩ đến điều dạy dân và bắt dân làm điều hay được.
Ông lại chỉ các phương lược mà các bậc vua chúa phải theo để
làm cho việc canh nông, mục súc, công nghệ của dân được
phát đạt.
+Văn từ trong sách Mạnh Tử. Mạnh tử không những là một
nhà tư tưởng lỗi lạc, lại là một văn gia đại tài. Văn ông rất hùng
hồn, và khúc chiết: ơng nói điều gì, cãi lẽ gì, thật là rạch rịi,
góc cạnh. Ơng hay nói thí dụ: muốn cho ai hiểu điều gì, muốn
bắt ai chịu phục lẽ gì, ơng thường dẫn các thí dụ mượn ở sự vật
cho người ta dễ nhận xét. Ông lại hay dùng thể ngụ ngôn hoặc
kể những câu chuyện ngắn để diễn đạt tư tưởng cho người
nghe vui thích và dễ nhận cái thâm ý của ông.
=>Bộ Tứ thư là bộ sách gồm những điều cốt yếu của Nho giáo,
ai muốn hiểu rõ đạo giáo ấy tất phải nghiên cứu bộ ấy. Trong bộ
ấy, có nhiều câu cách ngơn xác đáng, nhiều chân lý đương
nhiên đáng để cho chúng ta, bất kỳ là người nước nào, ở thời
đại nào, ngẫm nghĩ suy xét và rất có bổ ích về đường tinh thần,
đức hạnh của ta vậy.
REPORT THIS AD
*Ngũ Kinh
Gồm 5 cuốn sách và là năm quyển kinh điển trong văn học
Trung Hoa dùng làm nền tảng trong Nho giáo. Theo truyền
thuyết, năm quyển này đều được Khổng Tử soạn thảo hay hiệu
đính.
. Ngun trước có sáu kinh, nhưng vì sự đốt sách của Tần Thủy
Hoàng (246-209), một kinh là Kinh Nhạc (âm nhạc) mất đi.
Ngũ kinh là: Thi, Thư, Dịch, Lễ ký, Xuân thu.
1 Thi (thơ), do đức Khổng Tử sưu tập và lựa chọn.
-Lược sử kinh Thi.
+ Vốn là những bài ca dao ở nơi thôn quê và nhạc chương ở nơi
triều miếu của nước Tàu về đời thượng cổ.
Được Đức Khổng tử lựa chọn lấy hơn ba trăm thiên và theo ý
nghĩa các thiên sắp đặt thành bốn phần.
Đến đời Tần Thủy Hoàng, Kinh Thi, cũng như các kinh khác bị
đốt, nhưng có nhiều nhà Nho cịn nhớ.
Đến thế kỷ thứ II trước công nguyên về đời nhà Hán, có bốn
bản kinh Thi xuất hiện, đại thể giống nhau, duy chữ viết có
khác. Truyền lại đến nay là bản của Mao Công (tức Mao Trường)
+Nội dung của kinh Thi
Có bốn phần gồm 305 thiên (bài thơ). Trong đó có 6 thiên chỉ
truyền lại đề mục mà khơng cịn bài. Mỗi thiên lấy vài chữ chính
trong thiên làm đề mục và chia ra làm nhiều chương. Bốn phần
trong kinh thi là: Quốc phong, Tiểu nhã, Đại nhã và Tụng.
Quốc Phong – Quốc nghĩa là nước (đây là các nước chư hầu
về đời nhà Chu) phong nghĩa đen là gió; ý nói các bài hát có thể
cảm người ta như gió làm rung động các vật. Vậy quốc phong là
những bài ca dao của dân các nước chư hầu mà đã được nhạc
quan của nhà vua sưu tập lại.
Quốc Phong chia làm 15 quyển, mỗi quyển là một nước, gồm
có:
1 Chính phong (hai quyển Chu nam và Thiệu nam) gồm
những bài hát tự trong cung điện nhà vua truyền ra khắp thiên
hạ.
2 Biến phong: gồm những bài hát của 13 nước chư hầu
khác.
Tiểu nhã. Nhã nghĩa là chính đính, gồm những bài hát dùng ở
nơi triều đình. Tiểu nhã chỉ những bài dùng trong những trường
hợp thường như khi có yến tiệc.
Tiểu nhã gồm có 8 thập, mỗi thập có 10 thiên.
Đại nhã: Đại nhã chỉ những bài hát dùng trong những trường
hợp quan trọng như khi thiên tử họp các vua chư hầu hoặc tế ở
miếu đường.
Tụng: Tụng nghĩa là khen, gồm những bài ngợi khen các vua
đời trước và dùng để hát ở nơi miếu đường.
Tụng có 5 quyển gồm 40 thiên, chia ra làm:
1) Chu tụng: 31 thiên (3 quyển đầu)
2) Lỗ tụng : 4 thiên (quyển thứ 4)
3) Thương tụng: 5 thiên (quyển thứ 5).
Thể văn trong Kinh Thi.
Các bài trong Kinh Thi viết theo thể thơ 4 chữ (thỉnh thoảng
có câu 3 chữ hoặc 5 chữ.
Cách kết cầu các bài làm theo ba thể:
1) Thể phú (xem bài đọc thêm số 1)
2) Thể tỷ (Xem bài đọc thêm số 2)
3) Thể hứng (xem bài đọc thêm số 3)
Ba thể ấy đã giải thích rõ trong chương thứ I (mục nói về Ba thể
văn trong ca dao).
+Luân lý trong Kinh Thi.
Đức Khổng tử đã nói: “Thi tam bách, nhất ngôn dĩ tế chi
( nghĩa là: Cả ba trăm thiên Kinh Thi, chỉ một câu có thể chùm
được, là: Khơng nghĩ bậy.). Vậy người đọc Kinh Thi phải làm thế
nào cho lịng mình khơng nghĩ đến điều sằn bậy, dâm tà để có
được tính tình trong sạch; đó là bài học luân lý của sách ấy, mà
cũng là chủ ý của đức Không tử khi ngài san định kinh ấy.
Ngài lại nói: “Thi khả dĩ hưng, khả dĩ quan, khả dĩ quần, khả dĩ
oán, nhĩ chi sự phụ, viễn chi sự quân, đa chi ư điểu thú, thảo
mộc chi danh. , (nghĩa là: Xem kinh Thi, có thể phấn khởi được
ý chí, xem xét được việc hay dở, hịa hợp với mọi người, bầy tỏ
nỗi sầu ốn, gần thì học việc thờ cha, xa thì học việc thờ vua,
lại biết được nhiều tên chim mng cỏ cây). Đó là sự ích lợi của
việc đọc kinh Thi.
Đọc kinh Thi, ta biết được tính tình, phong tục của người dân và
chánh trị các đời vua cùng các nước chư hầu ở nước Tàu về đời
Thượng cổ. Thí dụ:
Đọc Mân phong, ta biết được tục cần kiệm của người dân nước
ấy.
Đọc Vệ phong, ta biết được tục dâm bôn của người dân nước âý.
Đọc Tần phong, ta biết được sự hối quá của người dân nước ấy.
Đọc Đại nhã, Tiểu nhã, ta biết được chánh trị của nhà Chu thịnh
suy thế nào.
Ảnh hưởng kinh Thi đối với văn chương nước Tàu và nước Nam.
A) Kinh Thi là một cái nguồn thi hứng các thi sĩ thường mượn đề
mục ở đâý.
B) Kinh Thi lại là một cái kho điển tích: các nhà làm văn hay lấy
điển hoặc lấy chữ ở đấy. Ta cứ đọc Truyền Kiều thì thấy rất
nhiều điển và chữ mượn ở Kinh Thi.
=>Kinh thi, cũng như ca dao của ta, là cái nền thơ lối cổ của
nước Tàu, trong đó có nhiêù bài mơ tả tính tình, phong tục dân
Tàu một cách chất phác, hồn nhiên, thật là một cái kho tài liệu
cho ta khảo cứu vậy.
2) Thư (nghĩa đen là ghi chép): do đức Khổng Tử sưu tập, trong
chép điển, mô, huấn, cáo, thệt, mệnh (điển là phép tắc; mô:
mưu bàn, kế sách; huấn: lời dạy dỗ; cáo: lời truyền bảo; thệ: lời
răn bảo tướng sĩ; mệnh: mệnh lệnh.) của các vua tôi bên Trung
Hoa từ đời Nghiêu, Thuấn đến đời Đông Chu (từ năm 2357 đến
năm 77t trước công nguyên)
3) Dịch (nghĩa đen là thay đổi) là cuốn sách tướng số dùng về
việc bói tốn và sách lý học cốt giải thích lẽ biến hố của trời
đất và sự hành động của mn vật. Nguyên vua Phục Hi (-4480
đến -4365) đặt ra bát quái (tám quẻ, tức là tám hình vẽ), tám
quẻ ấy lại lần lượt đặt trồng lên nhau thành ra 64 trùng quái
(quẻ kép); mỗi trùng quái có sáu nét vạch (hoặc vạch liền biểu
thị lẽ dương, hoặc vạch đứt biểu thị lẽ âm gọi là hào, thành ra
384 hào.
4) Lễ ký (chép về lễ) là sách chép các lễ nghị trong gia đình,
hương đảng và triều đình. Hiện cuốn Lễ ký còn truyền lại đến
giờ phần nhiều là văn của Hán nho, chứ chính văn do đức
Khổng Tử san định về đời Xn thu khơng cịn mấy.
5) Xn thu (mùa xuân và mùa thu), nguyên là sử ký nước Lỗ,
do đức Khổng Tử san định lại, chép công việc theo thể biên niên
tự năm đầu đời Lỗ Ẩn Công đến năm thứ 15 đời Lỗ Ai Công (từ
722 đến năm 481 trước công nguyên) cộng là 243 năm.
Link tham khảo:
/>II. MỘT SỐ NỘI DUNG CHÍNH CỦA NHO GIÁO
Chúng ta tìm hiểu vì Nho giáo khi nó đã tồn tại hơn 2000
năm, luônđược cải biến được bổ sung và mang các bộ mặt
khác nhau qua các thờikỳ. Nhiều học giả đã tốn rất nhiều
giấy mực để sưu tâm, trích dẫn và bàn cãi chung quanh
những câu chữ trong sách vở của Nho giáo từ trước tới nay.
Việc làm ấy thường dẫn đến những nhận định chủ quan,
giản đơn vàphiến diện. Muốn khen hay chê người ta đều
có thể trích dẫn những lời lẽ rất hấp dẫn từ trong kho sách
của Nho giáo. Nhưng khi để ý rằng KhổngTử - người sáng
lập ra Nho giáo - khi đề ra những điều căn bản trong
thuyết của Nho giáo cũng đang ở tâm trạng phân vân,
mâu thuẫn, vừa hoài cổ, vừa sùng thường, và bối cảnh xã
hội lúc ấy cũng là lúc giằng co,giành giật giữa chế độ nô lệ
và chế độ phong kiến. Sau này khi Nho học được cải biến
để phục vụ ý đồ của giai cấp thống trị thì nó càng chứa
đựng nhiều mâu thuẫn. Vì thế khơng thể tìm hiểu Nho học
theo lối trích dẫn, kinh viện vì nó chỉ càng dẫn ta vào ngõ
cụt. Để tìm hiểu Nho học khơng thể không xem xét trên
giác độ phương pháp duy vật lịch sử...Chúng ta khơng
phân tích những sự kiện tư tưởng bằng bản thân tư
tưởngmà phải tìm hiểu tư tưởng gắn liền với những điều
kiện xã hội cụ thểtrong đó nó đã nảy sinh, phát triển và
suy tàn. Khơng thể có một thứ Nho giáo chung cho các
thời đại, một thứNho giáo nhất thành, bất biến ở khắp mọi
nơi. Khi Khổng Tử đề ra học thuyết của ông và đi chu du
thiên hạ đểmong được sử dụng thì ơng đã thất bại. Điều
đó khơng có nghĩa rằng xãhội Đơng Chu đã xấu hơn xã hội
thời Ngũ đế tam vương mà chỉ có nghĩa rằng những tư
tưởng của ơng muốn bảo vệ nền chun chính của q tộc
chủ nơ khơng cịn phù hợp nữa với xã hội và uy thế chính
trị đang đangdần dần thuộc về tầng lớp địa chủ mới. Khi
học thuyết của Khổng Tử được đặt lên vị trí độc tơn thì
khơngcó nghĩa rằng vua nhà Hán đã có đạo đức, nhân
nghĩa hơn nhà Tần màchỉ vì chế độ trung ương tập quyền
của nhà Hán đang đòi hỏi một hệ tưtưởng thích hợp với
nền kinh tế tiểu nơng và bộ máy phong kiến quanliêu của
nó. Khi Nho giáo đã mang hình thức duy tâm tư biên với Lý
học đờiTống thì không phải lịch sử đã tạo ra mấy nhân vật
“lỗi lạc” mà chỉ vìgiai cấp phong kiến đã suy tàn đã cần
thiết phải đổi mới các hệ tư tưởngcũng suy tàn như nó.
Nho giáo lúc đó hầu như đã kiệt sức và được bổsung bằng
giáo lý của Phật, Lão. Hệ tư tưởng của Nho giáo trải qua
hơn 2000 năm phát triển và biếnđổi. Từ Tam đức của
Khổng Tử, từ đoan của Mạnh Tử, ngũ thường ởHán Nho,
“Thiên nhân hợp nhất” ở Đống Trọng Thư, “Thái cực
đồthuyết” của Chu Đơn Di, Lý Khí ở Chu Hi... Tất cả đều
xuất phát từ mộtSinh viên thực hiện: Trần Hoàng Thành 6
gốc và khoác chung tấm áo Nho học. Như vậy hệ tư tưởng
Nho giáo trảiqua hơn 2000 năm là vơ cùng phức tạp. Thế
thì hệ tư tưởng Nho giáo làtư tưởng gì? và tại sao dưới
những hình thức rất phức tạp, tương phản vàmâu thuẫn,
bao giờ tư tưởng Nho giáo cũng giữ địa vị thống trị. 1. Tư
tưởng Nho giáo là gì? Ở Trung Quốc xã hội phong kiến vẫn
giữ lại rất nhiều di tích của xãhội thị tộc và xã hội nô lệ,
biểu hiện trong pháp luật và phong tục dướinhiều hình
thức như quan niệm về sở hữu ruộng đất thuộc về quốc
gia,quan niệm tôn pháp trong gia tộc, ở trong một xã hội
như vậy thì vua làtổ của thị tộc, là cha của dân, mà cha là
trời của con, chồng là trời của vợ.Để tồn tại trên cơ sở sản
xuất đặc thù á Đông (phương thức sản xuấtChâu á) giai
cấp địa chủ thống trị cần phải giữ những quan niệm ấy,
dođó chữ Trung, chữ Hiếu, chữ Chính là những khái niệm
luân lý tuyệt đốitrong xã hội phong kiến Trung Quốc. Trong
hình thái ý thức phong kiếnhệ giữa người với người chỉ
được ghép vào 5 loại (ngũ luân), ấy là: vuatôi, cha con,
chồng vợ, anh em, bạn bè. Trong 5 cặp ấy thì hai cặp
anhem, bạn bè chỉ là nhành ngọn, mà 3 cặp kia mới là cội
gốc. Những tínhlớn của nhân loại, theo quan niệm phong
kiến là nhân, nghĩa, lễ, trí (vềsau có thêm chữ tín) cũng là
phát sinh trên cơ sở của ngũ luân. NhưKhổng Tử nói rằng
hiếu đễ là gốc của chữ Nhân. K. Marx nói rằng tư tưởng
của chế độ phong kiến thì lấy đạo đức,danh dự làm hình
thái đại biểu. Nó khơng giống với tư tưởng của thời đạitư
bản chủ nghĩa ở chỗ tư tưởng này lấy tự do bình đẳng làm
hình thái đạibiểu. Marx đã cho thấy rõ bản chất của tư
tưởng phong kiến. Ở đây chữ đạo đức và danh dự cũng
đồng nghĩa với chữ lý luận vàdanh phận trong Nho giáo
mà tự do, bình đẳng là tư tưởng cá nhân của xãhội tư sản.
Nho giáo là hình thái ý thức của giai cấp thống trị trong xã
hộiphong kiến ở Trung Quốc. Đối với nó thì ngũ ln, ngũ
thường, hay tamcương ngũ thường là những cái tuyệt đối.
Theo bộ sậu chính thường củatư tưởng đạo đức thì đạo đức
quan phải diễn dịch từ vũ trụ quan, nhưngnho giáo thì làm
ngược trở lại, nó xuất phát từ ngũ luân, ngũ thường rồiSinh
viên thực hiện: Trần Hoàng Thành 7
đem gán những cái ấy cho vũ trụ, cho thượng đế : nó đã
ln lý hố cả vũtrụ, cả thượng đế, vũ trụ và thượng đế
của Nho giáo đều nhuốm màu luânlý. Đối với nho giáo thì
luân lý cương thường là hằng tồn, là phổ biến.Nho giáo
khơng có lịch sử quan, tiến hố luận. Đối với nó xã hội
phongkiến khơng phải chỉ là một giai đoạn trong lịch sử
loài người, ln lýphong kiến khơng chỉ là một hình thái ý
thức của giai đoạn ấy, như họnói: “Quân thần chi nghĩa vô
sở đào ư thiên địa chi gian” Hay là: “Thiên bất biến, đạo
diệc bất biến” (Đổng Trọng Thư) Đạo ở đây tức là tam
cương, ngũ thường. Nhưng qua các thời đại Nho giáo phải
chống đỡ một cuộc đấu tranhlý luận đối với những hệ
thống khác, như triết học của Mặc Tử, Lão Tử,biện chứng
pháp của danh gia, xã hội học của pháp gia, hình nhi
thượngcủa Hoa nghiêm tơng, thiền tơng... Thế mà tư
tưởng của Khổng Tử thì rấtlà nghèo nàn, thiếu thốn về
nhận thức luận, vì phương pháp luận, vì tựnhiên quan... Vì
vậy Nho gia đời sau cảm thấy phải xây đắp cho nó mộtcơ
sở lý luận ít ra cũng “dễ coi”. Họ tìm được những yếu tố
triết họctrong Nho gia như sách Trung Dung, Đại học,
Mạnh Tử, Kinh Dịch. Họlại vay mượn thêm của các triết
học và tôn giáo, khác những cái gì có thểdung hố được,
rồi mỗi người, mỗi phái xây dựng một học thuyết làm cơsở
lý luận cho Nho giáo. Do đó đã từng đã từng hiện ra cảnh
tượng hỗnđộn, phức tạp trong các chi phí như nói ở trên
chi phái của Nho giáo cóthể là nhất nguyên luận hay nhị
nguyên luận, chủ quan luận hay kháchquan luận, duy lý
chủ nghĩa hay trực quan chủ nghĩa, đức trị chủ nghĩahay
công lợi chủ nghĩa... nhưng tất cả đều thống nhất trên
quan điểm luânthường, cương thường. Về vũ trụ quan, thì
Chu Hi là một nhà nhị nguyênluận. Hai yếu tố cấu thành
vũ trụ là lý (quy luật) vũ khí (vật chất), biểuhiện trong con
người thiên thành thiên lý và nhân dục. Nhưng thiên lý
làgì? là tam cương ngũ thường. Cho nên, đúng như K. Marx
nói, bản chất của tư tưởng phong kiếnnói chung là đạo đức
và danh dự mà bản chất của Nho học là luân lý,danh phận
tức là tam cương, ngũ thường.
2. Vấn đề tính luận trong Nho giáo. Tính luận là vấn đề
trung tâm của Nho giáo. Đó là vấn đề tính ngườithiện hay
ác thảo luận trên 2000 năm mà khơng có học giả nào tìm
ra mộtgiải pháp hoàn hảo. Chữ Nhân của Khổng Tử là một
phạm trù rất mờ mịttối tăm. Đến Mạnh Tử lại thêm chữ
Nghĩa đặt ngang hàng đối với chữNhân, rồi lại thêm vào
cặp Nhân, Nghĩa ấy chữ Lễ và chữ Trí mà còn gọilà Tứ
đoan, tức là 4 cái mầm thiện trong con người... Như thế
nội dungcủa chữ thiện trong Nho học là lễ nhân, nghĩa, lễ
trí và thêm chữ tín củanhà Nho đời sau, gọi là ngũ thường.
Ngũ thường có liên quan mật thiếtvới ngũ tín của nhà Nho
đời sau, gọi là ngũ thường. Vậy ta có thêm bằngtam
cương, ngũ luận, mà trọng tâm trong ngũ thường là tam
cương, ngũthường, là bản tính của con người, tức là nói
tam cương, ngũ thườngkhông phải riêng cho dân tộc nào,
một giai đoạn lịch sử nào mà nó là phổbiến và hằng
thường. Tính là do trời sinh. Trời sinh ra tính thiện, thì
trờicũng là thiện, cũng là tam cương ngũ thường, cho nên
tam cương ngũthường là thường kinh (quy luật hằng
thường) của trời đất, là thông nghị(định lý phổ biến) của
cổ kim (Đổng Trọng Thư). Nhà Nho đã luân lýhoá vũ trụ và
thượng đế như vậy, do đó phát sinh vấn đề gay go
khơngthể giải quyết được. Làm sao mà chứng minh được
bản chất của vũ trụ làcương thường. Vũ trụ nhân sinh đã là
thiện thì ác ở đâu mà sinh ra, vàlàm sao giải thích được do
lại của tội ác trong xã hội lồi người. Tuy vậy các chi phí
của Nho gia vẫn cố gắng giải quyết vấn đề ấy.Mạnh Tử chủ
trương tính thiện, Tn Tử thì chủ trương tính ác.
DươngHùng thì chủ trương thiện ác lẫn lộn. Hàn Dũ chủ
trương tính chia 3bậc(thượng, trung , hạ). Trong phái “tính
lý” đời Tống thì Liêm Khê nói rằng “tâm chia làmthế dụng
và động tĩnh; thể của tâm là vô tư, dụng của tâm là tư
thơng (tưtưởng thơng suốt); tĩnh là chì chính, động là minh
đạt (sáng suốt)... Độngmà chưa có hình ở chỗ hữu vơ, gọi
là cơ. Cơ có thiện ác “minh đạt” cóthật là động khơng?
Dẫu tĩnh hay động đều là chí minh đạt cả, làm sao nólại là
cái cơ của cái ác được? Để thuyết minh thiện ác, Trương
tác phânbiệt hai thứ tính: thiện địa tinh và khí chất tinh,
ác, tập quán xấu hưởng đến khí chất tính mà sinh ra.
Nhưng tập quán xấu phát sinh từtrong xã hội. Nếu bản
tính của lồi người là thiện thì sao có tập qn xấu
được.Từ Trương Tái trở đi, Trình Hạo, Trình Di, Chu Hi đều
dùng nhị nguyênluận để thuyết minh thiện ác. Trình Hạo
phân biệt Hính với khí bẩm: khí bẩm là cái động của
tính.Vạn vật đều do khí bẩm cả nhưng phân lượng khơng
giống nhau, có khivừa phải có khi thái q, có khí bất cập,
thái quá và bất cập tức là cái ác.Trình Di thì cho rằng lý tức
là tính, khi tức là tình. Tính là thiện nhưngkhi nó phát ra hỉ,
nộ, ai, lạc thì gọi là tình thì có khi thiện, thì có khi ác.Chi
Hy cũng nối góc Y Xun mà cho rằng bản nhiên tính là
thiên lý, màtác dụng của tính là tình là khí. Thế nhưng họ
đều khơng thuyết minhđược vì sao mà tính động và vì sao
khí động mà sinh ra khác nhau.
3. Thái độ của Nho giáo đối với cuộc sống. Trước hết phải
nói Nho giáo là đạo quan tâm đến con người, đếncuộc đời
và tìm thú vui trong cuộc sống. Khác với các tơn giáo ở
chỗ đó.Phật giáo cho cuộc đời là bể khổ nên tìm cách giải
thốt, cần sự “bấtsinh”. Lão giáo cũng yếm thế, bi quan
như vậy, nên cần sự “vơ vi tịch mịch”. Chỉ có đạo Nho là
trong sự sống hơn cả. Không cần phải hỏi tasinh ra ở cõi
đời để làm gì, chết rồi thì đi đâu, chết rồi có linh hồn
nữakhơng “Người muốn biết người chết rồi có biết gì nữa
khơng ư? Chuyệnđó khơng phải là chuyện cần kíp bây giờ,
rồi sau biết” (Khổng Tử giangữ). Cho nên Khổng Tử ít bàn
đến chuyện quỷ thần, đến chuyện quái lạ,huyền bí. Làm
người ở đời hãy lo lấy việc của con người. Chuyện củacon
người lúc sống còn chưa lo hết, lo gì đến việc sau khi chết!
“Phải vụlấy việc nghĩa của con người, cịn quỷ thần kính
mà xa ta” (Luận ngữ)khi khoa học chưa phát triển, các tơn
giáo cịn thịnh hành, những chuyệnmê tín dị đoan cịn
huyền hoặc người ta gây bao nhiêu tai hại, thì thái độ“kinh
nhi viễn chi” là đúng. Khổng Tử tuy chưa thoát ra được cái
“thiệnđạo quan” của đời Chu, nhưng ông đã bắt đầu hồi
nghi quỷ thần, trờimặc dù ơng vẫn trong việc tế trị. Nho
học khuyên con người ta nên yêuđời, vui đời, sống có ích
cho đời cho xã hội. Câu Khổng Tử trả lời Tử Lộ khi ông ta
định sang giúp Phật Bật nêu rõ điều đó: “Ta đây há lại là
quảdưa, chỉ được treo mà không được ăn hay sao” sống ở
đời mà bỏ việc đờilà trái đạo con người. Sống là hành
động, đem tài trí giúp đời Khổng Tửchính là tấm gương cho
các nhà Nho đời sau noi theo. Ông khơng tìm thúvui ở chỗ
ẩn dật hay ở chỗ suy tưởng suông, mà ở chỗ hành động,
hànhđạo. Khổng Tử đi chu du thiên hạ ngồi mục đích tìm
cách thực hiện lýtưởng của mình suốt 14 năm. Khơng ai
dùng, trở về đã 70 tuổi ông vẫndạy học, làm sạch, truyền
bá tư tưởng của mình. Đây có thể nói là điểmsáng nhất
của Nho giáo so với các học thuyết khác, và có lẽ chính
nhờ nómà Nho giáo giữ vị trí độc tơn và ưa chuộng trong
thời gian rất dài củalịch sử. 4. Quan niệm về đạo đức trong
Nho giáo. Trong Nho giáo rất chú trọng dạy đạo làm người.
Phải nói đạo làmngười của Khổng Tử dạy là đạo làm người
trong xã hội phong kiến.Chúng ta đều biết trong xã hội có
giai cấp thì những ngun tắc để đánhgiá hành vi của con
ngươì, phẩm hạnh của con người trong mối quan hệvới
người khác và trong mối quan hệ với nhà nước, Tổ quốc...
đều mangtính giai cấp rõ rệt và có tính chất lịch sử. Những
quan niệm về đạo đứcđiều thiện, điều ác “thay đổi rất
nhiều từ dân tộc này tới dân tộc khác, từthời đại này đến
thời đại khác đến nỗi thường thường trái ngược hẳnnhau”
(Enghen). Những quan niệm đạo đức mà Khổng Tử đề ra
không phải là vĩnhcửu, nhưng có nhiều phương châm xử
thế, tiếp vật đã giúp ơng sống giữabầy lang sói mà vẫn giữ
được tâm hồn cao thượng, nhân cách trong sáng.Suy đến
cùng đạo làm người ấy bao gồm 2 chữ nhân nghĩa. Khổng
Tử giảng chữ Nhân cho học trị khơng lúc nào giống lúc
nào,nhưng xét cho kỹ, cốt tuỷ của chữ Nhân là lòng
thương người và cũngchính là Khổng Tử nói “đối với người
như đối với mình, khơng thi hànhvới người những điều mà
bản thân khơng muốn ai thi hành với mình cả.Hơn nữa cái
mình muốn lập cho mình thì phải lập cho người, cái gì
mìnhmuốn đạt tới thì cũng phải làm cho đạt tới, phải giúp
cho người trở thànhtốt hơn mà không làm cho người xấu
đi” (luận ngữ) “Nghĩa” là lẽ phải.
đường hay, việc đúng. Mạnh Tử nói “nhân là lịng người,
nghĩa là đườngđi của người”; (Cáo Tử thượng) “Nhân là cái
nhà của người, nghĩa làđường đi ngay thẳng của người”
(Lâu ly thượng); “ở với đạo nhân, nóitheo đường nghĩa, tất
cả mọi việc của đại nhân là thế đó” (Tồn tâmthương).
Nghĩa thường đối lập với lợi. Theo lợi có khi khơng làm cái
việcphải làm nhưng trái lại, theo nghĩa có khi lại rất lợi. Có
cái nghĩa đối vớingười xung quanh có cái nghĩa đối với
quốc gia xã hội. Đến đời Hán Nho, Đổng Trọng Thư đưa
nhân nghĩa vào ngũthường. Tam cương ngũ thường trở
thành giềng mối trụ cột của lễ giáophong kiến. Sang Tống
nho, hai chữ nhân nghĩa càng bị trìu tượng hố.Các nhà
Tống nho căn cứ vào thuyết “thiện nhân hợp nhất” khoác
chohai chữ “nhân nghĩa” một màu sắc thần lá siêu hình.
Trời có “lý” ngườicó “tính” bẩm thụ ở trời. Đức của trời có 4
điều: nguyên, hạnh, lợi, trinh;đức của người có nhân,
nghĩa, lễ trí. Bốn đức của người tương cảm với 4đức của
trời. Hệ thống hố lại một cách tóm tắt hai chữ “nhân
nghĩa” ở một sốthời điểm phát triển của Nho giáo như
trên, ta có thể kết luận hai chữ“nhân nghĩa” của Nho giáo
là khái niệm thuộc phạm trù đạo lý, nội dungtừng thời kỳ
có thêm bớt những căn bản vẫn là những lễ giáo phong
kiếnkhơng ngồi mục đích duy nhất là ràng buộc con
người vào khuôn khổpháp lý Nho giáo phục vụ quyền lợi
của giai cấp phong kiến. Trong quátrình phát triển càng
ngày nó càng bị trừu tượng hố trên quan điểm siêuhình.
Tuy nhiên quan niệm đạo đức của Nho giáo quả là có rất
nhiều điểmtích cực. Một trong những đặc điểm đó là đặt rõ
vấn đề người quân tử,tức là người lãnh đạo chính trị phải
có đạo đức cao cả; dù ngun tắc ấykhơng được thực hiện
trong thực tế nó vẫn là một điểm làm chỗ dựa chonhững sĩ
phu đấu tranh. Nho giáo đã tạo ra cho kẻ sĩ một tinh thần
trách nhiệm cao cả với xã hội. Truyền thống hiếu học,
truyền thống khí tiết củakẻ sĩ khơng thể bảo là di sản của
Nho giáo chỉ có tiêu cực
Link tham khảo :
/>