BÀI THI: EM YÊU LỊCH SỬ VIỆT NAM
Câu hỏi 1: Nêu những hiểu biết của em về sự kiện cách mạng tháng 8 và
tuyên ngôn độc lập năm 1945. Lấy dẫn chứng tiêu biểu về những đóng góp của
quê hương em cho thắng lợi của cách mạng tháng 8 năm 1945. Theo em, độc lập
có ý nghĩa như thế nào với một quốc gia?
Trả lời
1. Cách mạng tháng 8 và tuyên ngôn độc lập năm 1945:
Sự kiện cách mạng tháng 8 và tuyên ngông độc lập năm 1945 là một sự
kiện quan trọng đối với đất nước ta. Cách mạng tháng 8 vẻ vang đã diễn ra ở
khắp nơi với sự đồng lịng chung sức của tồn dân tộc.
* Diễn biến của cuộc cách mạng tháng 8:
Diễn biến tại miền Bắc
Khi nhậm chức, bộ trưởng tư pháp Trịnh Đình Thảo của chính phủ Trần
Trọng Kim đã ra lệnh thả hàng ngàn tù chính trị bị Pháp giam giữ trước đó và cho
phép các tổ chức, hội đồn chính trị được hoạt động công khai. Tin đồn dân Nhật
sắp sửa đầu hàng đã lan tỏa khắp nơi tại miền Bắc, lợi dụng cơ hội, dân chúng đã
tụ tập biểu tình, bãi cơng nhiều nơi, như ở Thái Bình vào ngày 11 tháng 8. Từ
ngày 12 tháng 8 năm 1945, các đơn vị Giải phóng qn của Việt Minh lần lượt
tiến cơng các đồn Nhật ở các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Tuyên
Quang, Yên Bái... và hỗ trợ nhân dân các tỉnh này tiến lên giành chính quyền tại
các tỉnh lỵ.
Hội nghị toàn quốc họp ở Tân Trào ngày 13 tháng 8 năm 1945 đã nhận định rằng
những điều kiện cho Tổng khởi nghĩa đã chín mùi và chuẩn bị lãnh đạo toàn dân
khởi nghĩa.
Ngày 14-8 một số cán bộ Đảng Cộng sản và Việt Minh dù chưa nhận được
lệnh khởi nghĩa nhưng căn cứ vào tình hình hiện tại và chỉ thị "Nhật Pháp bắn
nhau và hành động của chúng ta" đã quyết định cùng nhân dân khởi nghĩa, khởi
nghĩa lan rộng ra nhiều xã thuộc các tỉnh ở đồng bằng sơng Hồng như Thanh
Hóa, Thái Bình...
Ngày 14-8 một số cán bộ Đảng Cộng sản và Việt Minh dù chưa nhận được
lệnh khởi nghĩa nhưng căn cứ vào tình hình hiện tại và chỉ thị "Nhật Pháp bắn
nhau và hành động của chúng ta" đã quyết định cùng nhân dân khởi nghĩa, khởi
nghĩa lan rộng ra nhiều xã thuộc các tỉnh ở đồng bằng sơng Hồng như Thanh
Hóa, Thái Bình...
1
Ngày 16 tháng 8 năm 1945, một đơn vị Giải phóng quân của Việt Minh do đại
tướng Võ Nguyên Giáp chỉ huy từ Tân Trào (Tuyên Quang) kéo về bao vây, tấn
công quân Nhật ở thị xã Thái Nguyên.
Tổng khởi nghĩa tại Hà Nội
Sáng ngày 18 tháng 8, Uỷ ban khởi nghĩa Hà Nội chuyển trụ sở làm việc
về số nhà 101 Gambetta (nay là phố Trần Hưng Đạo). Các uỷ viên tích cực chuẩn
bị cho cơng việc sáng hơm sau.
Tinh mơ sáng ngày 19 tháng 8, hàng chục vạn người dân ở Hà Nội và các tỉnh lân
cận theo các ngả đường kéo về quảng trường Nhà hát Lớn Hà Nội. Khoảng 10
giờ rưỡi, cuộc mít tinh lớn chưa từng có của quần chúng cách mạng được sự bảo
vệ của Thanh niên tự vệ, của tổ chức Việt Minh Hoàng Diệu Hà Nội đã diễn ra.
Đại diện Việt Minh tuyên bố: Tổng khởi nghĩa! Sau đó một cánh tiến thẳng tới
Phủ Khâm Sai, cơ quan đầu não của chính phủ, và nhanh chóng làm chủ tồn bộ
khu vực này. Lính bảo vệ Phủ đã hạ vũ khí mà khơng có bất kỳ hành động kháng
cự nào trước sức mạnh của nhân dân Hà thành. Khâm sai Bắc kỳ Nguyễn Xuân
Chữ (người mới đứng ra thay thế ông Phan Kế Toại) bị bắt giữ và đưa về An toàn
khu tại Hà Đơng.
Cùng thời gian đó, ơng Nguyễn Quyết đã chỉ huy nhân dân chiếm Trại Bảo
an binh. Nhưng quân đội Nhật đã can thiệp, đưa xe tăng cùng binh lính bao vây
quanh trại, địi tước vũ khí của lực lượng cách mạng. Ơng Nguyễn Khang và ơng
Trần Tử Bình đã quyết định tiến hành đàm phán với quân đội Nhật vì theo phân
tích thì qn Nhật đã rất rệu rã, khơng cịn tinh thần chiến đấu cao và muốn bảo
tồn lực lượng khi rút về nước. Hơn nữa nếu quân đội Nhật cố ngăn cản thì cũng
khơng được lợi ích gì vì bản thân chính quyền do họ dựng lên quá yếu ớt, không
thể đối trọng với sức mạnh của Việt Minh. Đúng như dự đoán, sau khi tiếp nhận
đề nghị của Ủy ban Khởi nghĩa, Nhật đã đồng ý rút quân nhưng yêu cầu phải có
một cuộc đàm phán chính thức với cấp chỉ huy tối cao của họ.
Chiều tối 19 tháng 8, phái đoàn đàm phán của Việt Minh do ơng Lê Trọng
Nghĩa và cố vấn Trần Đình Long dẫn đầu đã trực tiếp gặp gỡ và đàm phán với
tướng Tsuchihashi - Tổng tư lệnh kiêm Toàn quyền Nhật - ngay tại Tổng hành
dinh quân đội Nhật (nay là 33 Phạm Ngũ Lão). Cuộc đàm phán diễn ra khá gay
go nhưng cuối cùng phía Nhật, đúng như đã được dự đốn, đã chấp nhận án binh
bất động, khơng can thiệp vào công việc của Việt Minh; đổi lại binh lính của họ
sẽ được bảo đảm an tồn, khơng bị Việt Minh tấn cơng. Họ đã chấp nhận chính
quyền cách mạng. Kết quả đàm phán với Nhật mang ý nghĩa quyết định cho
thắng lợi của cuộc tổng khởi nghĩa Hà Nội bởi phe Việt Minh đã không chỉ tránh
2
được cuộc đối đầu trực tiếp với lực lượng vũ trang của Nhật mà còn loại trừ mọi
hy vọng của các lực lượng chính trị khác vào khả năng đảo ngược tình thế tại thủ
đơ vào thời điểm đó.
Diễn biến tại Huế
Ngày 17/8/1945 chính phủ Trần Trọng Kim tổ chức mít tinh ra mắt quốc
dân nhưng cuộc mít tinh đã trở thành cuộc tuần hành ủng hộ Việt Minh. Ngày
23/8 khởi nghĩa giành thắng lợi. Cuộc khởi nghĩa có sự đóng góp của lực lượng
Thanh niên tiền tuyến (Thanh niên Phan Anh).
Diễn biến tại miền Nam
Tại Sài Gòn, Huỳnh Phú Sổ kết hợp các tổ chức chính trị Cao Đài, Hoà
Hảo, Việt Nam Quốc dân đảng, Đại Việt Quốc dân đảng... thành Mặt trận Quốc
gia Việt Nam Thống nhất, tổ chức một cuộc biểu tình lớn chống Pháp.
Diễn biến tại miền Nam
Tại Sài Gòn, Huỳnh Phú Sổ kết hợp các tổ chức chính trị Cao Đài, Hồ
Hảo, Việt Nam Quốc dân đảng, Đại Việt Quốc dân đảng... thành Mặt trận Quốc
gia Việt Nam Thống nhất, tổ chức một cuộc biểu tình lớn chống Pháp.
Đến ngày 28 tháng 8, Việt Minh giành được chính quyền tồn quốc. Hai
tỉnh cướp được chính quyền cuối cùng là Hà Tiên và Đồng Nai Thượng.
Sự kiện vua Bảo Đại thoái vị
Ngày 22 tháng 8, Việt Minh gửi cơng điện u cầu Bảo Đại thối vị, họ đã
giành được chính quyền. Bảo Đại tuyên bố chấp nhận thối vị, từ bỏ ngai vàng và
trở thành cơng dân Vĩnh Thụy. Ngày 30 tháng 8, hàng mấy vạn người tụ tập trước
Ngọ Mơn Lâu xem nhà vua thối vị, ông tuyên bố: "Thà làm dân một nước độc
lập cịn hơn làm vua một nước nơ lệ".
Sau đó cơng dân Vĩnh Thụy trao ấn, kiếm cho đại diện Việt Minh Trần Huy Liệu
và được gắn huy chương. Khi vua Bảo Đại chính thức thối vị, Hồ Chí Minh ở
Tân Trào mới về Hà Nội, dân chúng vẫn chưa biết Hồ Chí Minh chính là Nguyễn
Ái Quốc.
* Tun ngơn độc lập ngày 2 tháng 9 năm 1945
Ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại quảng trường Ba Đình (Hà Nội). Chủ tịch
Hồ Chí Minh đọc bản Tun ngơn Độc lập và tuyên bố sự khai sinh của một
nước Việt Nam mới: Việt Nam Dân chủ Cộng hịa. Bản tun ngơn, dựa theo bản
Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ, bắt đầu bằng câu:
"Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền
khơng ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống,
quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc".
3
Tiếp theo đó, đất nước non trẻ tổ chức tổng tuyển cử, xây dựng nhà nước dân chủ
độc lập đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, Hồ Chí Minh được 98% ủng hộ.
Tại Sài Gòn
Ngày 2 tháng 9 năm 1945, hàng ngàn người dân từ nhiều tỉnh và tại Sài
Gòn kéo về quảng trường Norodom (gần nhà thờ Đức Bà) chờ được nghe Chủ
tịch Hồ Chí Minh đọc tun ngơn độc lập từ quảng trường Ba Đình (Hà Nội).
Nhưng do thời tiết xấu và trình độ kỹ thuật lúc đó, những lời tuyên bố của Hồ Chí
Minh trước quốc dân khơng đến được với những người dự mít tinh. Ơng Trần
Văn Giàu, Chủ tịch Lâm ủy hành chính Nam Bộ bước lên khán đài kêu gọi nhân
dân đoàn kết chung quanh chính phủ Hồ Chí Minh, nâng cao cảnh giác, "sẵn sàng
đập tan mưu đồ của thực dân, đế quốc trở lại xâm lược nước ta lần nữa". Bác sĩ
Phạm Ngọc Thạch, người được cử chức Bộ trưởng Bộ Y tế Chính phủ lâm thời
thay mặt chính phủ tuyên thệ trước quốc dân "Cương quyết lãnh đạo đồng bào
giữ gìn đất nước, vượt qua khó khăn nguy hiểm xây đắp nền độc lập hồn tồn
cho Việt Nam".
Khi cuộc mít tinh chuyển sang biểu tình tuần hành, từ trên những tầng lầu cao
xung quanh, quân Pháp đã nổ súng bắn vào đồn biểu tình tuần hành làm 47
người chết và bị thương. Ngày 23 tháng 9 năm 1945, ông Trần Văn Giàu viết lời
kêu gọi Nam Bộ kháng chiến:
"Hãy nắm chặt vũ khí trong tay, xơng lên đánh đuổi thực dân Pháp, cứu
nước. Cuộc kháng chiến bắt đầu..."
Với sự thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, nhân dân Việt Nam
đã đập tan xiềng xích nơ lệ của Pháp trong gần một thế kỷ tại Việt Nam, chấm
dứt sự tồn tại của chế độ quân chủ chuyên chế gần một nghìn năm, lập nên nhà
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đảng Cộng sản Việt Nam từ chỗ phải hoạt
động bí mật, bất hợp pháp trở thành một đảng cầm quyền và hoạt động cơng khai.
2. Những đóng góp của quê hương em cho thắng lợi của cách mạng
tháng 8:
- Quân nhân có góp phần tham gia chiến đấu tại Hà Nội.
- Nhân dân thi đua tăng gia sản xuất tạo hậu phương vững chắc.
3. Ý nghĩa của Độc lập đối với một quốc gia:
- là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc, tất cả các
dân tộc trên thế giới, dù dân tộc đó là "thượng đẳng" hay "hạ đẳng", "văn minh"
hay "lạc hậu" đều có quyền được hưởng độc lập, đều có quyền sống, quyền sung
sướng và quyền tự do.
4
Câu hỏi 2: Hãy giới thiệu về Văn Miếu-Quốc Tử Giám (khoảng 1-2
trang giấy A4). Theo em, giá trị lịch sử, văn hóa của khu di tích Văn MiếuQuốc Tử Giám được thể hiện ở những điểm nào?
Trả lời
1. Giới thiệu về Văn Miếu - Quốc Tử Giám:
Từ hàng ngàn năm trước, vua Lý Thái Tổ đã dời đô từ Hoa Lư về Đại La
và đặt tên thành là Thăng Long. Trải qua bao biến cố của thời gian và lịch sử, Hà
Nội vẫn lưu giữ trong lịng nó những " dấu xưa oai hùng" cùng với những danh
lam thắng cảnh. Một trong những nơi đó là Văn Miếu – Quốc Tử Giám.
Văn Miếu – Quốc Tử Giám được nhà Lý xây dựng vào thế kỉ 11, với mục
đích chính là dạy học cho các hoàng tử và những người tài trong thiên hạ. Đây
còn là nơi thờ các danh nhân có cơng trong nền giáo dục nước nhà, tổ chức các kì
thi của quốc gia, cao nhất là kì thi tiến sĩ.
Văn Miếu – Quốc Tử Giám nằm ở phía Nam thành Thăng Long xưa. Nay
thuộc quận Đống Đa, Hà Nội. Ở vị trí đắc địa, bốn mặt đều là những con phố
đơng vui, nhưng khơng vì thế mà Văn Miếu mất đi vẻ yên tĩnh, cổ kính vốn có.
Quần thể kiến trúc này nằm trên diện tích 54331m² bao gồm: hồ Văn, khu Văn
Miếu - Quốc Tử Giám và vườn Giám.
Hồ Văn nằm ở đối diện cổng chính Quốc Tử Giám, đã được trùng tu
nhiều năm nay. Đây là một hồ nước trong, quanh bờ cây cối râm mát, giữa hồ có
gị Kim Châu. Cảnh trí rất n bình, nên thơ giúp cho các sĩ tử giải tỏa bớt căng
thẳng trước giờ thi.
Khu nội tự Văn Miếu - Quốc Tử Giám được ngăn cách với vườn Giám và
không gian bên ngồi bằng tường gạch vồ, khơng trát bên ngồi và có bố cục
đăng đối từng khu, từng lớp theo trục Bắc Nam. Những lối đi trong Văn Miếu
đều được trải sỏi hoặc lát đá sạch sẽ. Từ cổng chính Văn Miếu Mơn, vào khu
Nhập đạo, theo đường thẳng tới cổng Đại Trung môn. Ở hai khu vực này trồng
cây bóng mát gần kín mặt bằng và có bốn hồ nhỏ đăng đối hai bên phải trái.
Trong hồ được trồng hoa sen, hoa súng tạo cho cảnh quan càng thêm tươi đẹp.
Quanh hồ được xây những bức tường hoa để ngăn cách lối đi với hồ.
Nối tiếp tới Khuê Văn Các là một lầu vuông tám mái, bao gồm bốn mái
thượng và bốn mái hạ, bốn bên tường gác là cửa sổ trịn hình mặt trời tỏa tia
sáng. Tầng dưới là bốn trụ gạch vuông, chạm trổ hoa văn. Tầng trên làm bằng gỗ
sơn màu đỏ có thếp vàng trừ mái lợp và những phần trang trí góc mái.
Khu tiếp theo là bia Tiến sĩ và hồ nước vuông Thiên Quang Tỉnh (giếng
soi ánh mặt trời). Sát bờ hồ là lối đi và những dãy bia đá trang nghiêm, cổ kính
dựng thành hai khu Đơng và Tây. Mỗi khu chứa hai dãy bia đá, tất cả gồm 82 tấm
bia ghi tên họ quê quán của những người đã đỗ Tiến sĩ triều Lê. Bia được đặt trên
5
lưng các cụ rùa vì theo quan niệm của ơng cha ta, rùa chính là thần Kim Quy, là
một vật biểu linh cho tinh thần, sức mạnh, sự yêu thương, đoàn kết của dân tộc.
Kế tiếp khu bia tiến sĩ và hồ Thiên Quang Tỉnh là Cửa Đại Thành. Bước
qua cửa Đại Thành là tới một sân rộng hàng nghàn mét vuông, lát gạch Bát
Tràng. Đây là nơi xưa kia được dùng làm nơi tổ chức lớp học nghe giảng đạo.
Ngày nay là nơi tập trung tổ chức các sự kiện văn hóa lớn của Hà Nội và quốc
gia. Chính trước mặt là tòa Đại Bái Đường rộng rãi, to lớn trải suốt chiều rộng
của sân. Phía sau và song song với Đại Bái Đường là tòa Thượng Điện gồm chín
gian, tường xây ba phía, mái cong vẩy cá. Thượng điện khi xưa là nơi thờ tự và
học hành. Ngày nay chỉ còn là nơi thờ Khổng Tử và các vị danh nhân. Ở gian
chính của Thượng điện đặt ngai lớn, bên trong có bài vị và tượng đồng của
Khổng Tử. Hai gian bên phải, trái đặt ngai thờ bốn vị Tăng Tử, Mạnh Tử, Nhan
Tử và Tử Tư. Ngoài bài vị ra cả 4 vị đều có tượng gỗ sơn thiếp. Hai bên của sân
là hai dãy Hữu Vu và Tả Vu, cũng là khu triển lãm, trưng bày, bán đồ lưu niệm
cho khách tham quan.
Sau Thượng điện là khu Khải Thánh, nơi thờ cha mẹ Khổng Tử.
Phần sau cùng là khu Tiền đường và Hậu đường: đây là cơng trình hồn
tồn mới, nằm trong dự án trùng tu khu Thái Học khởi công xây dựng ngày 13 - 7
- 1999. Tiền đường là nơi trưng bày truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo,
đồng thời cũng là nơi tổ chức các cuộc hội thảo khoa học, văn hoá nghệ thuật dân
tộc. Hậu đường là kiến trúc gỗ hai tầng. Tầng một là nơi tôn vinh Danh sư Tư
nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An và là nơi trưng bày về Văn Miếu - Quốc Tử
Giám Thăng Longvà nền giáo dụ Nho học Việt Nam. Tầng hai là nơi tơn thờ các
danh nhân đã có cơng xây dựng Văn Miếu - Quốc Tử Giám và đóng góp vào sự
nghiệp giáo dục Nho học Việt Nam. Đó là vua Lý Thánh Tơng, Lý Nhân Tơng và
Lê Thánh Tơng.
Bên ngồi Hậu đường, cịn có nhà chng, lưu giữ chng Bích Ung
được đúc từ năm 1768, và nhà trống có treo trống lớn màu đỏ.
So với trường đại học Bologna ở Italia – ngơi trường đại học cổ nhất cịn
tồn tại ở châu Âu. Ra đời năm 1088 cho đến nay, trường vẫn giữ được những nét
cổ kính với kiến trúc thời Trung cổ. Nổi bật với các dãy nhà màu cam. Mái vịm ở
các hành lang được trang trí những họa tiết cầu kỳ. Quần thể Văn Miếu - Quốc
Tử Giám được xây dựng dựa trên việc kết hợp hài hòa giữa kiến trúc Phật Giáo,
Nho giáo và văn hóa dân gian Việt Nam.
Hàng năm, cứ mỗi độ xuân về, hình ảnh cổ kính, nét xưa lại hiện về thơng
qua những ông đồ “bày mực tàu giấy đỏ, bên phố đông người qua". Và việc xin
chữ đầu năm đã trở thành nét văn hóa riêng của người Hà Nội.
Có thể nói,Văn Miếu – Quốc Tử Giám là biểu tượng của tri thức, văn hóa,
khát vọng trong con đường học tập của các sĩ tử nói riêng và con người Việt nam
nói chung, là nét son thu hút khách du lịch trong nước và quốc tế. Và là khu di
6
tích văn hố hàng đầu và mãi là niềm tự hào của người dân Thủ đô khi nhắc đến
truyền thống ngàn năm văn hiến của Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội.
2. Giá trị lịch sử, văn hóa của khu di tích Văn Miếu - Quốc Tử Giám:
- Bia Tiến sĩ Văn Miếu gồm 82 tấm bia đá khắc các bài văn bia đề danh Tiến sĩ
Nho học Việt Nam của các khoa thi Đình thời nhà Hậu Lê và nhà Mạc (1442 1779) tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Hà Nội.
- Vị trí hiện tại của Văn Miếu – Quốc Tử Giám vẫn tương tự như thời khởi
thủy.
- 82 bia Tiến sĩ ở Văn Miếu – Quốc Tử Giám được UNESCO vinh danh là di
sản tư liệu thế giới là vinh dự và tự hào đối với người dân Hà Nội và cả
nước nhưng vinh dự càng cao thì trách nhiệm càng lớn.
Câu hỏi 3: Trong lịch sử Thăng Long – Hà Nội, em yêu thích nhân vật
lịch sử nào? Vì sao? Hãy trình bày những hiểu biết của em về nhân vật đó.
Trả Lời
1. Trong lịch sử Thăng Long – Hà Nội, em yêu thích nhất nhân vật Lê Lợi.
2. Vì ơng là người đã đánh thắng quân Minh, mang lại độc lập tự do cho
dân tộc.
3. Về nhân vật Lê Lợi:
Trước kia, cụ của Lê Lợi là Lê Hối, đi chơi Lam Sơn, thấy đàn chim bay lượn
quanh chân núi, như hình ảnh nhiều người tụ họp, cho là đất tốt, bèn dời nhà đến
ở đấy. Sau 3 năm thì thành sản nghiệp. Từ đó, họ Lê đời đời làm quân trưởng một
phương.
Lê Hối sinh ra Lê Đinh, nối được nghiệp nhà, có tới hơn 1 nghìn tơi tớ, lấy vợ là
Nguyễn Qch, sinh được hai người con trai, con cả là Lê Tòng, con thứ là Lê
Khoáng . Lê Khoáng lấy vợ người Chủ Sơn (Chủ Sơn nay là Thủy Chú) là Trịnh
Ngọc Thương, sinh được 3 người con trai, trong đó Lê Lợi là con thứ 3.
Lê Lợi sinh vào giờ tý ngày 6 tháng 8 năm Ất Sửu, tức ngày 10 tháng
9 năm 1385 đời nhà Trần. Đại Việt sử ký toàn thư mô tả ông là người "thiên tư
tuấn tú khác thường, thần sắc tinh anh kỳ vĩ, mắt sáng, miệng rộng, mũi cao, trên
vai có một nốt ruồi, tiếng nói như chuông, dáng đi tựa rồng, nhịp bước như hồ".
Lê Lợi lớn lên giữa lúc nước Đại Việt có nhiều biến động. Năm ơng 16 tuổi
(1400), ngoại thích nhà Trần là Hồ Quý Ly sau nhiều năm nắm quyền đã truất
ngơi của Trần Thiếu Đế, tự lên làm Hồng đế, lấy quốc hiệu là Đại Ngu, lập
nên nhà Hồ.
Lê Lợi là vị vua có cơng đánh đuổi qn Minh, chấm dứt 20 năm Bắc thuộc lần
thứ tư và sáng lập nhà Hậu Lê, triều đại tồn tại lâu nhất trong lịch sử Việt Nam.
7
Sau thời kỳ độc lập hơn 400 năm kể từ thế kỷ 10, Đại Việt có nguy cơ trở lại
thành quận huyện của Trung Hoa. Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn của Lê Lợi đã chấm
dứt 20 năm cai trị của nhà Minh tại Đại Việt và chấm dứt hẳn sự đơ hộ của Trung
Quốc thời phong kiến.
Bởi cơng lao đó của ơng nên đời sau cịn nhớ nhà Lê khi bị nhà Mạc cướp ngơi
và đó là một ngun nhân khiến nhà Lê có thể trung hưng (1533). Thậm chí ngay
cả khi con cháu triều Lê khơng cịn nắm được thực quyền thì trên danh nghĩa vẫn
là người đứng đầu thiên hạ. Chúa Trịnh làm phụ chính nhiều đời nhưng vẫn
không dám cướp ngôi nhà Lê cũng bởi sợ dư luận cịn nhớ cơng lao giành lại độc
lập cho đất nước của nhà Lê.
Về cai trị, ông cũng là người thiết lập lại trật tự, quy củ của chế độ phong kiến
các triều đại Lý, Trần trước đây mà các thế hệ vua sau tiếp tục củng cố, phát triển
cao hơn nữa.
Lên ngơi Hồng đế
Sau khi qn Minh rút về, trên danh nghĩa Trần Cảo là quốc vương của nước
Nam. Theo sử sách, đầu năm 1428, Trần Cảo tự biết mình khơng có cơng, lịng
người khơng theo nên bỏ trốn vào châu Ngọc Ma (phủ Trấn Ninh), nhưng khơng
thốt, bị bắt mang về và bị ép uống thuốc độc chết.
Lê Lợi lên ngơi Hồng đế vào ngày 15 tháng 3, năm 1428, sử gọi là Lê Thái Tổ,
chính thức dựng lên triều Hậu Lê. Ơng khơi phục quốc hiệu Đại Việt, đóng đơ
ở Thăng Long và đổi tên Thăng Long thành Đông Kinh vào năm Thuận Thiên
thứ hai (1430).
Lê Thái Tổ sai sứ sang Trung Quốc cầu phong, nhưng nhà Minh khơng chịu, bắt
phải tìm con cháu nhà Trần lập làm hoàng đế. Sứ nhà Minh đi về hai ba lần, sau
Thái Tổ hoàng đế sai các viên quan phụ lão trong nước làm tờ khai rằng con cháu
vua Trần thật sự khơng cịn ai nữa, và xin phong cho Lê Lợi làm vua nước Nam.
Nhà Minh thấy vậy mới thuận nên phong Vương cho ông.
Vua Lê Thái Tổ chia trong nước làm năm đạo:Đông, Tây Nam, Bắc và
Hải Tây. Mỗi đạo đặt một vệ quân, mỗi vệ đặt chức tổng quản(có các chức tổng
quản, đơ tổng quản, đồng tổng quản, trên dưới liên hệ nhau, lớn nhỏ giữ gìn nhau.
Lại đặt chức hành khiển ở năm đạo, chia giữ việc sổ sách và từ tụng của quân
dân, đứng đầu là hành khiển, thứ đến là các chức tham tri, đồng tri, chủ bạ, đạo
thuộc. Các đạo đều đặt các ban tả hữu, giữa của cải chứa trong kho tàng (có chức
đơ tri).
Định quan các lộ, các huyện(lộ đặt tri phủ, chưởng ấn, thứ đến các chức trấn phủ
sứ, an phủ sứ, tuyên phủ sứ, chiêu thảo sứ..) và đặt quan trấn thủ nơi hiểm yếu.
Đặt các quan có các tên gọi: Bình chương, từ đồ (sau thêm chữ đại), đại tư
không, đại tư mã, khu mật đại sứ, thiếu úy, thượng tướng, đại tướng, á hầu, thông
hầu, quan phục hầu, trước phục hầu.
8
Chia các lộ ở Đông Đô làm bốn đạo, đặt các chức văn võ liêu thuộc trong ngồi,
có chức bộc xạ, thị trung, thiếu bảo, hành khiển, thượng thư, hàn lâm, các chức
quan bốn đạo (chức chánh mang hàm tổng tri, coi việc quân dân; chức phó mang
hàm kiên tri quân dân bạ tịch), quan Mật viện, quan các bộ (như Lại bộ Thượng
thư Nguyễn Trãi), quan các sảnh (như Thượng thư sảnh), quan Hàn lâm viện (như
các chức thừa chỉm, học sĩ ), quan Hình viện, quan quân vệ, quan điền binh.
Các chức quan ngồi thì có các chức sứ, quan sát sứ, phòng ngự sứ, tuyên úy sứ,
an phủ sứ.
Các quan văn võ đại thần được vua coi thân tín, đều thêm chữ nhập nội.
Quan võ từ tổng quản, tổng lĩnh, đồng tri xuống đến đại đội trưởng, đội trưởng,
văn từ hành khiển, thượng thư, xuống đến thất phẩm đều là những chức sang, lại
có ngự tiền văn đội, ngựa tiền võ đội và khách đội, thực đội. Lại đặt các quan ở
các xã.
Những người theo đạo Phật, đạo Lão cũng phải thi kinh điển những đạo ấy; hễ ai
thi đỗ thì mới được làm sư hoặc làm đạo sĩ, ai thi trượt thì phải về quê làm ăn.
Về luật pháp, Thái Tổ cho đặt ra bộ luật mới theo như hình luật của nhà Đường:
có tội xuy, tộ trượng, tội đồ, tội lưu và tội tử.
Tháng Giêng, năm 1428, thiên hạ thái bình, vua Lê Thái Tổ sai các quan Tư
không, Tư đồ, Tư mã, Thiếu úy, Hành khiển bàn định pháp lệnh cai trị quân dân,
để người làm tướng biết phép trị quân, quan các lộ biết phép trị dân, cũng để răn
dạy quân dân biết là có pháp luật. Mọi cơng việc đều có các cơ quan phụ trách
riêng, dâng lên vua xem.
Năm Thuận Thiên thứ 2 91429), định luật cờ bạc, đánh bạc thì chặt bàn tay 5
phân, đánh cờ thì chặt bàn tay 2 phân. Những kẻ vô cố không phải việc công mà
họp nhau uống rượu thì bị 100 trượng, kẻ dung túng thì tội giảm 1 bậc.
Về tội ăn hối lộ, nếu ghi nhận ăn hối lộ 1 quan tiền trở lên thì bị xử chém.
Năm Thuận Thiên thứ 1 (1428), đúc tiền Thuận Thiên thơng bảo, tính 50 đồng là
1 tiền. Năm Thuận Thiên thứ 2 (1429) truyền cho các quan trong ngoài bàn phép
dùng tiền. Xuống chiếu rằng:
Tiền là mạch máu của sinh dân, khơng thể khơng có. Nước ta vốn có mỏ đồng,
nhưng tiền đồng cũ đã bị nhà Hồ hủy bỏ, trăm phần chỉ còn được một. Đến nay,
việc quân, việc nước thường hay bị thiếu. Muốn cho tiền được lưu thơng sử dụng,
để thuận lịng dân, há chẳng khó sao? Mới rồi có người dâng thư trình bày, xin
lấy tiền giấy3 thay cho tiền thực . Trẫm sớm khuya nghĩ ngợi, chưa nghĩ ra các
gì. Vì rằng tiền giấy là thứ vô dụng, lại được lưu hành như vật hữu dụng trong
dân, thực không phải là ý nghĩa yên dân, dùng của. Nhưng đời xưa đã có người
cho rằng vàng, bạc, da, lụa, tiền thực, tiền giấy đều khơng thể cân ngang nhau
được, thế thì thứ gì là hơn? Truyền cho các đại thần trăm quan và những người
hiểu việc đời ở trong, ở ngoài, đều nghị bàn quy chế đồng tiền cho thuận lòng
dân, để khơng vì ưa thích riêng của một người mà bắt ép mn nghìn người
9
không muốn phải theo, để làm phép hay của một đời. Nên phải bàn định sớm rồi
tâu lên, trẫm sẽ tự chọn lấy mà cho thi hành.
Trước năm 1428, Lê Lợi đã cho tiến hành bắt những quan lại người Việt phục vụ
cho nhà Minh, bắt vợ con, nô tỳ,tài vật, trâu bò đem giải nộp cho hết, điều tra
những kẻ có lịng khác, thu nhập văn bằng ẩn tin của ngụy quan, theo đúng hạn
nộp lên. Sau đo cho ngụy quan chuộc mệnh, đinh lệ tiền chuộc các vợ cả, vợ lẽ
và nô tỳ của ngụy quan. Vợ Bố chính ty thì 70 quan, dưới đến các hạng sinh viên,
thổ quan, thừa sai, bạn đương, thì vợ là 10 quan, con trai, con gái và nô tỳ từ 10
tuổi trở xuống thì 5 quan.
Năm 1428, sau khi lên ngơi, vua Lê Thái Tổ ra lệnh trị tội những viên quan cộng
tác với nhà Minh. Năm 1429 ông ra lệnh chỉ rằng những người này trước đã có
lệnh cho tha tội chuộc mệnh, thì cho miễn cả ruộng đất (khơng phải sung công).
Tháng 5, năm 1429, Lê Thái Tổ ra lệnh: cho những văn võ hào kiệt nào
còn bị bỏ sót có thể đến chỗ Thiếu phó Lê Văn Linh mà tự tiến, không phân biệt
ngụy quan hay sĩ thứ, cốt lấy tài đức.
Các ngụy quan như Lương Nhữ Hốt, Trần Phong, Đỗ Duy Trung đều được vua
tha chết, sau này cùng nhau mưu phản, đều bị giết.
Ngày 7, tháng giêng năm 1429, Lê Thái Tổ lập con trưởng Lê Tư Tề làm Quận
vương, giúp trông coi việc nước, con thứ Nguyên Long làm Hoàng thái tử.
Năm 1433, Lê Thái Tổ vời Lê Khơi lúc ấy đang trấn thủ Hóa châu về để
bàn định việc lập Thái tử, tháng 8 năm đó, con trưởng Lê Tư Tề bị phế giáng làm
Quận vương, con thứ Nguyên Long kế thừa tông thống. Đại tư đồ Lê Sát được
vua trao trọng trách phụ chính giúp vua Lê Thái Tơng cịn ít tuổi
Thái Tổ ở ngơi được 5 năm thì băng hà vào ngày 22 tháng 8 năm 1433,
hưởng dương 49 tuổi. Vì nhớ cơng Lê Lai chết thay cho mình ở núi Chí
Linh trước kia, ông dặn lại đời sau phải giỗ Lê Lai trước khi giỗ ông một ngày.
Bởi thế đời sau truyền lại câu: Hăm mốt Lê Lai, hăm hai Lê Lợi.
Thái Tổ được an táng tại Vĩnh Lăng, Lam Sơn. Thái tử Lê Nguyên Long
11 tuổi lên nối ngôi, tức hồng đế Lê Thái Tơng.
Miếu hiệu của ơng là Thái Tổ , thụy hiệu là Thống Thiên Khải Vận Thánh Đức
Thần Cơng Duệ Văn Anh Vũ Khoan Minh Dũng Trí Hồng Nghĩa Chí Minh Đại
Hiếu Cao Hồng Đế. Đời sau đều gọi là Thái Tổ Cao hoàng đế hay Cao
Hoàng, Cao Đế.
*********
10