1. I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỆ THỐNG PHÁP LUẬT ÚC
2.
1. LỊCH SỬ PHÁP LUẬT NƯỚC ÚC
Pháp luật Úc và các thiết chế pháp lý chịu ảnh hưởng rất nhiều t ừ
các mẫu hình của Anh như hệ thống thơng luật, ngh ị viện, th ậm chí có
một thời, một số luật của Anh được áp dụng trực tiếp ở Úc . Các quyết
định của các tòa án ở Anh có ảnh hưởng lớn và th ường được viện dẫn
trong quá trình xét xử ở Úc . Pháp luật Úc đã thừa hưởng nhiều từ pháp
luật Anh , như trong vụ Mabo (No 2), thẩm phán Brennan lưu ý, pháp lu ật
Úc “không chỉ là sự thừa kế của pháp luật Anh, mà là s ự phát tri ển h ữu
cơ từ pháp luật Anh” . Tuy nhiên, pháp luật của Úc cũng có những điểm
khác với của Anh, như hình th ức nhà nước liên bang, kéo theo h ệ th ống
pháp luật liên bang và tiểu bang, hệ thống tịa án. Liên bang Úc có Hiến
pháp thành văn của mình, trong khi Anh khơng có Hiến pháp thành văn.
Trên lãnh thổ Úc cũng tồn tại luật và tập quán của người bản địa. Sự khác
biệt về địa lý, thời tiết, lãnh thổ cũng có phần ảnh hưởng đến s ự vận
hành của pháp luật ở Úc .
Sau đây là quá trình pháp triển của hệ thống pháp luật Úc :
- Trước năm 1788: Chỉ có thổ dân sống trên lãnh th ổ Úc ngày nay, với
hệ thống luật và tập quán bộ tộc phức tạp;
- Năm 1788: Thuyền trưởng Arthur Phillip dẫn hải đội đổ bộ lên b ờ
biển New South Wales, đánh dấu sự có mặt của người Anh ở Úc. Người
Anh cho rằng, luật của người bản địa có tính chất thơ sơ, khơng thích h ợp
đối với văn minh châu Âu. Người châu Âu đổ bộ lên đây không th ừa nh ận
bất cứ quyền nào của người bản địa đối với đất đai. Chính ph ủ Anh trao
toàn quyền cho các sĩ quan quân đội và hải quân ở đây.
- Năm 1823: Những biện pháp đầu tiên nhằm áp đặt luật của Anh t ại
New South Wales;
- Năm 1828: Nghị viện Anh thông qua Luật về các tịa án Úc , theo đó, tất
cả mọi luật được áp dụng ở Anh cũng là luật của các thuộc đ ịa ở Austalia
;
- Năm 1901: Các thuộc địa ở Úc thành lập Liên bang Thịnh vượng chung
Úc . Theo đó, bên cạnh thẩm quyền lập pháp của Liên bang, các tiểu bang
(các thuộc địa cũ) cũng có các thẩm quyền lập pháp. Nếu có mâu thu ẫn,
luật của Liên bang bác bỏ luật của tiểu bang.
- Năm 1903, Tòa án Tối cao Austalia được thành lập và trong năm đó
xét xử vụ kiện đầu tiên;
- Năm 1986: Bãi bỏ hoàn toàn cơ chế kháng án lên Hội đồng C ơ m ật
Anh. Từ đây, án lệ Anh khơng cịn có tính chất bắt buộc ở Úc .
Từ năm 1788, khi đoàn thuyền do thuyền trưởng Arthur Phillip dẫn
đầu cập vịnh Botany (Sydney), hệ thống pháp luật của V ương qu ốc Anh
bắt đầu được giới thiệu và áp dụng tại lục địa mới này. Ng ười Anh sau đó
đã hợp thức hóa việc áp dụng luật của họ tại Úc với sự thơng qua Luật
tịa án Úc năm 1828 (Australian Courts Act 1828).
2.HỆ THỐNG LUẬT PHÁP
Kể từ khi chính thức sáp nhập và thành lập chính quyền liên bang
với sự ra đời của bản hiến pháp đầu tiên năm 1901, Úc đã chính thức
được cơng nhận là một quốc gia độc lập. Giống như nhiều n ước t ừng là
một phần hoặc một thời gian dài là thuộc địa của Anh, tổ ch ức nhà nước
của Úc áp dụng mơ hình Westminster có nguồn gốc từ Anh, theo đó
Chính phủ do Nghị viện thành lập và phải chịu trách nhiệm trước nghị
viện. Hiến pháp Úc qui định hệ thống pháp luật liên bang gồm ba ph ần
chính là Lập pháp (Quốc hội liên bang), Hành pháp (Chính ph ủ liên bang)
và Tư pháp (Tòa án liên bang). Ba bộ phận này độc lâp về m ặt tổ ch ức
nhưng hợp tác với nhau trong mọi hoạt động nhằm giúp mỗi ngành có
thêm tính minh bạch và đạt hiệu quả cao.
Do điều kiện lich sử cũng như yêu cầu thực tế về quản lý hành chính
sau khi lập quốc, nước Úc được chia thành 6 tiểu bang (New South Wales,
Victoria, Queesland, South Australia, Western Australia và Tasmania) và 2
phần lãnh thổ (Northern Territory và Australia Capital Territory).
Đi đôi với việc phân chia về mặt địa lý, hiến pháp Úc cũng quy định
quyền lập pháp giữa chính phủ liên bang và tiểu bang. Cụ th ể quy ền lập
pháp của liên bang bao gồm thuế, quốc phòng, hoạt động đ ối ngo ại,
thương mại giữa các tiểu bang và thương mại quốc tế, đầu tư nước
ngồi, thương mại và tài chính, hơn nhân và gia đình, di trú, phá s ản, và
trọng tài cơng nghiệp liên bang. Các tiểu bang có quy ền l ập pháp trong
phạm vi tiểu bang mình. Hiến pháp Úc không quy định cụ thể những lĩnh
vực thuộc quyền lập pháp của tiểu bang nhưng quy định một số lĩnh v ực
tiểu bang khơng có quyền lập pháp như việc ban hành các sắc thuế, ban
hành luật liên quan đến quốc phịng.
a.Lập pháp
Cơng việc lập pháp tại cấp liên bang được đảm nhiệm bởi hai vi ện của
quốc hội (Hạ viện và Thượng viện) và Nữ hoàng Anh (do T ổng toàn
quyền của Nừ hoàng tại Úc làm đại diện). Chức năng lập pháp của Quốc
hội thực hiện dựa trên qui trình đã được thơng qua trong nội qui hoạt
động của Hạ viện và Thượng viện. Nội qui hoạt động này đ ược t ổng h ợp
tư nhiều nguồn như các qui định của Hiến pháp, các bộ luật hi ện hành,
qui tắc của các Đảng chính trị, các quyết định có tính ch ất tiền l ệ, vvv..vvv
Nữ hoàng Anh là người đứng đầu nước Úc , tuy nhiên trong thực tế vị
trí này được đại diện bởi Tổng toàn quy ền Úc (do Thủ tướng Úc đề cử và
Nữ hồng Anh chính thức bổ nhiệm). Trong những năm gần đây ch ức vụ
Tổng toàn quyền Úc đều do người Úc đảm nhiệm. Trong vai trò đại
diện của Nữ hoàng Anh tại Úc, Tổng toàn quyền th ực hiện ch ức năng và
nhiệm vụ được qui định trong Hiến pháp Úc, với sự giúp việc và tư vấn t ừ
các Bộ của Chính phủ. Tại mỗi tiểu bang có một v ị Tồn quy ền đ ảm
nhiệm.
Thượng viện có tổng số 76 thành viên. Số thành viên này đ ược phân bổ
theo nguyên tắc chia đều mỗi tiểu bang 12 thượng nghị sĩ (nhiệm kỳ 6
năm), và mỗi vùng lãnh thổ 2 thượng nghị sĩ (nhiệm kỳ 3 năm). Khi có
vấn đề phải bỏ phiếu, mỗi thành viên (bao gồm cả chủ tich Th ượng
viện) được bỏ 1 phiếu. Nếu hai bên có số phiếu bằng nhau thì vấn đ ề sẽ
khơng được thơng qua.
Hạ viện có tổng số 150 thành viên và được bầu theo khu v ực bầu c ử
với nhiệm kỳ 3 năm. Đảng chính trị nào có được đa số (q 50% t ổng s ố
ghế) sẽ giành quyền thành lập Chính phủ. Khi có vấn đề cần phải bỏ
phiếu thì mỗi thành viên chỉ được bỏ 1 phiếu, trừ vị chủ tọa H ạ viện
không được bỏ phiếu. Chỉ khi số phiếu phản đối và thông qua ngang
bằng nhau, khi đó phiếu chủ tọa Hạ viện mới được bỏ phiếu và đó sẽ là
lá phiếu quyết định.
a.1 Quy trình lập pháp
Khi có những ý tưởng hay và nếu thấy ích lợi cho xã hội, c ộng đồng, các
dân biểu, nghị sĩ có thể đề xuất để những ý tưởng ấy có th ể trở thành
những Dự luật. Một Dự luật (Bill) là một bản thảo của Điều luật (act)
Quốc hội và được đệ trình bởi một hay nhiều thành viên trong thượng
viện hoặc hạ viện. Trước khi một Dự luật trở thành một Điều luật thông
thường phải trải qua một q trình gồm ba Phiên họp thơng qua d ự luật
của hai viện Quốc hội và cuối cùng được Đại diện của Hoàng gia phê
chuẩn.
a.2 Chuẩn bị dự luật:
Trước khi trình, dự luật phải được chuẩn bị rất tỉ mỉ và n ội dung c ủa
dự luật phải được trình bày theo tiêu chuẩn như một văn bản pháp lu ật.
Phần lớn các dự luật được đề xuất từ ý kiến của nhân dân, của các nhóm
lợi ích, từ q trình phân tích chính sách, cương lĩnh tranh c ử, và đ ược các
cơ quan nghiên cứu chính sách của các Bộ trực thuộc Chính ph ủ phân
tích, tổng hợp. Các Bộ trưởng với tư cách là dân bi ểu, nghị sĩ kiến ngh ị lên
Đảng của mình, và nếu được Đảng chấp thuận thì Dự luật đ ược trình
Quốc hội để xem xét biến thành Điều luật của Quốc hội.
Ngoài các dự luật được đưa ra xem xét tại Nghị viện có nguồn gốc từ
Chính phủ, các nghị sĩ và dân biểu được quyền trình các dự luật của mình.
Tuy nhiên, các nghị sĩ khơng được phép trình các dự án luật liên quan đ ến
một số lĩnh vực như về thu, chi ngân sách vì đó là nh ững lĩnh v ực duy
nhất Chính phủ Liên bang mới được phép đệ trình. Văn phịng T ư vấn
Nghị viện có trách nhiệm hỗ trợ các thành viên là tác giả của d ự luật
trong quá trình soạn thảo dự luật để đảm bảo tính thống nhất với hệ
thống pháp luật hiện hành.
a.3 Trình và thơng qua dự luật
Một dự luật có thể được bắt đầu trình ở Hạ viện hoặc Th ượng vi ện,
bởi các dân biểu hay nghị sĩ. Về căn bản, một dự luật ph ải tr ải qua các
bước sau:
Trình dự luật. Những dân biểu, nghị sĩ đề xáut dự luật phải thuyết
phúc mọi thành viên trong quốc hội tại sao phải có dự luật? Nếu d ự lu ật
trở thành điều luật của quốc hội thì người dân sẽ được lợi nh ững gì?
Phiên họp thứ nhất. Dự luật được thảo luận rất kỹ lưỡng. Sau khi xem
xét, điều chính, nếu được thơng qua, dự luật sẽ được chuy ển đ ến Phiên
họp thứ hai.
Phiên họp thứ hai. Rất quan trọng. Sau khi thảo luận, nếu cần ph ải
điều chỉnh, sửa đổi thì dự luật phải được chuy ển cho một Ủy ban Chuyên
trách. Sau khi Uỷ ban này nghiên cứu và điều chỉnh lại, d ự luật sẽ đ ược
chuyển đến Phiên họp thứ ba.
Phiên họp thứ ba. Phiên họp này sẽ rà soát lại dự luật do U ỷ ban
Chuyên trách để được thảo luận và thông qua. Thực tế Phiên họp th ứ ba
chỉ là một nghi thức để mọi thành viên trong quốc hội biểu quyết.
Nếu cả hai viện của quốc hội thông qua, dự luật được chuy ển đến
Tổng toàn quyền (Đại diện của Nữ hoàng Anh tại Úc) phê chuẩn. D ự lu ật
bây giờ trở thành điều luật của quốc hội.
Những ý tưởng tốt ích lợi cho nhân dân, xã hội thông th ường đ ược các
dân biểu, nghị sĩ biến thành dự luật để rồi thành điều luật nhằm ph ục
vụ người dân. Tuy nhiên, vì tính cách cạnh tranh giữa các đảng phái chính
trị trong quốc hội, có những điều luật tơt vẫn khơng được trở thành đi ều
luật như mong muốn.
3.Hệ thống toà án Úc
Giống như mọi thiết chế khác ở Úc, hệ thống toà án nước này chia ra
hai cấp độ: liên bang và các tiểu bang (hoặc vùng lãnh th ổ-territories). Ở
Úc có sự phân chia quyền lực một cách chặt chẽ gi ữa quy ền t ư pháp v ới
các quyền khác . Hệ thống cấp bậc các tòa án của Úc nh ư sau:
Các tòa án theo thủ tục giản lược (Courts of Summary Jurisdiction)
Các tòa này xem xét những vụ án dân sự và hình sự nhỏ, khơng ph ức tạp.
Số tiền tranh chấp là cơ sở để tòa này quy ết định có thụ lý các v ụ kiện
dân sự hay là chuyển lên cấp tòa cao hơn.
Các tòa án cấp quận
Các tòa này xem xét sơ thẩm tất cả các vụ án dân sự và hình s ự nghiêm
trọng. Bồi thẩm đồn tham gia tất cả các vụ án hình sự và trong m ột s ố
vụ kiện dân sự. Các tịa cấp quận cũng có thể xử phúc th ẩm đ ối v ới các
vụ sơ thẩm của tòa giản lược.
Các tòa đặc biệt
Theo quy định của nhiều đạo luật Liên bang và tiểu bang, các tòa đ ặc bi ệt
được thành lập ở Úc nhằm giải quyết tranh chấp trong nh ững lĩnh v ực
riêng biệt như khiếu nại hành chính, cư trú, bảo hiểm xã hội, quy ho ạch…
Mặc dù không phải lúc nào cũng được coi là th ực thi quy ền l ực t ư pháp,
các cơ quan này tạo thành một thứ bậc trong hệ thống tòa án của Úc,
phải tuân theo các án lệ của tòa cấp cao hơn và thường là áp dụng các án
lệ của chính các tịa này.
Các tịa cấp cao (superior courts)
Các tòa cấp cao ở Úc gồm: các tòa án tối cao của từng tiểu bang hoặc vùng
lãnh thổ; Tòa án Liên bang Úc (The Federal Court of Australia); Tịa án Gia
đình Úc (The Family Court of Australia). Các tòa cấp cao v ừa xét x ử s ơ
thẩm, vừa xét xử phúc thẩm đối với các vụ án đã xử ở các cấp tòa th ấp
hơn bị kháng án.
Các Tòa án Tối cao của từng tiểu bang hoặc vùng lãnh th ổ: Về
nguyên tắc, các tòa này có thẩm quyền xét xử dân sự và hình sự đ ối v ới
mọi vụ việc theo thông luật và theo quy định của pháp luật thành văn c ủa
tiểu bang hoặc vùng lãnh thổ. Tuy nhiên, trên th ực tế, Tòa ch ỉ xét x ử s ơ
thẩm những vụ án hình sự nghiêm trọng nhất như giết người, và các v ụ
kiện dân sự có khoản tiền lớn. Trong một số trường h ợp, các Tòa án t ối
cao tiểu bang hoặc vùng lãnh thổ cũng xem xét các vụ kiện liên quan đ ến
thẩm quyền liên bang. Chỉ một thẩm phán của Tòa này xét xử sơ thẩm, có
thể cùng với bồi thẩm đồn. Tịa cũng xét xử phúc thẩm đối với các quy ết
định của các tòa cấp quận, các tòa đặc biệt và các quy ết đ ịnh s ơ th ẩm c ủa
chính Tịa này. Thơng thường có 3-5 thẩm phán xét xử phúc th ẩm.
Tòa án Liên bang Úc: Tòa này được thành lập năm 1976 xem xét các
vấn đề theo quy định của pháp luật thành văn liên bang. Khi xét x ử s ơ
thẩm, chỉ có một thẩm phán của Tịa tham gia; cịn khi xét x ử phúc th ẩm,
có 3 thẩm phán tham gia. Tòa này xét xử phúc thẩm đối v ới các v ụ án s ơ
thẩm của chính mình và các vụ án sơ thẩm liên quan đến các v ấn đề c ủa
liên bang do các Tòa án tối cao tiểu bang hoặc vùng lãnh th ổ đã xem xét.
Tịa án Gia đình Úc: Tịa này có thẩm quyền xét xử riêng đối v ới các
vấn đề được quy định trong Luật Gia đình năm 1975 c ủa Liên bang Úc.
Một thẩm phán của Tòa xét xử sơ thẩm; 3 thẩm phán xét x ử phúc th ẩm
các quyết định sơ thẩm bị kháng án.
Tòa án Tối cao Úc (The High Court of Australia)
Tòa này đứng ở đỉnh của hệ thống tòa án Úc. Tòa có th ẩm quy ền xem
xét sơ thẩm các vấn đề thuộc luật hiến pháp (bao gồm xem xét tính h ợp
hiến của các văn bản pháp luật liên bang) và giải quy ết tranh ch ấp gi ữa
các tiểu bang. Có 1-7 thẩm phán của Tịa tham gia xét x ử.
Tòa án Tối cao Úc cũng xét xử phúc thẩm (có tính chung th ẩm) các v ụ
việc của các Tòa án tối cao tiểu bang, Tòa án Liên bang, và các quy ết đ ịnh
sơ thẩm của chính Tịa này. Tuy nhiên, khơng phải m ọi vụ việc đều đ ược
xử phúc thẩm ở Tòa, mà Tòa sẽ xem xét đơn kháng án, chỉ chấp thuận x ử
phúc thẩm đối với những vấn đề quan trọng. Tùy theo tính ch ất quan
trọng, sẽ có 3-7 thẩm phán của Tòa xét xử phúc thẩm.
Hội đồng cơ mật
Trước đây, Ủy ban Tư pháp thuộc Hội đồng Cơ mật có thẩm quy ền xem
xét những đơn kháng án đối với các quyết định của các toà án ở các nhà
nước thành viên của Khối thịnh vượng chung, trong đó có Úc. Nh ư vậy,
các quyết định của Uỷ ban dựa trên thơng luật có tính ch ất là án l ệ b ắt
buộc phải tuân theo đối với các tòa án ở Úc. Tuy nhiên, từ năm 1986, c ơ
chế này khơng cịn tồn tại ở Úc, và các quyết định của Hội đồng C ơ m ật
không còn được coi là án lệ bắt buộc ở Úc. Đây được coi là m ốc r ất quan
trọng trong lịch sử phát triển của hệ thống pháp luật Úc, đánh dấu s ự
độc lập hồn tồn của nó đối với pháp luật Anh.
II.TỔNG QUAN VỀ HỆ THỐNG TỐ TỤNG
1. HỆ THỐNG TỐ TỤNG DÂN SỰ
2.HỆ THỐNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Tố tụng hình sự Úc là tố tụng hình sự tranh tụng (Adversarial system)
nhưng có nhiều đặc điểm riêng biệt. Do xét xử theo án l ệ nên h ệ th ống
lưu trữ các vụ án tại các thư viện rất lớn. Nhiều vụ án được xét xử t ừ thế
kỷ 18 vẫn còn được lưu giữ để vận dụng trong xét xử hiện nay. Ưu điểm
của việc xét xử theo án lệ là cùng một hành vi, với tính chất, m ức độ, h ậu
quả như nhau thì mức hình phạt cũng phải tương tự nhau cho nh ững b ị
cáo có nhân thân tương tự. Điều đó làm cho vi ệc xét x ử công b ằng h ơn,
tạo niềm tin của người dân vào công lý. Tuy nhiên, không ph ải b ất kỳ v ụ
án nào cũng được trở thành án lệ mà vụ án phải được Tòa án tối cao phê
chuẩn là vụ án mẫu thì mới được áp dụng trong thực tiễn xét xử.
Theo mơ hình tố tụng hình sự tranh tụng, vị trí, vai trò, quy ền hạn c ủa
các bên tham gia tố tụng là khác nhau. Công tố viên là người truy t ố b ị cáo
tại phiên toà nên nghĩa vụ chứng minh trước Toà là trách nhiệm c ủa cơng
tố. Bị cáo khơng có trách nhiệm chứng minh là mình có hay khơng th ực
hiện hành vi phạm tội, họ có quyền khơng khai báo tại Tồ, tuy nhiên h ọ
có quyền khai để bảo vệ quyền lợi của mình. Hoạt động tố tụng chủ y ếu
là hoạt động tranh tụng trước Tịa án giữa Cơng tố viên và Lu ật s ư bào
chữa, ở đó các bên đưa ra các chứng cứ và kiểm tra ch ứng c ứ của bên kia
để chấp nhận hoặc bác bỏ chứng cứ được đưa ra. Cơng tố viên có nhi ệm
thơng báo cho Thẩm phán và đoàn bồi thẩm về những chi tiết quan trọng
của vụ án và pháp luật được áp dụng trong việc đưa ra một phán quy ết
thích hợp. Thẩm phán và thành viên Bồi thẩm đồn khơng tr ực tiếp tham
gia vào q trình tranh tụng, vai trị của Thẩm phán và Bồi th ẩm đồn là
bảo đảm cơng lý trong giai đoạn này và đưa ra quyết định cuối cùng dựa
trên kết quả tranh tụng giữa các bên tại phiên tồ.
Đặc điểm của mơ hình tố tụng tranh tụng ở Úc địi hỏi cơng tác điều tra
phải tỉ mỉ, kỹ càng, khách quan và khoa học. Việc bảo vệ quy ền l ợi c ủa b ị
cáo, người bị hại là nguyên tắc, thể hiện sự dân chủ, khách quan và n ếu
khơng làm được điều đó là cơ quan tư pháp chấp nhận “thua” tội ph ạm.
Tại phiên toà, các luật sư, trạng sư sẵn sàng bác bỏ dù chỉ là ch ứng c ứ th ứ
yếu dẫn đến sự nghi ngờ thiếu khách quan.
Mơ hình này bắt buộc các cơ quan tiến hành tố tụng ph ải th ực hi ện
đúng và đầy đủ các thủ tục theo quy định của pháp luật. Điều tra viên
không chỉ làm nhiệm vụ điều tra mà còn phải là nhân ch ứng đ ể ch ứng
minh hành vi của bị cáo. Hơn nữa, bị cáo không nhất thiết phải khai nhận
nếu họ không muốn. Việc buộc tội nhất thiết phải bằng ch ứng c ứ ch ứng
minh có căn cứ pháp lý và khoa học.
Ngồi ra, chi phí cho việc giải quyết vụ án rất tốn kém. Theo quy đ ịnh
của pháp luật, bên nào thua phải chịu chi phí tố tụng, do v ậy vi ệc kháng
cáo, kháng nghị đều phải tính tốn cân nhắc kỹ càng.
Trên cơ sở mơ hình tố tụng tranh tụng truyền thống, pháp luật Úc quy
định cụ thể chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền của các cơ quan tiến
hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng trong
quá trình giải quyết một vụ án hình sự.
III. NGUỒN LUẬT
1. Án lệ
Ở Úc, án lệ được coi là “dấu hiệu tinh tú của thông luật” ; “nền tảng c ủa
một hệ thống tư pháp thông luật” . Cũng như các n ước khác thu ộc h ệ
thống thông luật - Common Law (Anh, Mỹ, Canada, New Zealand…), ở Úc,
án lệ là nguồn chủ yếu và quan trọng, được dẫn chiếu khi tịa án xét x ử.
Các bên có tranh chấp, thông qua luật s ư của h ọ, cũng l ấy án l ệ đ ể bi ện
luận cho việc kiện tụng của mình.
A.Định nghĩa:
Án lệ là “vụ án đã được giải quyết tạo cơ sở cho việc xét x ử các v ụ án
sau này mà có những sự kiện hoặc vấn đề pháp lý tương tự”. Trong đó, án
lệ cũng được áp dụng đối với việc giải thích luật thành văn, có nghĩa là tịa
cấp dưới phải tn theo cách giải thích luật của tịa cấp trên.
Cần lưu ý rằng, về mặt kỹ thuật, nói một cách chặt chẽ, khi xét x ử, các
thẩm phán không phải tuân theo quyết định (decision) được đ ưa ra trong
vụ án trước, mà chỉ phải tuân theo quy tắc pháp lý trong phần luận c ứ
chính (ratio decidendi) được đưa ra trong bản án tr ước. Ở Úc, tòa án, gi ới
học thuật, luật sư cũng theo quan niệm này.
Án lệ về hình thức là những bản án đã tr ở thành luật, t ạo thành m ột th ứ
luật có tên gọi là luật án lệ (case law) hay luật do th ẩm phán làm ra
(judge-made law), bên cạnh luật do nghị viện ban hành (legislation hay
statutory law). Tuy nhiên, như Blackstone lưu ý, luật và ý kiến c ủa th ẩm
phán thể hiện trong án lệ không phải lúc nào cũng là m ột, vì có lúc th ẩm
phán cũng nhầm lẫn về luật13. Do đó, án lệ khơng ph ải là tuy ệt đ ối ph ải
tuân theo đối với tòa án và thẩm phán trong các vụ án tương t ự sau này,
khi họ cho rằng, án lệ đã khơng cịn phù hợp với bối c ảnh m ới hoặc không
bảo vệ được công lý.
Về bản chất, án lệ là một nguyên tắc tố tụng, theo đó: nh ững bản án s ắp
sửa được tuyên không được trái với những bản án mà tòa cùng cấp hay tịa
cấp trên đã tun và có hiệu lực trước đó nếu như tình tiết c ủa các v ụ án
giống hoặc tương tự nhau.
Khi nào án lệ ra đời?
Ở Úc (và các nước thông luật khác), án lệ ra đời trong nh ững điều kiện
sau đây:
- Khi chưa có luật nhưng tịa vẫn phải xử để bảo đảm cơng lý và b ản án
đó trở thành án lệ (precedent), nghĩa là trở thành luật cho nh ững v ụ vi ệc
tương tự. Khi phán quyết đã được tuyên, nó phải được coi là giải pháp cho
vấn đề tương tự sau này; thẩm phán phải tuân theo phán quyết của vụ án
tương tự được xử trước đó .
- Khi luật khơng rõ ràng, thẩm phán phải tự mình nh ận th ức, gi ải thích
luật và thể hiện nhận thức đó trong bản án. Bản án đó trở thành lu ật cho
những tình huống tương tự.
- Đã có luật nhưng phát sinh tình huống mới mà luật ch ưa dự liệu đ ược
nên thẩm phán phải vận dụng luật hiện hành cho tình huống m ới đó.
Để án lệ có tính chất bắt buộc phải tn theo, cần có hai điều ki ện: thứ
nhất là phải theo thứ bậc trong hệ thống tòa án; thứ hai, quyết định
trước đây của tòa án phải đề cập đến những vấn đề pháp lý t ương t ự và
có các sự kiện pháp lý cũng tương tự. Nếu không th ỏa mãn tính ch ất t ương
tự này, án lệ có thể bị “khu biệt” hoặc “bác bỏ”.
B.Án lệ trong hệ thống thứ bậc các tòa án
Án lệ vận hành dựa trên hệ thống thứ bậc của tòa án Úc. Theo đó, c ơ ch ế
vận hành của án lệ ở Úc gồm các nội dung sau:
(i)
Những án lệ do Tịa án Tối cao Úc đưa ra có tính chất bắt buộc đ ối v ới m ọi
toà án cấp thấp hơn, dù đó là vụ việc theo pháp luật liên bang hay ti ểu
bang. Tuy nhiên, nếu án lệ do một thẩm phán của Tòa án T ối cao đ ưa ra
khi xét xử sơ thẩm, nó chỉ có ý nghĩa th ực tiễn rất hạn ch ế.
(ii) Trong từng tiểu bang hoặc vùng lãnh thổ, những án lệ do các tồ cấp cao
hơn đưa ra có tính chất bắt buộc đối với toà cấp dưới cùng hệ thống
(iii) Giữa các tiểu bang với nhau: Quyết định của tịa án bang này khơng có tính
chất bắt buộc đối với tòa án bang khác. Tuy nhiên, n ếu vụ ki ện liên quan
đến pháp luật liên bang, một thẩm phán xét xử sơ thẩm phải tuân theo
quyết định của hội đồng xét xử ở bang khác về cùng vấn đề đó.
Cơ chế chung như vậy, nhưng ở Úc, án lệ được áp dụng ít kh ắt khe h ơn so
với ở Anh, nhất là trong các vụ việc liên quan đến luật hiến pháp20. Các c ơ
quan xét xử hành chính ở Úc (administrative tribunals) mặc dù khơng đ ược
coi là tịa án đích thực, nhưng cũng tn theo nguyên tắc án lệ nh ư của các
tòa án thường với tính chất linh động hơn.