MỤC LỤC
KẾT LUẬN13
LỜI NÓI ĐẦU
Quy luật là những mối lien hệ khách quan, bản chất, tất nhiên, phổ biến và lặp
lại giữa các mặt, các yếu tố, các thuộc tính bên trong mỗi sự vật, hiện tượng hay giữa
các sự vật, hiện tượng với nhau
Trong thế giới tồn tại nhiều loại quy luật, chúng khác nhau về mức độ phổ biến,
về phạm vi bao qt, về tính chất, về vai trị của chúng đối với quá trình vận động và
phát triển của sự vật, hiện tượng trong giới tự nhiên, xã hội và tư duy. Do vậy, việc
phân loại quy luật là cần thiết để nhận thức và vận dụng có hiệu quả các quy luật vào
hoạt động thực tiễn của con người
Với tư cách là một khoa học về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển, phép biện
chứng duy vật nghiên cứu những quy luật chung nhất, tác động trong toàn bộ các lĩnh
vực tự nhiên, xã hội và tư duy của con người. Đó là: quy luật chuyển hóa từ những sự
thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại; quy luật thống nhất
và đấu tranh giữa các mặt đối lập; quy luật phủ định của phủ định.
Sau đây là phần tìm hiểu của bọn em về các quy luật cơ bản của phép biện
chứng duy vật nhằm tìm hiểu chi tiết cũng như giải đáp những thắc mắc về các quy
luật này.
NỘI DUNG
I
Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành sự thay đổi về chất.
Theo quy luật này, ta có thể thấy rằng những sự thay đổi về chất của sự vật hiện
tượng có cơ sở tất yếu từ những sự thay đổi về lượng của sự vật, hiện tượng và
ngược lại, những sự thay đổi về chất của sự vật, hiện tượng lại tạo ra những biến đổi
mới về lượng của sự vật, hiện tượng trên các phương diện khác nhau. Điều này đã
2
chỉ ra quy luật này chính là phương thức chung của các q trình vận động và phát
triển. Khơng chỉ vậy, đây còn là mối lien hệ tất yếu, khách quan, phổ biến, lặp đi lặp
lại trong mọi quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng thuộc mọi lĩnh
vực tự nhiên, xã hội và tư duy.
a. Khái niệm chất, lượng.
• Khái niệm chất
Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, khái niệm chất, trước hết, là một phạm
trù cơ bản của triết học, dung để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự
vật, hiện tượng; là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính cấu thành nó, cái mà
nhờ đó, sự vật, hiện tượng là nó chứ không phải là cái khác.
Cấu thành nên chất của sự vật, hiện tượng chính là các thuộc tính của sự
vật hiện tượng. Nhưng cũng không thể đồng nhất khái niệm chất với khái niệm
thuộc tính của các sự vật hiện tượng. Bởi vì một sự vật hiện tượng có thể bao
gồm các thuộc tính cơ bản và khơng cơ bản. Chỉ những thuộc tính cơ bản mới
tạo thành chất của sự vật hiện tượng.
Vậy nhờ đâu để xác định chất của một sự vật, hiện tượng ? Không chỉ nhờ
các thuộc tính cơ bản mà cịn nhờ các cấu trúc và phương thức liên kết giữa các
yếu tố cấu thành thong qua các mối liên hệ cụ thể.
Chất không tồn tại thuần tuý tách rời sự vạy hiện tượng. Mỗi sự vật hiện
tượng khơng chỉ có một chất, mà có nhiều chất, tuỳ thuộc vào các mối quan hệ
cụ thể của nó với những cái khác.
•
Khái niệm lượng
Khái niệm lượng là một phạm trù cơ bản của triết học dung để chỉ tính quy
định khách quan vốn có của sự vật hiện tượng về các phương diện: số lượng
các yếu tố cấu thành, quy mô của sự tồn tại, tốc độ, nhịp điệu của các quá trình
vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.
Một sự vật hiện tượng có thể có nhiều loại lượng và nhiều loại chất (tương
ứng với từng loại lượng cụ thể).
b.
Quan hệ biện chứng giữa chất và lượng.
Sự thay đổi về lượng tất yếu sẽ dẫn tới sự biến đổi về chất. Tuy nhiên,
không phải sự biến đổi về lượng bất kì nào cũng dẫn đến sự thay đổi về chất.
Giới hạn mà sự thay đổi về lượng chưa làm chất biến đổi được gọi là độ.
3
Khái niệm độ dung để chỉ khoảng giới hạn trong đó có sự thống nhất giữa
chất và lượng, là khoảng giới hạn mà ở đó sự biến đổi về lượng chưa làm thay
đổi căn bản chất của sự vật, hiện tượng.
Trong giới hạn của độ, sự vật hiện tượng vẫn là nó, chưa chuyển hố thành
sự vật hiện tượng khác.
Khi lượng thay đổi đến một giới hạn nhất định tất yếu dẫn đến sự biến đổi
về chất, giới hạn đó gọi là điểm nút. Điểm nút là giới hạn mà ở đó sự thay đổi
về lượng trục tiếp dẫn đến sự biến đổi về chất.
Sự thay đổi về lượng khi đạt tới điểm nút, tất yếu sẽ dẫn đến sự ra đời của
chất mới. Quá trình này gọi là bước nhảy. Bước nhảy là sự chuyển hoá tất yếu
trong quá trình phát triển của sự vật hiện tượng. Bước nhảy là quá trình thay
đổi về chất của sự vật diễn ra tại điểm nút.
Chất và lượng là hai mặt cùng tồn tại, quy định lẫn nhau: tương ứng với
mỗi loại lượng nhất định thì cũng có một loại chất tương ứng và ngược lại.
Vì giữa chúng có mối quan hệ quy định lẫn nhau nên sự thay đổi về lượng
tất yếu sẽ dẫn đến sự biến đổi về chất và ngược lại.
Tuy nhiên, mối quan hệ giữa chất và lượng có tính độc lập tương ứng. Vì
vậy, khơng phải bất kì sự thay đổi về lượng nào cũng dẫn đến sự biến đổi về
chất. Sự biến đổi này chỉ diễn ra trong thực tế ở những điều kiện nhất định.
Thông thường đó là sự thay đổi về lượng phải đạt tới giới hạn của điểm nút.
c. Ý nghĩa phương pháp luận
Từ việc nghiên cứu quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành
những thay đổi về chất và ngược lại có thể rút ra các kết luận có ý nghĩa
phương pháp luận sau đây:
Sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng diễn ra bằng cách tích
luỹ dần dần về lượng đến một giới hạn nhất định, thực hiện bước nhảy để
chuyển về chất. Do đó, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, con
người phải biết từng bước tích luỹ về lượng để làm biến đổi về chất theo quy
luật đồng thời có thể phát huy tác động của chát mới theo hướng làm thay đổi
về lượng của sự vật hiện tượng . Trong hoạt động của mình, ơng cha ta đã rút ra
những tư tưởng sâu sắc như “tích tiểu thành đại”, “năng nhặt, chặt bị”, “góp gió
thành bão”,…
4
Phương pháp này giúp cho chúng ta tránh được tư tưởng chủ quan, duy ý
chí, nơn nóng, “đốt cháy giai đoạn” chủ quan, nóng vội, duy ý chí, khi lượng
chưa biến đổi đến điểm nút đã thực hiện bước nhảy, muốn thực hiện những
bước nhảy liên tục
Phải thấy được tính đa dạng của các bước nhảy, nhận thức được từng hình
thức bước nhảy, có thái độ ủng hộ bước nhảy, tạo mọi đk cho bước nhảy được
thực hiện một cách kịp thời phù hợp với từng điều kiện cụ thể . cần nâng cao
tính năng động tích cực của chủ thể để thúc đẩy quá trình biến đổi đầy đủ nhất
hiệu quả nhất
∗ Ví dụ:
• Trong q trình học tập
Việc chuyển từ học phổ thông sang học đại học được coi là một bước
chuyển về chất. Khi chúng ta học phổ thơng, chúng ta tích lũy kiến thức dần
dần, ngày này qua ngày khác, sau một thời gian dài chúng ta sẽ học hết tồn bộ
chương trình, nắm vững các kiến thức đó và chúng ta sẽ tiến hành cuộc thi đại
học. Đối với những người đã tích lũy đủ những kiến thức cần thiết họ sẽ vượt
qua kỳ thi và trở thành sinh viên đại học. Đối với những người khác do việc
tích lũy kiến thức chưa đủ lượng, chưa đủ nhiều, chưa sâu sắc thì họ sẽ chưa
vượt qua được kỳ thi,.
Hoặc là ban đầu đi học có thể ta khơng hiểu hết được những gì giảng viên
đã truyền đạt lại tuy nhiên khi ta về nghiên cứu nghiền ngẫm lại ta tích luỹ
thêm được một chút về chất dần dà ta tích luỹ đủ khiến ta thay đổi lượng về cái
ta đã được học và hiểu nó sâu sắc hơn
•
Trong tình u
Khi hai người mới gặp nhau thường thì họ chỉ có một chút gì đó mến cảm
với nhau lúc đầu thơi chứ khó có thể nói là đã yêu nhau được nhưng họ bắt đầu
đi lại nhiều hơn, nói chuyện với nhau nhiều hơn, cùng nhau làm một số việc
như cùng học, cùng đi chơi... qua những chuyện đó họ sẽ dần dần hiểu nhau
hơn, hiểu về con người, tính cách, cá tính của nhau hơn. Dần dần trong họ bắt
đầu nảy nở tình yêu vì thấy rằng đối phương là một ngườiphù hợp với bản thân.
Việc tích lũy về những hiểu biết, những tình cảm, cảm xúc về nhau đó được
xem là việc tích lũy về lượng. Khi những sự hiểu biết đó, những tình cảm đó đủ
lớn, tình cảm đó sẽ có thể chuyển thành tình u. Nhưng thường để chính thức
5
được công nhận là người yêu, họ thường qua một bước gọi là ngỏ lời yêu và
nhận lời yêu. Đây được xem là một "bước nhảy" trong quan hệ giữa hai người
chuyển từ chất này (tình bạn) qua chất khác (tình u).Tuy hiên nếu khơng biết
thực hiện bước nhảy và mình khơng dám tỏ bày thổ lộ với họ để có người khác
đến cướp mất thì sẽ là một điều đáng tiếc lớn.
d. Vận dụng quy luật lượng - chất
• Vận dụng quy luật lượng chất trong quá trình học tập hiện nay của sinh
viên đại học.
Từ việc nghiên cứu quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành
những thay đổi về chất và ngược lại, có thể rút ra một vài kết luận có ý nghĩa
phương pháp luận với việc học tập và rèn luyện của sinh viên đại học như sau:
- Sự vận động và phát triển của sự vật bao giờ cũng diễn ra bằng cách tích
lũy dần dần về lượng đến một giới hạn nhất định, thực hiện bước nhảy để
chuyển về chất và việc học tập của sinh viên chúng ta cũng không thể nằm
ngồi điều đó. Để có một tấm bằng Đại học chúng ta phải tích lũy đủ số lượng
các học phần và để có học phần có kết quả tốt, chúng ta cần phải tích lũy đủ số
lượng đơn vị học trình của các mơn học. Như vậy các kì thi có thể coi thời gian
học là độ, các kì thi là các điểm nút và kết quả thi đạt yêu cầu là bước nhảy, bởi
kết quả thi tốt( bước nhảy) là sự kết thúc một giai đoạn tích lũy tri thức trong
quá trình học tập rèn luyện của chúng ta.
Do đó, trong họat động nhật thức, hoạt độgn học tập sinh viên phải biết
từng bước tích lũy về lượng(tri thức) để làm biến đổi về chất( kết quả học tập)
theo quy luật. Cũng như trong hoạt động của mình ơng cha ta chẳng thường có
câu “tích tiểu thành đại”, “năng nhặt, chặt bị” đó sao?
Những việc làm to lớn của con người bao giờ cũng là sự tổng hợp của
những việc làm bình thường của con người đó. Quy luật này giúp chúng ta
tránh được tư tưởng chủ quan trong học tập và trong hoạt động thực tiễn hằng
ngày.
II
Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập.
a. Vị trí
Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập hay còn gọi là quy
luật mâu thuẫn là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật và
6
là quy luật quan trọng nhất của phép biện chứng duy vật trong triết học, là hạt
nhân của phép biện chứng.
Quy luật về nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển. Vì thế nguồn
gốc của sự phát triển chính là mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn bên trong
của mọi sự vật, hiện tượng.
b. Khái niệm
Khái niệm mặt đối lập dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những
khuynh hướng vận động trái ngược nhau tồn tại khách quan trong tự nhiên, xã
hội và tư duy nhưng đồng thời lại là điều kiện, tiền để tồn tại cho nhau. Ví dụ:
điện tích dương và điện tích âm trong cùng một nguyên tử, sản xuất và tiêu
dùng trong hoạt động kinh tế xã hội hay trong sinh vật có đồng hóa và dị hóa…
Khái niệm mâu thuẫn dùng để chỉ mối liên hệ thống nhất, đấu tranh và
chuyển hóa giữa các mặt đối lập của mỗi sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự
vật, hiện tượng với nhau. Đây là quan niệm biện chứng về mâu thuẫn, khác
căn bản với quan niệm siêu hình về mâu thuẫn. Theo quan niệm siêu hình, mâu
thuẫn là cái đối lập phản lơgic, khơng có sự thống nhất, khơng có sự chuyển
hóa biện chứng giữa các mặt đối lập.
Các tính chất chung của mâu thuẫn:
+ Mâu thuẫn có tính khách quan: mâu thuẫn tồn tại không phụ thuộc vào ý
muốn chủ quan của con người, vấn đề chỉ ở chỗ con người có thể nhận thức
được mâu thuẫn hay khơng.
+ Mâu thuẫn có tính phổ biến: mâu thuẫn khơng chỉ xảy ra giữa sự vật, hiện
tượng này với sự vật hiện tượng khác mà ngay trong chính bản thân mỗi sự
vật hiện tượng cũng tồn tại mâu thuẫn; bất cứ tồn tại nào cũng có mâu thuẫn.
+ Mâu thuẫn có tính đa dạng, phong phú: mỗi sự vật, hiện tượng, q trình đều
có thể bao hàm nhiều loại mâu thuẫn khác nhau, biểu hiện khác nhau trong
những điều kiện lịch sử cụ thể khác nhau; chúng giữ vị trí, vai trị khác nhau
đối với sự tồn tại, vận động và phát triển của sự vật; trong các lĩnh vực khác
nhau cũng tồn tại những mâu thuẫn với những tính chất khác nhau.
c. Quá trình vận động của mâu thuẫn
Trong mâu thuẫn, các mặt đối lập vừa thống nhất với nhau, vừa đấu tranh
với nhau:
7
- Sự thống nhất giữa các mặt đối lập là sự liên hệ, ràng buộc, không tách rời
nhau, quy định lẫn nhau của các mặt đối lập, mặt này lấy mặt kia. Ví dụ: trong
hoạt động kinh tế của xã hội, hai mặt đối lập đó là sản xuất và tiêu dung luôn
liên hệ, ràng buộc mật thiết với nhau, khơng tách rời nhau, có sản xuất mới có
tiêu dùng và ngược lại vì cần phải tiêu dung mà sản xuất.
- Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập là khuynh hướng tác động qua lại, bài
trừ, phủ định nhau của các mặt đối lập. Hình thức đấu tranh của các mặt đối
lập rất phong phú, đa dạng, tùy thuộc vào tính chất, mối quan hệ và điều kiện
củ thể của sự vật, hiện tượng. Ví dụ: hai mặt sản xuất và tiêu dùng trong hoạt
động sản xuất của xã hội luôn tác động qua lại, bài trừ, phủ định nhau, khi mà
sản xuất tạo ra sản phẩm thì tiêu dùng lại tiêu thụ, sử dụng chính những sản
phẩm đó.
- Trong sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập, sự đấu tranh giữa
chúng là tuyệt đối, còn sự thống nhất giữa chúng là tương đối, có điều kiện,
tạm thời; trong sự thống nhất đã có sự đấu tranh, đấu tranh trong tính thống
nhất của chúng.
- Q trình thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập tất yếu dẫn đến sự
chuyển hóa giữa chúng. Sự chuyển hóa giữa các mặt đối lập diễn ra hết sức
phong phú, đa dang, tùy thuộc vào tính chất của các mặt đối lập cũng như tùy
thuộc vào những điều kiện lịch sử cụ thể. Sự tác động dẫn đến chuyển hóa
giữa các mặt đối lập là cả một q trình. Lúc mới xuất hiện, mâu thuẫn thể
hiện ở sự khác biệt và phát triển thành hai mặt đối lập. Khi hai mặt đối lập của
mâu thuẫn xung đột với nhau gay gắt và khi điều kiện đã chín muồi thì chúng
sẽ chuyển hóa lẫn nhau, mâu thuẫn được giải quyết. Mâu thuẫn cũ mất đi,
mâu thuẫn mới hình thành và q trình tác động, chuyển hóa giữa hai mặt đối
lập lại tiếp diễn làm cho sự vật, hiện tượng luôn luôn vận động và phát triển.
Bởi vậy, sự liên hệ, tác động và chuyển hóa giữa các mặt đối lập là nguồn
gốc, động lực của sự vận động và phát triển trong thế giới. Ví dụ: trong sự tác
động qua lại giữa sản xuất và tiêu dùng, khi đòi hỏi của tiêu dùng ngày càng
cao cả về chất và lượng nhưng sản xuất lại chưa đáp ứng được những nhu cầu
đó thì địi hỏi phải có phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn, thúc đẩy quá
8
trình sản xuất phát triển đáp ứng cho nhu cầu tiêu dùng, nhờ vậy mà kinh tế
cũng phát triển.
- Phân loại:
+ Căn cứ vào quan hệ đối với sự vật được xem xét, người ta chia mâu thuẫn
thành mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài.
+ Căn cứ vào ý nghĩa đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật, người ta chia
mâu thuẫn thành mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản
+ Căn cứ vào vai trò của mâu thuẫn đối với sự vận động và phát triển của sự
vật trong một giai đoạn phát triển nhất định, người ta chia mâu thuẫn thành
mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn không chủ yếu.
+ Căn cứ vào tính chất của các quan hệ lợi ích, người ta chia mâu thuẫn thành
mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng.
d. Ý nghĩa phương pháp luận
Trong nhận thức và thực tiễn cần phải tôn trọng mâu thuẫn, phát hiện mâu
thuẫn, phân tích đầy đủ các mặt đối lập, nắm được bản chất, nguồn gốc, khuynh
hướng của sự vận động và phát triển. Trong việc nhận thức và giải quyết các
mâu thuẫn cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể, tức là biết phân tích cụ thể
từng loại mâu thuẫn: cần phân biệt đúng vai trò, vị trí của các loại mâu thuẫn
trong từng hồn cảnh, điều kiện nhất định; những đặc điểm của mâu thuẫn để
có các phương pháp giải quyết phù hợp. Khơng nên sợ mâu thuẫn, không né
tránh mâu thuẫn. Điều này đặc biệt quan trọng đối với sinh viên nói chung và
sinh viên kiểm sát nói riêng trong hoạt động học tập nâng cao kiến thức và
nhận thức cũng như cho công việc sau này: không được né tranh mâu thuẫn mà
phải ln sẵn sàng đối đầu và giải quyết chúng, có như vậy mới hồn thiện
được chính bản thân mình sau này là người có ích cho xã hội.
e. Quy luật mâu thuẫn trong thực tiễn
• Quy luật mâu thuẫn trong quá trình học tập của sinh viên
Học là một quá trình tăng triển về mặt tri thức và áp dụng tri thức ấy vào
thực tiễn cuộc sống. Quy luật mâu thuẫn khơng cho phép chúng ta nghĩ mình
đã có đầy đủ tri thức để giải quyết mọi vấn đề. Quy luật mâu thuẫn đòi chúng ta
vượt qua tất cả mọi định kiến tiêu cực khi muốn loại trừ một số tri thức và chỉ
chấp nhận một loại tri thức nào đó. Quy luật mâu thuẫn địi chúng ta khơng
được ngủ quên trong một vài tri thức nhất định nào đó, mà là khả năng mở ra
9
đón nhận sự phong phú vơ tận của tri thức nhân loại. Quy luật mâu thuẫn phù
hợp với quy luật của tư duy. Sự tiếp thu tri thức giữa các mơn học, các ngành
học cần được nhìn nhận trong mối liên hệ tương tác qua lại. Khơng có loại tri
thức riêng rẽ một mình. Học trong một chỉnh thể thống nhất các môn, vận dụng
khả năng tổng hợp để tiếp thu tri thức và biết phân tích để ghi nhớ tri thức.
III
Quy luật phủ định của phủ định
a. Khái niệm
- Phủ định: là sự thay thế hình thái tồn tại này bằng hình thái tồn tại khác của
cùng một sự vật, hiện tượng trong quá trình vận động và phát triển
- Phủ định biện chứng: là những sự phủ định tạo ra điều kiện, tiền đề cho
quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng
- Phủ định biện chứng có hai đặc điểm cơ bản: tính khách quan và tính kế
thừa:
+ Phủ định biện chứng có tính khách quan vì nguyên nhân của sự phủ định
nằm trong chính bản thân sự vật, hiện tượng, không phụ thuộc vào ý muốn
chủ quan của con người, là kết quả của đấu tranh mâu thuẫn tất yếu bên
trong sự vật, hiện tượng.
+ Phủ định biện chứng có tính kế thừa: kế thừa những nhân tố hợp quy luật và
loại bỏ nhân tố trái quy luật. Không phủ định sạch trơn mà phát triển trên cơ
sở cái cũ hợp lí. Cái mới hình thành tự thân thơng qua q trình loại bỏ
những mặt tiêu cực và giữ lại nội dung tích cực.
Từ đó ta thấy: Phủ định biện chứng là khuynh hướng tất yếu của mối liên hệ
bên trong giữa cái cũ và cái mới, là sự tự khằng định của quá trình tự vận
dộng và phát triển của sự vật, hiện tượng.
b. Nội dung của quy luật phủ định của phủ định
Trong quá trình vận động, chuỗi phủ định tạo nên sự phát triển của sự vật,
hiện tượng, mỗi lần phủ định biện chứng đều tạo ra những điều kiện, tiền đề
cho sự phát triển tiếp theo của nó. Sự vật phát triển khơng diễn ra theo một
đường thẳng đứng mà nó diễn ra theo hình thức “ xốy ốc”, đó cũng là tính chất
“phủ định của phủ định”.
Trong mỗi một chu kì phát triển,sự vật hiện tượng thường trải qua hai lần
phủ định cơ bản với ba hình thái tồn tại chủ yếu. Thơng qua lần phủ định thứ
nhất, nếu nó được thực hiện một cách căn bản thì sự vật sẽ chuyển hóa thành
10
cái đối lập của nó. Sau đó qua lần phủ định thứ 2 hay gọi là phủ định của phủ
định thì cái đối lập ấy lại chuyển hóa thành cái đối lập với nó mà thực chất là
quay trở về với cái ban đầu. Khi đó sẽ kết thúc một chu kì phát triển để chuyển
sang một chu kì mới. Trong đó hình thái cuối mỗi chu kì lặp lại những đặc
trưng cơ bản của hình thái ban đầu nhưng trên cơ sở cao hơn về trình độ phát
triển nhờ kế thừa được những nhân tố tích cực và loại bỏ được những nhân tố
tiêu cực qua hai lần phủ định biện chứng. Lấy một ví dụ đơn giản:
con gà (1) → quả trứng →con gà (2)
Chúng ta không nên hiểu một cách máy móc là cứ qua 2 lần phủ định thì
kết thúc một chu kì phát triển. Trong thực tế chu kì phát triển có thể phải thơng
qua nhiều lần phủ định mới hồn thành.
∗ Ví dụ
Chu kì phát triển của côn trùng qua 4 lần phủ định:
Trứng → Tằm →Kén → Sâu
Tóm lại, nội dung cơ bản của quy luật phủ định của phủ định trong phép
biện chứng duy vật phản ánh mối quan hệ biện chứng giữa cái phủ định và cái
khẳng định trong quá trình phát triển của sự vật hiện tượng. Phủ định biện
chứng là điều kiện cho sựu phát triển, cái mới ra đời là kết quả của sự kế thừa
cái cũ và phát huy nó trong sự vật, hiện tượng mới.
c. Ý nghĩa phương pháp luận
Sau khi nghiên cứu về quy luật phủ định của phủ định, chúng ta cần rút ra
được một số ý nghĩa phương pháp luận như sau:
+ Quy luật phủ định của phủ định là công cụ giúp ta nhận thức đúng đắn về xu
hướng vận động, phát triển của các sự vật hiện tượng. Quá trình phát triển
của mỗi sự vật hiện tượng không đi theo một đường thẳng, mà lại quanh co,
phức tạp, bao gồm nhiều chu trình khác nhau. Và chu trình sau bao giờ cũng
phát triển hơn chu trình trước, thể hiện khuynh hướng tiến lên, cái mới tốt
đẹp hơn thay thế, bổ sung cho cái cũ. Vì vậy, nó khẳng định niềm tin vào xu
hướng tất yếu là phát triển tiến lên của cái tiến bộ, đó là biểu hiện của thế
giới quan khoa học và nhân sinh quan cách mạng.
+ Theo quy luật phủ định của phủ định, mọi sự vật luôn luôn xuất hiện cái mới
thay thế cái cũ, cái tiến bộ thay thế cái lạc hậu; trong tự nhiên thì cái mới ra
đời, phát triển theo quy luật khách quan. Trong đời sống xã hội thì cái mới ra
11
đời trên cơ sở hoạt động có mục đích, có ý thức tự giác và sáng tạo của con
người. Chính vì thế, trong hoạt động của mình con người phải biết phát hiện
cái mới và ủng hộ nó. Khi mới ra đời cái mới ln cịn yếu ớt, ít ỏi, vì vậy,
phải tạo điều kiện cho nó chiến thắng cái cũ, phát huy ưu thế của nó. Do đó,
cần khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, giáo điều, kìm hãm sự phát triển của
+
cái mới, làm trái với quy luật phủ định của phủ định
Theo quan điểm của duy vật biện chứng về sự phát triển đòi hỏi trong quá
trình phủ định cái cũ phải theo nguyên tắc kế thừa có phê phán; tức kế thừa
những cái tinh hoa, đẹp đẽ, đồng thời loại bỏ những gì cũ kĩ, tiêu cực, trái
với quy luật. Qua đó, chúng ta phải biết quý trọng cái mới, kế thừa mặt tích
cực chống trạng thái phủ định sạch trơn
Tóm lại, qua ý nghĩa của phương pháp luận chúng ta cần phải thấy được
rằng: quy luật phủ định của phủ định mang lại cơ sở lý luận để hiểu sự ra đời
của cái mới, cái mới ra đời trên cơ sở cái cũ, kế thừa những mặt tích cực của
cái cũ. Do đó, cần chống và tránh thái độ phủ định sạch trơn, phủ định tồn bộ.
Bên cạnh đó, phải biết q trọng cái mới, sàng lọc giữ lấy cái tích cực, có giá
trị của cái cũ, chống thái độ bảo thủ, khư khư giữ lấy làm cản trở sự phát triển
của xã hội. Và cuối cùng mỗi quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật đề
cập đến những phương diện khác nhau của quá trình vận động và phát triển của
sự vật. Trong thực tế, sự vận động và phát triển của bất cứ sự vật nào cũng là sự
tác động tổng hợp của tất cả những quy luật cơ bản do phép biện chứng duy vật
trừu tượng hóa và khái qt hóa. Do đó, trong hoạt động của mình, cả hoạt
động nhận thức lẫn hoạt động thực tiễn để đạt chất lượng và hiệu quả cao, con
người phải vận dụng tổng hợp tất cả những quy luật đó một cách đầy đủ, sâu
sắc, năng động, sáng tạo phù hợp với điều kiện cụ thể.
d. Vận dụng quy luật phủ định trong hoạt động thực tiễn
Trong thực tế ta đã thấy được việc vận dụng của quy luật phủ định của phủ
định khơng thiếu, điển hình là:
+ Trong thời đại ngày nay, hội nhập đang trở thành xu thế khách quan. Dân tộc
Việt Nam hay bất cứ dân tộc nào khác cũng khơng nằm ngồi xu thế đó. Vấn
đề đặt ra là chúng ta cần phải hội nhập thế nào? Như câu nói nổi tiếng của
những thế kỉ trước đã nói: “ Hịa nhập chứ khơng hịa tan” điều đó cho thấy
12
họ sớm đã vận dụng ý nghĩa phương pháp luận của quy luật phủ định của
phủ định là phải biết kế thừa những tinh hoa, làm mới mẻ cho văn hóa của
Việt Nam, tranh tình trạng bảo thủ, khư khư cái cũ mà làm mai một đi bản
sắc dân tộc.
+ Có thể thấy rõ ràng nhất của việc vận dụng quy luật phủ định của phủ định là
quá trinh đổi mới của đất nước ta. Nền kinh tế thành phần theo định hướng
xã hội chủ nghĩa đặt dưới sự quản lí, điều tiết của nhà nước tạo tiền đề phủ
định nền kinh tế tập trung bao cấp đặt nền móng cho xã hội phát triển cao
+
hơn nó trong tương lại đó là xã hội xã hội chủ nghĩa.
Đối với pháp luật nước ta, việc ban hành, sửa đổi, bổ sung luật cũng đã áp
dụng quy luật phủ định của phủ định đó là cái mới tiến bộ hơn cái cũ; bộ luật
mới bao giờ cũng hơn cái cũ, lấy cái cũ làm cơ sở phát triển cao hơn, mang
tính thực tế hơn trong cuộc sống
IV
Kết luận
Các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật chỉ ra hình thức chung
nhất của sự vận động, phát triển của thế giới vật chất và nhận thức của con
người về thế giới đó, đồng thời các quy luật này cũng tạo cơ sở cho phương
pháp chung nhất của tư duy biện chứng.
Trong phép biện chứng duy vật, nếu quy luật thống nhất và đấu tranh giữa
các mặt đối lập chỉ ra nguyên nhân và động lực bên trong của sự vận động, quy
luật chuyển hoá từ những biến đổi về lượng dẫn đến những biến đổi về chất và
ngược lại chỉ ra cách thức và tính chất của sự phát triển thì quy luật phủ định
của phủ định chỉ ra khuynh hướng, hình thức và kết quả của sự phát triển đó.
Các quy luật này định hướng cho việc nghiên cứu của những quy luật đặc
thù và đến lượt mình, những quy luật cơ bản về sự phát triển của thế giới, của
nhận thức và những hình thức cụ thể của chúng chỉ có tác dụng trên cơ sở và
trong sự gắn bó với những quy luật đặc thù.
Theo triết học Mác-Lênin thì mối quan hệ qua lại giữa các quy luật cơ bản
của phép biện chứng duy vật với các quy luật đặc thù của các khoa học chuyên
ngành tạo nên cơ sở khách quan của mối liên hệ giữa chủ nghĩa duy vật biện
chứng với các khoa học chuyên ngành.
13
14