Triết học cổ điển Đức là giai đoạn phát triển mới về chất trong lịch sử tư
tưởng Tây Âu và thế giới cuối thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIX. Đây là đỉnh cao của
thời kỳ triết học cổ điển phương Tây, đồng thời có ảnh hưởng to lớn tới triết học
hiện đại triết học cổ điển Đức. vì vậy, trở thành một trong ba nguồn gốc hình thành
chủ nghĩa Mác – nguồn gốc triết học (cùng với kinh tế chính trị học Anh và chủ
nghĩa xã hội khơng tưởng Pháp) Triết học Cantơ khởi xướng một phong trào lưu
triết học mới – triết học duy tâm phê phán tiên nghiệm để tiếp đó, Phíchtơ Seu –
ing tiếp tục tìm tịi mở rộng, đến Hêghen nó phát triển thành một hệ thống triết học
duy tâm biện chứng và Phoiơ bắc đã kết thúc triết học cổ điển Đức với chủ nghĩa
duy vật nhân bản của mình. Triết học Cantơ là một hiện tượng hết sức phức tạp.
Cantơ là người đầu tiên có ý đồ và đã được thực hiện ý đồ tổng kết toàn bộ tri thức
Triết học trong lịch sử tư tưởng loài người. Trên tinh thần phê phán, Cantơ đã phê
phán các hệ thống triết học trước đó, gạn lọc kế thừa và phát triển những yếu tố mà
ơng cho là đúng giá trị, từ đó xây dựng một hệ thống triết học riêng theo một mẫu
mực mới – Triết học vạn năng.
B. NỘI DUNG
I. KHÁI QUÁT VỀ TIỀN ĐỀ RA ĐỜI VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC CỔ
ĐIỂN ĐỨC.
1.1. Tiền đề xuất hiện triết học cổ điển Đức.
Vào cuối thế kỷ XVIII, Tây Âu đã đạt được những thành tựu kinh tế - xã hội mới,
khẳng định phương thức sản xuất TBCN, đưa giai cấp tư sản lên địa vị thống
trị.Các cuộc cách mạng xã hội thế kỷ XVII - XVIII mở đường cho sự phát triển các
tư tưởng xã hội tiến bộ, đẩy đến cuộc cách mạng tư sản Pháp (1789 - 1794). Cách
mạng công nghiệp Anh khẳng định sức mạnh của con người trong nhận thức thế
giới, cùng với cách mạng tư sản Pháp thể hiện khả năng cải tạo thế giới, làm rung
chuyển cả châu Âu, đánh dấu sự mở đầu của cách mạng cơng nghiệp. Hai cuộc
cách mạng tiêu biểu đó ảnh hưởng rộng lớn đến phong trào giải phóng ở các nước
châu Âu chống chủ nghĩa phong kiến, phát triển hệ tư tưởng tư sản - hệ tư tưởng
mới và tiến bộ trong lịch sử. Các nhà tư tưởng tư sản đòi hỏi phải trả lại cho con
người những cái mà hệ tư tưởng phong kiến đang phủ nhận. Quyền tự do, bình
đẳng, quyền sở hữu riêng của mỗi cá nhân và quyền mưu cầu hạnh phúc. Hệ tư
tưởng tư sản tuyên bố: con người là thực thể tối cao, con người phải vươn tới trí
tuệ và tự do, phải thực hiện tiến bộ xã hội và hạnh phúc cho con người. Tuy nhiên
về mặt chính trị, chủ nghĩa phong kiến chưa bị tiêu vong hoàn toàn. Ở những nước
mà kinh tế TBCN chưa thể thực hiện việc cải tạo cách mạng tư sản, lực lượng
phong kiến vẫn nắm chính quyền và khơng chịu phân quyền cho giai cấp cịn non
yếu. Sự phục hồi chế độ quân chủ nửa phong kiến Buốcbông ở Pháp, Hội nghị viên
ở Áo thống nhất các lực lượng quân chủ - phong kiến toàn châu Âu. Chứng tỏ lực
lượng phong kiến vẫn đang còn mạnh và đang chuẩn bị phản công lại giai cấp tư
sản. Giai cấp tư sản cảm nhận được khả năng thất bại của mình khơng chỉ từ sự
phản cơng của thế lực phong kiến mà cả từ phía quần chúng bị áp bức, những
người mà sự khẳng định của CNTB cang làm cho đời sống của họ tồi tệ hơn. Ngay
từ những cuộc cách mạng tư sản trước đó trong “đẳng cấp thứ ba” này xuất hiện
những mâu thuẫn và giờ đây chúng trở thành mâu thuẫn đối kháng. Tình hình đó
dẫn đến trong hệ tư tưởng tư sản khuynh hướng thoả hiệp với các lực lượng phong
kiến lại tăng lên, các thể chế phong kiến đến lượt mình lại thích nghi với trật tự tư
sản và trong phạm vi đáng kể được tưu sản hoá. Những mâu thuẫn và thoả hiệp có
biểu hiện rõ nhất ở nước Đức, nơi mà có sự phát triển của CNTB bị cản trở bởi
điều kiện kinh tế và chính trị của nó. Trong thời kỳ đó, nếu nước Anh nhờ cách
mạng tư sản và bước ngoặt công nghiệp mà trở thành quốc gia tư bản lớn mạnh
nhất, và ở Pháp nhờ kết quả của cách mạng tư sản Pháp 1789, giai cấp tư sản đã
tiêu diệt chủ nghĩa phong kiến, tiến nhanh trên con đường tư bản chủ nghĩa thì ở
nước Đức hãy còn là một nước nửa phong kiến bị phân hố cả về kinh tế lẫn chính
trị. Những tàn tích của chế độ nơng nơ, chế độ phường hội, chúa đất, sự tồn tại của
nhiều quốc gia nhỏ bé phụ thuộc lẫn nhau với các thể chế chính trị phản động...,
khơng chỉ kìm hãm sự phát triển mà còn làm tăng thêm mức độ lạc hậu của nước
Đức so với các nước đã phát triển quan hệ TBCN. F. Enghen nhận xét rằng: đó là
“thời kỳ nhục nhã về mặt chính trị và xã hội”... “Mọi thứ đều nát bét lung lay, xem
chừng sắp sụp đổ, thậm chí chẳng còn tới một tia hy vọng chuyển biến tốt lên vì
dân tộc, thậm chí khơng cịn đủ sức vứt bỏ cái thây ma rữa nát của chế độ đã chết
rồi”. Nhưng đồng thời Enghen cũng viết rằng “thời kỳ nhục nhã” đó lại mang một
nét đặc biệt rất đáng tự hào: Đó là thời kỳ vĩ đại trong lịch sử văn hoá, nghệ thuật
và triết học Đức, mỗi tác phẩm xuất chúng của thời đại đó đều thấm đượm tinh
thần phê phán, phản kháng, chống lại chế độ xã hội đương thời. Tinh thần đó tràn
đầy trong các tác phẩm văn học nghệ thuật, triết học của: G.G.Heeđe (1744 1803), G.F.Lêxinh (1729 - 1791), G.F.Sinlơ (1759 - 1805), I.F.G.Phichtơ (1762 1814), S.V.Selling (1775 - 1854), G.V.F.Hêghen (1730 - 1831), Lútvích Phoiơbắc
(1804 - 1872)... các đại biểu lỗi lạc của triết học cổ điển Đức. ở Đức cũng như ở
Pháp, cách mạng đã chuẩn bị tư tưởng cho cách mạng tư sản. Nhưng khác với các
nhà tư tưởng Pháp, các nhà triết học Đức không đồng thời là các nhà hoạt động
cách mạng. Không như P.H.Hônbach (1723 - 1789), R.Điđirô và các nhà hoạt động
khác ở thời kỳ khai sáng, các nhà triết học Đức là những nhà duy tâm. Điều đó
được phản ánh trong sự bất lực tiến hành một cuộc cách mạng chống lại trật tự
phong kiến, và cuối cùng thể hiện ở sự thoả hiệp của họ. Các học thuyết triết học
duy tâm của các nhà triết học cổ điển Đức không thể làm tiền đề cho sự cải tạo tư
sản nước Đức, theo mong muốn mà tun ngơn của họ đã nêu, tự do, trí tuệ, hạnh
phúc và quyền con người. Mác gọi triết học Cantơ là học thuyết Đức của cách
mạng tư sản Pháp. Định nghĩa đó cũng hồn tồn đúng với triết học Phíchtơ,
Sêling, Hêghen. Học thuyết của các nhà triết học Đức về sự phát triển đã gián tiếp
hoặc trực tiếp chống lại các lực lượng phong kiến phản động. V.I.Lênin viết: “lịng
tin của Hêghen vào lý tính của con người và vào quyền lợi của con người và
nguyên lý cơ bản của triết học. Hêghen cho rằng trong thế giới ln diễn ra một
q trình liên tiếp biến hoá và phát triển..., ngay cả cuộc đấu tranh chống hiện
trạng, cuộc đấu tranh chống bất công đang tồn tại và chống điều ác tung hoành
cũng bắt rễ từ quy luật phổ biến là sự phát triển không ngừng”. Song các học
thuyết đó khơng biến thành cách mạng được, nó duy tâm và yếu hèn. Tính chất duy
tâm và tinh thần yếu hèn đó đã dẫn đến những hạn chế trong triết học cổ điển Đức.
Hạn chế của nnó là ở chỗ, các nhà triết học Đức hiểu sự phát triển như một quá
trình tinh thần, một quá trình tự thức tỉnh và sự phát triển của lý tính. Cách hiểu đó
đã xóa nhồ bản chất vật chất của sự cải tạo xã hội hiện thực và về lý thuyết nó
biện hộ cho sự thoả hiệp chính trị với các thế lực phong kiến của giai cấp tư sản.
Vấn đề dặt ra là tại sao các nhà duy tâm tư sản yếu hèn trong điều kiện kinh tế - xã
hội thấp kém của nước Đức lại làm nên những thành tựu vĩ đại trong triết học. Lịch
sử tư tưởng chứng minh rằng, các học thuyết tư tưởng tiến bộ có thể nảy sinh trong
lịng một nước có trình độ kinh tế lạc hậu hơn nếu biết tiếp thu thành tựu mọi mặt
của các nước tiến bộ khác. ở Pháp vào thế kỷ XVIII nền kinh tế kém phát triển hơn
ở Anh, song lại hình thành chủ nghĩa duy vật: Hơnbach, R.Điđro... Chính vì chủ
nghĩa duy vật Pháp dựa trên những thành tựu của chủ nghĩa duy vật Anh thế kỷ
XVII. ở Đức tình hình cũng tương tự. Triết học cổ điển Đức dựa trên những thành
tựu triết học của các nước phát triển châu Âu, nó tiếp thu được tư tưởng giải phóng
tư tưởng cách mạng của các nhà duy vật cách mạng Pháp. Những tiền đề cho sự
phát triển thế giới quan biện chứng đối với lịch sử nhân loại và sự khái quát lý
thuyết phép biện chứng của các nhà duy tâm Đức là: bước ngoặt kinh tế - xã hội có
tính chất thời đại của Anh, bước ngoặt tư tưởng xã hội có tính lịch sử thế giới của
cách mạng tư sản Pháp, sự kế thừa truyền thống triết học biện chứng Đức và đặc
biệt là những thành tựu của khoa học tự nhiên. Những bậc tiền bối của triết học cổ
điển Đức là nhà triết học - toán học Pháp R.Điđro, nhà vật lý học Anh I.Niutơn,
C.Vônphơ... Các học thuyết của họ chứa đựng những tư tưởng biện chứng sâu sắc.
Khoa học tự nhiên lúc này với những phát minh xuất sắc đã vạch rõ tính biện
chứng của q trình tự nhiên, thúc đẩy việc xây dựng phép biện chứng. Những
thành tựu đó phản ánh vào trong tư tưởng, trong những học thuyết của các nhà triết
học cổ điển Đức và là những tiền đề cho những tư tưởng biện chứng thiên tài của
họ. Những thành tựu đó chứng tỏ khoa học tự nhiên đã chín muồi cho sự tổng kết
biện chứng, nó cần xây dựng một phương pháp tư duy và khảo sát mới - phương
pháp biện chứng để có thể phản ánh đầy đủ những quy luật tự nhiên khách quan.
Nếu ở thế kỷ XVII những nhà khoa học bắt đầu từ Bêcơn, Galilê, xây dựng một
cách tự phát phương pháp siêu hình cho nhận thức khoa học thì ở cuối thế kỷ
XVIII đầu thế kỷ XIX, các nhà triết học Đức đã bắt đầu xây dựng phương pháp
biện chứng cho khoa học. Nhưng sự thực hiển nhiên đó trong triết học cổ điển Đức
chưa tiến hành triệt để, nó vẫn là triết học đầy mâu thuẫn trên cơ sở chủ nghĩa duy
tâm xa lạ với tinh thần duy vật càng xa lạ với biện chứng duy vật khoa học. 1.2.
Đặc điểm của triết học cổ điển Đức. Thành tựu và cống hiến. Tuy có những hạn
chế trong lĩnh vực chính trị - xã hội nhưng thành tựu của triết học cổ điển Đức thật
là vĩ đại. Triết học cổ điển Đức mang lại cách nhìn mới về thực tiễn xã hội và tiến
trình lịch sử nhân loại, nó đề cao vai trị hoạt động tích cực của con người. Khắc
phục triết học truyền thống phương Tây. Nó coi con người là chủ thể hoạt động
như là vấn đề nền tảng, xuất phát điểm của một vấn đề triết học. Kế tục tư tưởng
triết học cổ đại (Xôcrat cho triết học là sự tự ý thức của con người về chính bản
thân mình) và phục hưng (coi con người là trung tâm). Cantơ lần đầu tiên hiểu con
người là chủ thể đồng thời là kết quả của quá trình hoạt động của mình, khẳng định
hoạt động thực tiễn cao hơn lý luận. Hêghen phát triển thêm tư tưởng này và coi
bản thân lịch sử phươn thức tồn tại của con người, mỗi cá nhân hoàn tàon làm chủ
vận mệnh của mình. Ơng khẳng định: con người là sản phẩm của một thời đại lịch
sử nhất là định vì vậy nó mang bản chất xã hội. Trước những thành tựu khổng lồ
của kinh tế - xã hội, khoa học - văn hoá. Các nhà triết học cổ điển Đức từ Cantơ
đến Hêghen đều đề cao sức mạnh trí tuệ và khả năng hoạt động cảu con người. Tuy
nhiên, khi nhấn mạnh sức mạnh của con người họ đã rơi vào cực đoan, họ đã thần
thánh hoá con người, coi con người là chúa tể tự nhiên, bản thân giới tự nhiên
nhiều chỗ cũng được họ luận giải như kết quả hoạt động của con người. Tuy vậy
phải thấy một trong những thành tựu to lớn của triết học cổ điển Đức là nó khẳng
định rằng tư duy và ý thức chỉ có thể phát triển trong chừng mực con người nhận
thức và cải tạo thế giới. Con người là chủ thể, đồng thời là kết quả của tồn bộ nền
văn minh do chính mình tạo ra, nghiên cứu tiến trình lịch sử nhân loại cũng như
toàn bộ mối quan hệ con người - tự nhiên như một quá trình phát triển biện chứng.
Tuy từ lập trường duy tâm, các nhà triết học cổ điển Đức đã xây dựng nên các hệ
thống triết học độc đáo, đề xuất được tư duy biện chứng, lôgic biện chứng, học
thuyết về các quá trình phát triển, mà tìm tịi lớn nhất trong tất cả cá tìm tịi của họ
đó là phép biện chứng. Với cách nhìn tổng qt và phương pháp biện chứng, các
nhà triết học cổ điển Đức có ý đồ hệ thống hố tồn bộ tri thức và thành tựu mà
nhân loại đã đạt được. Tiếp thu tinh hoa của siêu hình học thế kỷ XVIII trong việc
phát triển tư duy lý luận và hệ thống hố tồn bộ tri thức lồi người, Cantơ và
Hêghen có ý đồ xây dựng một hệ thống triết học vạn năng làm nền tảng cho thế
giới quan của con người, khôi phục lại các quan niệm coi triết học là khoa học của
các khoa học. Phải nói rằng: triết học cổ điển Đức là giai đoạn phát triển mới về
chất trong lịch sử tư tưởng Tây Âu và thế giới cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX.
Đây là đỉnh cao của thời kỳ triết học cổ điển ở phương Tây, đồng thời nó ảnh
hưởng to lớn đến triết học hiện đại. Mặt hạn chế: Hạn chế chung nhất trong thế
giới quan của các nhà triết học cổ điển Đức thể hiện rõ mâu thuẫn giữa tính cách
mạng - khoa học về tư tưởng với tính bảo thủ về lập trường chính trị - xã hội hầu
hết các nhà triết học thời kỳ này đều xây dựng được hệ thống triết học chứa đựng
những tư tưởng khoa học lớn có tính vạch thời đại, đặc biệt là triết học Cantơ và
Hêghen. Nhưng họ lại không dám tiến hành, thực hiện những cuộc cải cách, bảo vệ
chính thể Nhà nước Phổ phong kiến. Chủ nghĩa duy tâm thần bí, phía trước và bên
cạnh các nhà triết học cổ điển Đức là một dòng triết học duy vật, đặc biệt là tư
tưởng duy vật của các nhà triết học khai sáng. Song các nhà triết học cổ điển Đức
thấy rằng: từ quan điểm duy vật, người ta khơng thể giải thích được thế giới. Bản
chất của thế giới theo họ là tinh thần, do vậy chỉ có thể giải quyết được những vấn
đề cảu thế giới bằng tinh thần. Họ đã từ thế giới tinh thần xây dựng nên những hệ
thống triết học duy tâm, thần bí. Triết học trừu tượng tách rời hiện thực, triết học
cổ điển Đức đưa ra được những tư tưởng tiến bộ, chống chế độ xã hội cũ nhưng đó
chỉ là những tư tưởng, nó khơng đi vào chính trị xã hội và hoạt động cách mạng mà
chỉ là những hệ thống triết lý trừu tượng ở bên trên. Nếu các nhà tư tưởng pháp tiến
hành cách mạng trong thực tiễn, công khai chống lại Nhà nước và giáo hội thì các
nhà triết học cổ điển Đức chỉ suy nghĩ về nó trong tư tưởng, khơng giám cơng khai
chống lại thực tại đó. Họ là các giáo sư chính thức trong các trường Đại học của
vương quốc Phổ, do sợ hãi hiện thực cách mạng, thoả hiệp với giai cấp tư sản, tư
tưởng cách mạng của họ đã phải phủ ngồi triết học cảu mình một lớp vỏ thần bí
duy tâm tự biện, nặng nề, xa rời hiện thực.
II. VÀI NÉT VỀ CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CỦA IMANUEN CANTO.
I.kant là người sáng lập ra triết học cổ điển Đức. Ông sinh ngày 22 - 04 - 1724 và
lớn lên trong một gia đình trung lưu gốc Scốtlen tại Kenítbec, một thành phố cổ
vùng Đông - Bắc nước Phổ trước đây. Mùa thu năm 1740 ông vào học khoa triết
học trường đại học Kenítbec. Ở đây ơng được trang bị không chỉ triết học mà cả
khoa học tự nhiên. Ngay từ những năm trong trường đại học ông đã rất quan tâm
và có năng khiếu về các mơn tốn học và vật lý học và cơ học, vũ trụ học... Năm
1770, ông trở thành giáo sư và là Giám đốc trường Đại học Kennitbéc. Năm 1775,
ông nhận học viện Tiến sỹ triết học với luận văn: “Lịch sử tự nhiên và lý thuyết về
thiên hà”. Cantơ không hề ra khỏi thành phố quê hương quá 60 dặm và suốt đời
độc thân. ông mất ngày 12 tháng 4 năm 1804. Ở trường đại học Kenitbéc, Cantơ
giảng một loạt các mơn học: Siêu hình học (triết học) và lơgíc học, tốn học và cơ
học, vật lý học và địa chất học, nhân loại học và lịch sử tự nhiên đại cương. Ơng
cịn giảng cả vũ trụ học, địa vật lý, nhân chủng học. Cũng ở đây, Cantơ đã tập trung
toàn bộ sức lực và thời gian để thực hiện nhiệm vụ mà cả cuộc đời ông đã dặt ra
cho mình là xây dựng một hệ thống triết học mới. Nhiều cơng trình khao học tự
nhiên và triết học của ông đã ra đời, nâng ông lên vị trí một trong những học giả
un bác nhất thời đó. Những học thuyết của ông thống trị tư tưởng khao học và
triết học tư sản TK XIX. Ông đã để lại cho nhân loại một trong những hệ thống
triết học độc đáo và sâu sắc nhất. Quá trình phát triển triết học của Cantơ diễn ra
qua hai thời kỳ. Thời kỳ 1: Từ năm 1770 trở về trước. Thời kỳ 2: Từ năm 1770 đến
cuối đời. Bởi nhiệm vụ triết học trong thời kỳ 2 do Cantơ đặt ra là phê phán (các hệ
thống triết học trước đó) nên thời kỳ này được gọi là thời kỳ phê phán. Còn thời kỳ
1, tư tưởng phê phán chưa rõ ràng nên được gọi là thời kỳ tiền phê phán. 2.1. Thời
kỳ tiền phê phán và những tư tưởng triết học khoa học tự nhiên. Thời kỳ 1, Cantơ
đã quan tâm đến nhiều lĩnh vực mà ông đang giảng dạy và nghiên cứu trong trường
Đại học nhưng chủ yếu tập trung vào triết học tự nhiên. Nghiên cứu những vấn đề
trong lĩnh vực triết học tự nhiên. Cantơ xuất phát từ niềm tin cho rằng: Triết học
với tư cách là một khoa học lý thuyết tự biện có thể lý giải được mà không cần đến
kinh nghiệm.Thời kỳ này, với những thành công trong khoa học ông là người lạc
quan, tin tưởng vào khả năng nhận thức thế giới của con người. Trong thời kỳ này
Cantơ viết một khối lượng lớn các cơng trình về triết học, khoa học tự nhiên. Đặc
điểm rõ rệt trong các cơng trình này là những tư tưởng triết học và khoa học tự
nhiên gắn bó chặt chẽ với nhau. Ở nhiều ngành khoa học tự nhiên, nơi mà Cantơ
bỏ công nghiên cứu, ông đều đề xuất được những ý tưởng có giá trị. Trong vật lý
học, khi phát triển các tư tưởng về sự vận động, về lực hấp dẫn của các nhà toán
học, vật lý học và
Thời kỳ tiền phê phán
Hệ thống triết học phê phán của Cantơ được thể hiện trong ba tác phẩm “ Phê phán
lý tính thần túy” (1781), “Phê phán lý tính thực tiễn” (1788), “ Phê phán năng lực
thực tiễn” (1790). Trong ba tác phẩm này, trước hết Can tơ đã trình bày lý luận phê
phán về nhận thức, đạo đức và giá trị. Vấn đề nhận thức được nghiên cứu trong
triết học lý luận, vấn đề đạo đức được nghiên cứu trong triết học thực tiễn, vấn đề
giá trị được nghiên cứu trong triết học thực tiễn, vấn đề giá trị được nghiên cứu
trong mỹ học. Thực hai, ông chỉ rõ nhiệm vụ của triết học phê phán là không đi về
vấn đề nguồn gốc thế giới mà đi sâu tìm hiểu con người, đánh giá khả năng của trí
tuệ: “ tơi có thể biết được cái gì?”, “tơi cần phải làm gì?”,” tơi có thể hy vọng về
cái gì?”. Bản chất của triết học phê phán là tự ý thức về mình. Thứ ba, là phép biện
chứng tiêu cực đã nhấn mạnh tính tất yếu của mâu thuẫn lý tính, ơng cho lý tính
khơng đạt tới vật tự nó, buộc phải thỏa mạn với hiện tượng. Bnar thân phép biện
chứng là “ Logic của bên ngoài”. Toàn bộ triết học phê phán của Can tơ chứa đựng
tinh thần nhân đạo và mục đích đem lại cho con người những cách nhìn mới về thế
giới, về bản thân mình, đưa con người tới tự do và hạnh phúc.
III. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC CANTƠ
3.1 Lý luận nhận thức của Cantơ
Lý luận nhận thức ( triết học lý luận) của Can tớ ghiên cứu khả năng nhận thức của
co người làm rõ “ tơi có thể biết được cái gì?”
-
Điểm xuất phát để nhận thức bất kỳ cái gì là phải nghiên cứ cơng cụ của
nhận thức và khả năng của nhận thức. Can tơ nêu ra vấn đề như vậy là đúng
vì nhiệm vụ của triết học lf phải nghiên cứu các khả năng của nhận thức,
mối liên hệ giữa các tri thức với thực tại khách quan, nghiên cứu các mức
-
độ, các hình thức, mối liên hệ giữa các tri thức với thực tại khách quan,
nghiên cứu các mức độ, các hình thức, các điều kiện và tiêu chuẩn đúng
đắncủa nhận thức. Song, cách đặt vấn đề trong triết học của Can tơ không
đúng ở chỗ khả năng nhận thức của con người là khả năng lý trí thuần túy đã
có sẵn, khơng thay đổi ở bên ngồi q trình nhận thức. Sai lầm của triết học
của Can tơ là tách rời khả năng nhận thức với quá trình nhận thức, tách mình
ra khỏi lịch sử nhận thức.
Cantơ coi các sự vật của thế giới là “ vật tự nó” tồn tại bên ngồi ý thức của
con người. Theo ơng, thế giới vật chất tồn tại khách quan dưới dạng những
sự vật cá biệt, tuy nhiên, khi nghiên cứu nó, chúng ta gặp phải mâu thuẫn
trong nhận thức:
+ Một mặt, nếu thừa nhận tri thức phản ánh thế giới khách quan, mà thế giới
khách quan tồn tại dưới dạng các sự vật cá biệt, thì tri thức đó phải là tri thức
riêng lẻ, ngẫu nhiên chứ không phải là tri thức phổ biến, tất yếu.
+ Mặt khác, nếu đòi hỏi tri thức phải mang tính phổ biến, tất yếu thì phải
thừa nhận tri thức này không phản ánh các sự vật cá biệt, không phản ánh
thế giới khách quan, nghĩa là thừa nhận tri thức chỉ là sản phẩm của tư duy.
Để giải quyết mâu thuẫn trên ông buộc phải đưa ra khái niệm vật tự nó và
thừa nhận sự tồn tại của tri thức tiên nghiệm.
Ông cho rằng, do thế giới vật chất, xét về bản chất, là vật tự nó, nên con
người khơng nhận thức được bản chất của thế giới, mà chỉ nhận thức được
hiện tượng của nó. Từ đó, ơng rút ra kết luận: tri thức của con người không
phản ánh bản chất của thế giới khách quan mà chỉ phản ánh các hiện tượng
của nó mà thôi.
Như thế, một mặt ông thừa nhận thế giới khách quan là các sự vật hiện
tượng tồn tại khách quan (duy vật), nhưng mặt khác, ông cho rằng con người
không nhận thức được bản chất thế giới – vật tự nó (bất khả tri).
Tóm lại, với mục đích xây dựng một hệ thống tri thức tiên nghiệm làm nền
tảng cho khoa học và triết học như một khoa học, Cantơ buộc lịng phải thừa
nhận vật tự nó.
Vật tự nó được Kant hiểu theo 3 nghĩa:
1.Tất cả những gì thuộc lĩnh vực hiện tượng mà chúng ta chưa nhận thức
được
2.Tất cả những gì thuộc về bản chất của mọi sự vật khách quan, tồn tại bên
ngoài chúng ta (thuộc lĩnh vực siêu nghiệm) mà chúng ta không thể nhận
thức được
3.Tất cả những lý tưởng, những chuẩn mực, sự hoàn hảo tuyệt đối mà con
người cố vươn đến nhưng không đạt được (Thượng đế, tự do, linh hồn).
Khi coi vật tự nó – bản chất thế giới khơng nhận thức được, Kant xác định
đối tượng nghiên cứu của triết học lý luận của mình khơng phải là bản chất
của thế giới mà là những hoạt động nhận thức của con người để chỉ ra những
quy luật và giới hạn củ trí tuệ, nghĩa là nghiên cứu chủ thể nhận thức (chủ
thể tiên nghiệm)
3.2 Quan niệm về nhận thức
Nơi Kant, vấn đề khơng cịn là sự nhận thức các đối tượng, cho dù sự nhận thức
này là một nhận thức thực tiễn (siêu hình học, thực nghiệm hay duy vật) hay một
sự nhận thức thuần tuý duy tâm. Đối với Kant, sự nhận thức đối tượng là công việc
của khoa học cá biệt. Thay vì đề cập tới chuyện đó, thì vấn đề được bàn đến ở đây
là «cách nhận thức về đối tượng», hay như chính Kant nói: «điều kiện sự khả hữu
(hợp lý)» của các đối tượng. Như vậy đối với Kant, điểm xuất phát không phải là
đối tượng nhận thức đã được cấu thành theo một cách thức nhất định nào đó,
nhưng là sự thẩm định phẩm chất giá trị (Geltungsqualifikation), tức những điều
kiện làm cho sự tri thức trở thành sự tri thức có dẫn chứng (begründetes Wissen),
nghĩa là sự tri thức hữu lý. Theo quan điểm Kant, triết học trở thành học thuyết về
nguyên nhân cuối cùng của sự tri thức nói chung. Sự tri thức triết học là sự tri thức
các nguyên lý, chứ không phải là sự tri thức các đối tượng.
Nhưng tại sao vấn đề giá trị của sự tri thức đối với Kant lại mang tính cách quyết
định như thế? Cantơ cho rằng, là một «xì-căn-đan của triết học» khi nó cịn quan
tâm tìm hiểu về «thế giới ngoại cảnh bên ngồi», nghĩa là về thực tại, để biết nó
độc lập với tư duy như thế nào. Dĩ nhiên, tư duy được nói đến ở đây khơng phải là
tư duy của một cá nhân nào đó, nhưng là tư duy xét như là nguyên lý, tức cái tinh
hoa hay cái nòng cốt làm điểm tựa cho những hình thức nhận thức, tức những hình
thức được tìm gặp trong sự suy tư. Theo Kant, tự bản chất, hữu thể trong triết học
thì bất khả tiếp cận.
Nếu bản chất hữu thể là như vậy, thì nó cần phải có một sự tự khẳng định riêng
(Eigenbestimmtheit) đối diện với sự nhận thức. Tiếp đến, dĩ nhiên sự tư duy khơng
cịn có thể chắc chắn về những nhận thức của nó nữa, và khơng có thể tạo nên
những nhận thức có giá trị như thế, bởi vì những điều kiện của tri thức thì tiên
nghiệm đối với sự tư duy hay nói một cách khác: những điều kiện tư duy thì vượt
ra ngoài sự tư duy. Vậy, theo Cantơ, chứng cớ của sự tri thức có giá trị chỉ có thể đi
theo con đường khác ngược lại, tức sự tư duy xác định cái được gọi là «khách quan
tính». Cịn theo chính ngơn ngữ của Cantơ thì: «Trí năng khơng nhận lãnh các quy
luật (tiên nghiệm) của nó từ thiên nhiên, nhưng chính trí nắng điều khiển thiên
nhiên.»
Quan điểm này đem đến những hậu quả cho ý niệm về chân lý. Sự định nghĩa cổ
điễn về chân lý được dựa theo lý thuyết thích đáng (Adäquationslehre), tức cho
rằng chân lý là sự hoà điệu hay sự đồng thuận giữa sự nhận thức và đối tượng.
Nhưng nếu như vấn đề khơng cịn liên quan gì tới cái ở trong «thế giới bên ngồi»,
tức đối tượng nữa, thì sự thể sẽ ra sao? Và trong trường hợp này thì sự nhận thức
có thể được dẫn vào trong sự hòa điệu hay sự đồng thuận bằng cái gì? Với những
câu hỏi này, ý niệm trọng tâm về «phê bình lý trí thuần t» đã đạt tới đích, đó là:
Sự phán đốn!
Trong chính trọng tâm của nó thì lý thuyết về giá trị là lý thuyết về sự phán đốn,
và điều đó cho thấy triết gia Cantơ vẫn còn tắm gội trong dòng nước triết học
Aristote, vì ơng đã gọi sân khấu của nhận thức là sân khấu của phán đoán. Tuy
nhiên, một điều quá minh bạch đối với Kant là chủ đề về triết học lý thuyết chỉ có
thể là điều thuộc về lý thuyết phán đoán như là sân khấu của nhận thức và của tri
thức. Và trong điểm này lại chứng minh cho thấy Kant đã hồn tồn thốt khỏi ảnh
hưởng triết học của Aristote.
Kant hiểu rằng khoảnh khắc tiên nghiệm của sự chiêm ngưỡng và của ý niệm trước
hết thuộc về lý thuyết phán đốn; và trong «sự phê bình» thì «tính thẩm mỹ tiên
nghiệm» với lý thuyết về không gian và thời gian; cũng vậy, «luận lý tiên nghiệm»
với sự suy diễn của nó về các phạm trù, thì tương hợp với những khoảnh khắc tiên
nghiệm như thế. Bởi vì, trong sự phán đoán, vấn đề được đề cập tới là sự tương
quan xác định giữa ý niệm về chủ thể và ý niệm về thuộc từ, ví dụ như trong câu
«tờ giấy thì xanh» (CT là TT). Nói một cách triết học tiên nghiệm: Ý niệm về chủ
thể thay thế vị trí sự khả bảo đảm chắc chắn, bởi vì người ta muốn cảm nghiệm
được nhiều hơn nữa ý niệm về chủ thể qua một dãy các thuộc từ, và ý niệm về
thuộc từ thay thế sự bảo đảm chắc chắn, bởi vì ý niệm về thuộc từ là ý niệm đã
mang tính cách chắc chắn hơn. Điểm then chốt nơi Kant là sự khả bảo đảm chắc
chắn về một cái gì đó thì khơng thể bất định một cách tuyệt đối được; nếu khơng,
nó khơng phải là một số lượng lý thuyết và hoàn toàn trống rỗng, như trường hợp
của hữu thể đối với Kant vậy. Chỉ có thể trở nên khả bảo đảm chắc chắn một điều
tối thiểu đã được xác định trong không gian và thời gian qua sự thoả mãn được
những điều kiện nhận thức. Như vậy, «hữu thể» ở đây trong sự bảo đảm chắc chắn
của nó ln ln là «hữu thể thực hữu», thực hữu bởi những điều kiện nhận thức
và thực hữu cho sự nhận thức tiếp theo. Dĩ nhiên, cái hữu thể thực hữu đó chắc
chắn khơng được phát sinh do sự nhận thức, nhưng cái hữu thể thực hữu đa dạng
thay thế cho tính ngẫu nhiên bất khả dụng trong sự nhận thức khơng do tư duy.
Trở lại sự thích đáng và vấn đề chân lý. Để tiến xa hơn nữa trong vấn đề này, Kant
đã vượt ra khỏi luận lý học hình thức mà trong lãnh vực của nó bao gồm cả lý
thuyết về sự phán đốn. Bởi vì luận lý hình thức chỉ có liên hệ với hình thức nhận
thức và trừu xuất tất cả mọi nội dung ra. Nhưng khách quan tính được lý hội nhờ
các phạm trù. Kant nêu lên mười hai cách thức phán đoán khả dĩ, tương đương với
mười hai chức năng đồng nhất (phạm trù), tức những yếu tố cấu thành sự đồng
nhất giữa ý niệm chủ thể và ý niệm thuộc từ. Mười hai phạm trù này là qui luật tối
cao của luận cứ về khách quan tính.
Dĩ nhiên, người ta khơng được quan niệm tác phẩm «Phê bình lý trí thuần t» như
một hệ thống tuyệt đối về lý trí, hay như một «Organon»(2), nhưng như là sự «phê
bình» bao qt mở rộng, và do đó các khoa học sau thời đại Kant, như các khoa
học về tinh thần, đã dễ dàng được hòa nhập. Nhưng một điểm có tính cách quyết
định vẫn ln là ngun lý hợp nhất, một nguyên lý không những làm nhiệm vụ
nguyên lý hợp nhất mười hai phạm trù, nhưng cả cho sự mở rộng của các phạm trù
đó nữa. Đó chính là nguyên lý mà trong §16 Kant đã ghi nhận như sự hợp nhất
thuộc về phép tổng hợp tối cao của sự trực cảm và như thế là của khách quan tính:
«‘Bản ngã tư duy’ cần phải đi kèm tất cả những ý tưởng và quan niệm của tôi.» Tất
cả những cái thực hữu trong chiêm ngưỡng và tất cả những cái được suy tưởng tới
trong những ý niệm đều phải tùy thuộc sự hợp nhất hợp lý tối cao này của tư duy.
Dĩ nhiên, «bản ngã tư duy» ở đây khơng muốn nói là «bản ngã» cá biệt của chúng
ta, nhưng người ta có thể gọi đó là «cái nội tại sâu kín hợp lý», tức cái nịng cốt
đồng nhất của sự tự khẳng định của tư duy.
Vậy, theo Kant, chân lý không phải là kết quả của sự đồng thuận giữa sự nhận thức
và «thế giới bên ngồi», nhưng ở chỗ: tính xác thực của đối tượng thực tiễn trong
quan niệm thuộc về không gian và thời gian và sự tự khẳng định của sự tư duy có
chung cùng một nền tảng là các phạm trù. Và cái nền tảng chung là chức năng hợp
nhất hợp lý của «bản ngã tư duy» như đã nói đến ở trên.
Bởi vì, trong sự nhận thức, Kant chỉ chấp nhận sự tham chiếu các ý niệm với sự
chiêm ngưỡng, chứ không như nơi Hegel là tham chiếu các ý niệm với nhau, nên lý
thuyết của Kant là một nền triết học về lý trí tối hậu. Tuy nhiên, Kant lại cho rằng
người ta khơng thể sử dụng phương pháp đó trong việc nhận thức về Thiên Chúa
một cách triết học được. Theo Kant, người ta khơng thể có cơ sở hợp lý rõ ràng để
nhận thức được Thiên Chúa là gì, chẳng hạn như là đệ nhất nguyên nhân. Kant cho
rằng vấn đề về Thiên Chúa cũng tựa như là một đại dương bao la mà người ta
khơng có thuyền bè để đi lại trên đó. Qua đó Kant muốn «nhường chỗ cho đức
tin», tức theo quan điểm của Kant thì trong vấn đề liên quan đến Thiên Chúa chỉ có
đức tin là câu trả lời duy nhất. Trong định nghĩa lý thuyết của lý trí thực hành trong
việc nhận thức về Thiên Chúa thì thế giá chủ quan của Thiên Chúa là điểm tựa duy
nhất, hầu cho toàn diện những hành động tìm hiểu của chúng ta được hợp lý bền
vững. Bởi vì, Kant muốn hồ giải lý tính của trí năng con người với sự trình bày về
Thiên Chúa và sự bất tử của linh hồn con người như những thực tại.
3.2