HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
TIỂU LUẬN: LỊCH SỬ ĐẢNG
ĐỀ TÀI: ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở
MIỀN BẮC VÀ CHỐNG CHIẾN LƯỢC “VIỆT NAM HÓA
CHIẾN TRANH” CỦA MỸ - NGỤY Ở MIỀN NAM (1969-1973)
Sinh viên: Lê Xuân Oanh
Mã sinh viên: 2151050044
Lớp: A1 Truyền thông đại chúng k41
Hà Nội, tháng 12 năm 2021
1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1.
Lý do lựa chọn đề tài
Năm 1954 là một năm đầy đau đớn với lịch sử Việt Nam. Vào thời điểm ấy, do
âm mưu của đế quốc Mĩ và chính quyền Ngơ Đình Diệm, Đơi bờ Hiền Lương cùng
sông Bến Hải đã trở thành nơi chứng kiến nỗi đau chia cắt hai miền đất nước ta.
Với hiệp định Giơ – Ne – Vơ được ký kết vào 20/7/1954, nước ta tạm thời bị chia
cắt thành hai miền Nam – Bắc đến tháng 7/1956 tiến hành tổng tuyển cử cả nước.
Sự chia cắt này đã khiến đất nước ta chia ra thành hai chế độ chính trị - xã hội
riêng biệt: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và cách mạng quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
Song, với sự tham lam và tàn bạo của mình, đế quốc Mĩ đã liên tiếp lập ra
những âm mưu và chiến lược nhằm phá hoại và xâm lược hoàn toàn nước ta. Sau
sự thất bại của 2 chiến lược chiến tranh đặc biệt và chiến tranh cục bộ ở miền Nam,
từ 1969 – 1973, Mĩ đã tiếp tục đẩy mạnh chiến tranh xâm lược ở miền Nam và
chuyển sang chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” đồng thời mở rộng chiến tranh
phá hoại miền Bắc.
Trước bối cảnh đó, nếu muốn đánh bại âm mưu của địch, đặc biệt khi kẻ thù của
ta lại là một nước lớn với tiềm lực quân sự, kinh tế xếp ở vị trí hàng đầu thế giới
như Mĩ thì địi hỏi dân tộc ta cần phải đồn kết một lịng cũng như phải có cho
mình đường lối lãnh đạo và kháng chiến đúng đắn, hợp lí.
Nhận thức rõ được tầm quan trọng và cấp thiết của vấn đề cũng như với sự thành
công và kinh nghiệm trong các cuộc kháng chiến trước đó, với phương châm
2
“Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm
nô lệ” của chủ tịch Hồ Chí Minh, những năm 1969 đến 1973 Đảng Cộng Sản Việt
Nam đã tiếp tục đi đầu, xông pha đứng lên lãnh đạo nhân dân cả nước cùng kháng
chiến chống chiến tranh phá hoại ở miền Bắc và chiến đấu đánh bại âm mưu “Việt
Nam hóa chiến tranh” của Mĩ – Ngụy ở Miền Nam. Đường lối lãnh đạo sáng suốt
và đúng đắn của đảng trong giai đoạn này đã đem lại cho dân tộc ta những thành
tựu và bài học nhất định, trở thành bài học lịch sử vô cùng quý báu đối với công
cuộc bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy, em lựa chọn đề tài tiểu luận
này để tìm hiểu và làm rõ hơn về sự lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc và chống chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ - Ngụy ở Miền Nam
của Đảng năm 1969 – 1973.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Sự lãnh đạo của Đảng
Phạm vi nghiên cứu: Trong công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc
và chống chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ - Ngụy ở Miền Nam
(1969-1973).
3. Kết cấu đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và mục Tài liệu tham khảo, đề tài bao gồm 3
chương và 7 nội dung cơ bản.
NỘI DUNG
3
CHƯƠNG 1: ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở MIỀN BẮC (1969 – 1973)
1.1.Đảng lãnh đạo miền Bắc khôi phục và phát triển kinh tế - xã hội, chuẩn bị
cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội (1969 – 1972)
Mặc dù Giôn-xơn đã buộc phải tuyên bố chấm dứt không điều kiện việc ném
bong bắn phá miền Bắc vào ngày 01/11/1968 song miền Bắc vẫn chưa có được hịa
bình thực sự mà vẫn nằm trong chiến tranh bởi sự vi phạm một cách ngang nhiên
lệnh ngừng bắn của đế quốc Mỹ khi mà chúng vẫn cho các máy bay, tàu chiến bắn
phá khu vực Vĩnh Linh và các tỉnh Quảng Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An,…
Trước tình hình này, Đảng đã đề ra chủ trương nhanh chóng khơi phục kinh tế,
chuẩn bị lâu dài cho kế hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời gian ngừng
bắn; đề cao cảnh giác, củng cố nền quốc phịng tồn dân, tập trung tài lực và nhân
lực chi viện cho miền Nam, bảo đảm đời sống cho nhân dân và luôn sẵn sàng
chống lại hành động gây ảnh hưởng đến người dân, đến hịa bình tại miền Bắc.
Đây cũng được coi là nhiệm vụ trọng tâm và xuyên suốt trong giai đoạn hịa bình
hết sức ngắn ngủi ở miền Bắc (1969 - 1972).
Ngày 24/04/1969, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thơng qua điều lệ tóm tắt của
Hợp tác xã sản xuất nông nghiệp và vào ngày 1/5/1969 điều lệ này cũng đã được
Bác vạch rõ mục tiêu đó là bảo đảm quyền làm chủ tập thể của các xã viên, có thực
hiện tốt điều lệ này thì Hợp tác xã mới có thể phát triển vững mạnh, đồn kết nơng
thơn, nâng cao sản xuất và khi ấy nhân dân ta mới có thể ấm no và tiến bộ.
Ngày 2/9/1969 - khi sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc có những
bước tiến đáng kể, chủ tịch Hồ Chí Minh từ trần để lại niềm tiếc thương vơ hạn
trong lòng nhân dân cả nước. Hiểu được tâm lý này, ngày 03/09/1969 Ban Chấp
hành Trung ương Đảng đã ra Lời kêu gọi cán bộ, đảng viên, chiễn sĩ cùng toàn thể
đồng bào cả nước cũng như kiểu bào ở nước ngoài hãy biến đau thương thành
động lực cách mạng, dũng cảm vượt qua để tiếp tục sự nghiệp vĩ đại của Người và
để học tập, noi theo đạo đức, tác phong và tư tưởng của Bác.
4
Ngày 29/09/2969, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Lao động Việt Nam cũng đề
ra Chỉ thị về đợt sinh hoạt chính trị “Tồn Đảng, tồn dân, tồn qn học tập và
làm theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh”. Đợt học tập này cũng đã được Hội
đồng Chính phủ đưa ra Nghị quyết hướng dẫn ngay sau đó. Trên khắp miền Bắc
dấy lên phong trào thi đua học tập, công tác, lao động sản xuất khôi phục và phát
triển kinh tế xã hội.
Tại hội nghị lần thứ 18 (1/1970), Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa III)
cũng đã chỉ rõ mục tiêu chiến lược của miền Bắc khi Mỹ ngừng oanh tạc đó chính
là tiếp tục xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trung ương Đảng cũng đã phát động ba cuộc
vận động lớn trên toàn miền Bắc: Cuộc vận động lao động sản xuất động viên mọi
lực lượng lao động sản xuất của toàn xã hội, bảo đảm mọi người làm việc và lao
động có năng suất, chất lượng và hiệu quả, nhằm tạo nhanh sản phẩm xã hội, khôi
phục và phát triển kinh tế, cải thiện từng bước đời sống nhân dân. Cuộc vận động
phát huy dân chủ, tăng cường chế độ làm chủ tập thể của quần chúng xã viên ở
nông thôn, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp phát triển toàn diện, mạnh mẽ và vững
chắc; Cuộc vận động nâng cao chất lượng đảng viên và kết nạp đảng viên lớp Hồ
Chí Minh [1].
Trong năm 1970, Đảng đề ra nhiều chính sách nhằm khơi phục và phát triển
kinh tế, xã hội ở miền Bắc:
• Trong nơng nghiệp: Chính phủ đã thực hiện các chính sách để khuyến
khích nông dân phát triển sản xuất, tăng sản lượng nông sản, thực phẩm, trao
đổi với Nhà nước. Chính sách về ổn định lương thực và phân phối lương
thực trong hợp tác xã được đề ra cùng việc đưa chăn nuôi lợn, bị được đưa
lên thành ngành chính đã mang lại kết quả tốt. Các chính sách về thu mua
sản phẩm cây công nghiệp, cung cấp tư liệu cho sản xuất nông nghiệp, bán
hàng công nghiệp cho nông dân, về quản lý thị trường, giá cả và việc cho
vay dần được hoàn thiện. Xây dựng chế độ hợp đồng hai chiều giữa Nhà
5
nước và hợp tác xã, khuyến khích nhân dân áp dụng tiến bộ khoa học – kĩ
•
thuật cùng nhiều biện pháp thâm canh tăng vụ.
Trong công nghiệp: Phần lớn các cơ sở công nghiệp trung ương và địa
phương bị địch tàn phá đã được khơi phục nhanh chóng. Nhiều cơng trình
đang thi cơng dở cũng được Đảng ưu tiên đầu tư xây dựng tiếp và đưa vào
hoạt động ví dụ như nhà máy thủy điện Thác Bà tại Yên Bái (được gấp rút
hoàn thành và đưa vào phát điện từ tháng 10/1970). Các ngành công nghiệp
nặng cũng được Đảng chú trọng và phân chia thành các bộ riêng biệt như Bộ
•
Điện và Than, Bộ Cơ khí và Luyện Kim…
Giao thơng vận tải: Các tuyến giao thơng huyết mạch, có tầm quan trọng
trong quá trình vận chuyển lương thực, trang thiết bị vào miền Nam cũng
nhanh chóng được xây dựng và khơi phục sau khi bị tàn phá nặng nề. Nhiều
•
tuyến đường được củng cố, chất lượng cầu phà cũng được nâng cao.
Văn hóa, giáo dục, y tế: nhanh chóng được khôi phục và đẩy mạnh về chất
lượng, đời sống nhân dân được ổn định, dân chúng tích cực học tập nâng cao
dân trí, tạo nên một “xã hội học tập”.
Đảng cũng chú trọng trong công tác xây dựng tổ chức, Đảng đã kết nạp thêm
gần 40 nghìn đảng viên trong 1 năm kể từ 19/5/1970 đến 19/5/1971 thông qua cuộc
vận động kết nạp đảng viên lớp Hồ Chí Minh nhằm góp phần tăng cường sức chiến
đấu và năng lực lãnh đạo của Đảng.
Tháng 2/1971, tại Hội nghị lần thứ 19, Ban chấp hành Trung ương Đảng (Khoá
III) ác định nhiệm vụ khôi phục phát triển kinh tế, phát triển văn hoá phải nhằm
bảo đảm yêu cầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, bảo đảm đời sống
nhân dân, xây dựng và bảo vệ cơ sở vật chất-kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, từng
bước xây dựng cơ cấu sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, chuẩn bị cho sự phát triển
kinh tế sau chiến tranh. Nhiệm vụ trọng tâm của nền kinh tế miền Bắc thời kỳ này
là phát triển sản xuất nông nghiệp. Mục tiêu sản xuất nông nghiệp trong ba năm
6
(1971-1973) là: giải quyết về cơ bản nhu cầu lương thực trong nước. Phát triển
mạnh chăn nuôi và xây dựng những cơ sở bước đầu cho chăn nuôi lớn. Phải đưa
chăn ni lên thành ngành chính. Xây dựng một số vùng kinh tế mới, mở rộng diện
tích trồng cây cơng nghiệp, phát triển nghề rừng, tạo cơ sở giải quyết vấn đề mặc
và những nhu cầu cấp bách khác. Tăng nhanh mức nông sản xuất khẩu. Chấn chỉnh
công tác quản lý hợp tác xã. Làm tốt công tác định canh định cư và đưa kinh tế
miền núi tiến lên một bước lớn [2]
Năm 1971, thời tiết ở miền Bắc mưa bão liên miên, đặc biệt là trận lụt tháng 8
đã gây ra nhiều thiêt hại nghiêm trọng trên nhiều lĩnh vực. Nông dân ta mất trắng
hơn 20 vạn ha lúa mùa, 62 xí nghiệp trung ương cùng 122 xí nghiệp đia phương
phải ngừng sản xuất. Song nhờ sự chỉ đạo kịp thời với đường lối đúng đắn của
Trung ương Đảng và sự cố gắng của các địa phương thì hậu quả của lũ lụt đã
nhanh chóng được khắc phục, giảm thiểu tối đa hậu quả và sự thiệt hại về tài sản
cũng như tính mạng nhân dân. Có thể nói chiến thắng thiên tai năm 1971 chính là
một nét ưu viết trong chế độ xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
1.2. Miền Bắc vừa đấu tranh chống phá hoại vừa sản xuất, xây dựng chủ
nghĩa xã hội (1972 – 1973)
Năm 1972, đế quốc Mỹ thực hiện chiến tranh phá hoại lần thứ hai ở miền Bắc
với âm mưu phá hủy công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và ngăn nguồn chi viện
của miền Bắc cho miền Nam, làm suy yếu quyết tâm và lòng tin của nhân dân ta,
cứu vãn tình thế sắp phá sản âm mưu “Việt Nam hóa chiến tranh tại miền Nam”.
Ngày 6/4/1972, đế quốc Mỹ cho máy bay không quân ném bom và huy động
hải quân tiến vào bắn phá khu vực Bắc Trung Bộ Việt Nam ( khu IV cũ ) . Ngày
16/4/1972, quân đội Ních – xơn chính thức tuyên bố mở rộng chiến tranh lần thứ
hai tại miền Bắc và tiến hành bằng không quân và hải quân, ngày 9/5/1972 chúng
tuyên bố phong tỏa cảng Hải Phòng cùng các cửa sổng, vùng biển, luồng lạch của
7
miền Bắc. Những điều này đã đe dọa nghiêm trọng đến quá trình xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc lúc bấy giờ.
Đứng trước tình hình nguy cấp đó, ngày 1/6/1972, một cuộc họp triệu tập khẩn
cấp đã được Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ưởng Đảng khẩn trương tiến hành.
Nhờ việc chuẩn bị trước và tư thế luôn sẵn sàng chiến đấu, Đảng đã chủ động và
kịp thời xác định được nhiệm vụ chiến lược đó là quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ
bằng mọi cách, tiến hành cải tổ bộ máy quản lý Nhà nước và chuyển hướng phát
triển kinh tế - xã hội, đẩy mạnh sản xuất, xây dựng chủ nghĩa xã hội phù hợp với
tình hình thời chiến.
Ngày 13-6-1972, Hội đồng Chính phủ ban hành Điều lệnh nghĩa vụ lao động
thời chiến nhằm động viên toàn dân đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược, bảo đảm
nhu cầu lao động, phục vụ chiến đấu và sản xuất trong tình hình cả nước có chiến
tranh. Nhờ chủ trương hợp lí và kịp thời của Đảng, nhân dân miền Bắc đã nhanh
chóng chuyển mọi hoạt động sang phù hợp với tình hình thời chiến, chủ động sơ
tán các nhà máy, xí nghiệp, trường học, bệnh viện…
Đảng cũng chỉ đạo nhân dân phát triển công nghiệp tại địa phương, cơng nghiệp
quốc phịng và tạm hỗn những cơng trình lớn để tập trung sơ tán an tồn. Đảng
ln quan tâm và duy trì các tuyến đường giao thơng mang tính huyết mạch đặc
biệt là tuyến đường Hồ Chí Minh ln được Đảng ta bảo đảm thông suốt. Đảng
cũng luôn chú trọng việc làm công tác tư tưởng; luôn tạo quyết tâm, động lực và
niềm tin cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta.
Trên lĩnh vực kháng chiến chống sự phá hoại của đế quốc Mỹ, bảo vệ miền Bắc
xã hội chủ nghĩa, Đảng, quân và dân ta đã có nhiều thành tựu nổi bật nhờ việc
Đảng đã lường trước được âm mưu của địch và luôn chuẩn bị sẵn sàng cho mọi
tình huống có thể xảy ra. Trong cả cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ 2
8
(từ 6/4/1972 đến 15/1/1973), miền Bắc đã bắn hạ 735 máy bay Mĩ trong đó có 61
máy bay B52, 10 máy bay F111, bắn chìm 125 tàu chiến, loại bỏ khỏi vịng chiến
đấu hàng trăm phi cơng Mĩ [3]. Đặc biệt, nổi bật trong giai đoạn này phải kể đến
chiến thắng “ Điện Biên Phủ trên không”, chiến thắng này có thể coi là nhân tố
quyết định cho việc lập lại hịa bình ở Việt Nam, nó đã buộc Mỹ phải kí vào tuyên
bố ngừng hẳn các hoạt động chống phá miền Bắc (15/1/1973) và kí hiệp định Pari
vào ngày 27/01/1973 về chấm dứt chiến tranh, lập lại hịa bình ở Việt Nam có hiệu
lực từ ngày 28/01/1973.
1.3. Thành tựu và hạn chế trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền
Bắc (1969-1973)
1.3.1. Thành tựu trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc (19691973)
Mặc dù xây dựng chủ nghĩa xã hội trong hoàn cảnh vừa hịa bình, vừa chiến
tranh với nhiều khó khăn song với sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân miền Bắc đã
đạt được nhiều thành tựu to lớn: chế độ xã hội chủ nghĩa từng bước được xây
dựng, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa cũng đuochư hình thành, nhiều cơ sở vật
chất được cải tổ và xây dựng, phát huy được chủ nghĩa xã hội trong nhiều mặt.
Năm 1970, nhờ các chính sách chủ trương khuyến khích của Đảng ta có
những thành tựu lớn trên nhiều lĩnh vực: Trong nông nghiệp, nhiều hợp tác xã
đã đạt được mục tiêu 5 tấn thóc trên 1 hécta gieo trồng trong 1 năm, một số hợp tác
xã đạt từ 6-7 tấn. Sản lượng lương thực năm 1970 toàn miền Bắc đạt 5.278.900
tấn, tăng hơn năm 1969 hơn nửa triệu tấn. Diện tích gieo trồng năm 1970 là
3.028.100 ha, tăng hơn năm 1969 hơn 6 vạn ha. Năng suất lúa cả năm trên 1 ha
ruộng hai vụ đạt 43,11 tạ. Tỉnh Thái Bình và thành phố Hà Nội đạt năng suất bình
quân trên 5 tấn thóc/ha. 30 huyện, 2.265 hợp tác xã đạt năng suất bình qn 5 tấn
thóc/ha.
9
Trong công nghiệp, năm 1970 nhiều cơ sở công nghiệp bị địch đánh phá cũng
đã phần lớn được khôi phục nhanh chóng, nhiều cơng trình dang dở được ưu tiên
đầu tư và đưa vào hoạt động. Giá trị tổng sản lượng công nghiệp năm 1970 vượt
mức kế hoạch 2,5%, xấp xỉ bằng năm 1965.
Đời sống nhân dân vào năm 1970 cũng được nâng cao nhờ vào việc phát triển
sản xuất và tăng năng suất lao động, thu nhập bình quân đầu người của gia đình
tham gia hợp tác xã nơng nghiệp tăng 20% so với năm 1965. Từ đó cũng giúp đẩy
mạnh chất lượng cơng tác văn hóa, giáo dục và y tế, những khó khăn dần được
khắc phục.
Năm 1971, thời tiết khắc nghiệt gây thiệt hại trên nhiều lĩnh vực song nhờ
sự chỉ đạo, hỗ trợ của Đảng và sự cố gắng của các địa phương trong khắc
phục thiệt hại của lũ lụt, miền Bắc vẫn đạt được những thành tựu nhất định:
Năm 1971, nông nghiệp miền Bắc đạt được nhiều tiến bộ về thâm canh lúa, sản
lượng lương thực quy hoạch thóc đạt 5,6 triệu tấn, cao hơn mức bình thường của
các năm. Giá trị sản lương cơng nghiệp và thủ công nghiệp năm 1971 vẫn đạt kế
hoạch đề ra và tăng hơn 14% so với năm 1970 trong đó điện trong đó điện đạt 810
triệu kWh (tăng 34% so với năm 1970), than sạch đạt 3,26 triệu tấn (tăng 22% so
với năm 1970)... Miền Bắc cũng đáp ứng được cơ bản về nhu cầu ăn mặc, học
hành, sinh hoạt cho nhân dân và tăng cường chi viện cho tiền tuyến. Tình hình kinh
tế-xã hội ổn định, sự nhất trí về chính trị, tinh thần trong nhân dân được củng cố
vững chắc. Đến cuối năm 1971, lực lượng dân quân tự vệ miền Bắc có hơn 2 triệu
người, trong đó đội ngũ tự vệ chiến đấu và du kích chiếm 87 vạn người. Miền Bắc
đã động viên hàng chục vạn con em tham gia quân đội và đi vào chiến trường
chiến đấu. Khối lượng vật chất chi viện cho chiến trường tăng 1,6 lần so với trước
đó. [4]
10
Đặc biệt với sự chuẩn bị sẵn sàng và việc ln nắm bắt, lường trước mọi
tình huống của Đảng, Miền Bắc đã đạt được thành tựu to lớn khi vừa xây
dựng chủ nghĩa xã hội, vừa đấu tranh chống phá hoại của Mỹ và làm nghĩa vụ
hậu phương cho tiền tuyến miền Nam. Năm 1972, quân và dân ta đã đánh bại
cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ 2 của Mỹ. Tổng kết lại cuộc chiến tranh phá hoại
lần thứ hai của đế quốc Mỹ, miền Bắc đã bắn rơi 735 máy bay, trong đó có 61 máy
bay chiến lược B.52 và 10 máy bay phản lực F.111, bắt sống hơn 1.000 giặc lái,
bắn cháy, bắn chìm 125 tàu chiến, tàu biệt kích. Và đặc biệt nổi bật đó là chiến
thắng “Điện Biên Phủ trên không” lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu.
Cũng chính chiến thắng này đã trở thành nhân tố quan trọng cho việc lập lại hịa
bình ở Việt Nam, nó đã buộc Mỹ phải kí vào tuyên bố ngừng hẳn các hoạt động
chống phá miền Bắc (15/1/1973) và kí hiệp định Pari vào ngày 27/01/1973 về
chấm dứt chiến tranh, lập lại hịa bình ở Việt Nam có hiệu lực từ ngày 28/01/1973.
1.3.2. Hạn chế trong cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc (19691973)
Đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa do Đảng đề ra về cơ bản là đúng đắn và
sáng tạo, song trong việc chỉ đạo thực tiễn thì những đường lối này vẫn còn một số
hạn chế.
Đầu tiên là các chỉ đạo thực tiễn chưa được kịp thời hoàn toàn cũng như chưa
được vận dụng tốt vào các kế hoạch nâng cao kinh tế, văn hóa và xã hội; vào các
phương hướng, nhiệm vụ và bước đi trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
từng ngành, từng địa phương riêng biệt. Nhận thức về tính quy luật của quá trình
sản xuất nhỏ tiến lên sản xuất lớn mang tính xã hội chủ nghĩa chưa được sâu rộng;
vì thế mà sự gắn bó giữa cải tạo quan hệ sản xuất và phát triển lực lượng sản xuất
trong điều kiện trên cũng chưa được nhận định cụ thể, rõ ràng.
11
Mối quan hệ giữa kinh tế trung ương và địa phương còn nhiều vướng mắc, kinh
tế địa phương chưa được chú trọng. Hệ thống quản lý, tổ chức sản xuất chưa phát
huy được thế mạnh riêng của từng ngành, chưa kết hợp quản lý theo tình hình riêng
của từng vùng, từng địa phương.
Nhìn chung thì đây là nguyên nhân cũng việc miền Bắc đi lên chủ nghĩa xã hội
trong tình trạng kinh tế sản xuất nhỏ, lạc hậu và bị chiến tranh tàn phá cũng như
hoàn cảnh đất nước giai đoạn 1969 – 1973 cũng xảy ra nhiều biến động. Vậy nên
những hạn chế này là khó tránh khỏi và những thành tựu to lớn trong công cuộc
lãnh đạo nhân dân xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc của Đảng vẫn là cơ bản
và không thể phủ nhận.
12
CHƯƠNG 2: ĐẢNG LÃNH ĐẠO CHỐNG CHIẾN LƯỢC “VIỆT NAM
HÓA CHIẾN TRANH” CỦA MỸ - NGỤY Ở MIỀN NAM (1969-1973)
2.1. Chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ - Ngụy tại miền Nam Việt
Nam (1969 – 1973)
Sau thất bại của chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, Níc-xơn (sau khi thay Giônxơn lên làm Tổng thống vào ngày 1/1969) cùng tập đồn cầm quyền mới phải đối
mặt với những tình thế khó khăn cả về đối nội và đối ngoại. Song, với bản chất
ngoan cố của mình, Níc-xơn đã đưa ra “ Học thuyết Níc-xơn” trong đó có chiến
lược “Việt Nam hóa chiến tranh” thực hiện ở miền Nam Việt Nam.
Chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” được tiến hành bằng với lực lượng chủ
yếu là quân đội Sài Gòn, sự tham gia của hỏa lực, không quân, hậu quần Mỹ và do
chính quyền Níc-xơn chỉ huy thơng qua hệ thống cố vấn. Mục tiêu cơ bản của
chiến lược này đó là kìm hãm nhân dân miền Nam, làm mất chỗ dựa của cách
mạng nhân dân đồng thời ngăn chặn mọi chi viện từ hậu phương miền Bắc vào
chiến trường miền Nam tiến tới bao vây, thu hẹp và làm thất bại cuộc kháng chiến
của nhân dân ta tại miền Nam. Níc-xơn đã dự tính chiến lược “Việt Nam hóa chiến
tranh” sẽ cơ bản hoàn thành vào năm 1971 và cơ bản hồn thành vào năm 1972.
“Việt Nam hóa chiến tranh” thực chất là một kế hoạch hết sức thâm độc nhằm
tiếp tục kéo dài và đẩy mạnh cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở nước ta. Chúng
còn sử dụng các sử dụng các thủ đoạn ngoại giao để hạn chế sự giúp đỡ của Trung
Quốc và Liên Xô với cuộc kháng chiến của nhân dân ta.
2.2. Đảng lãnh đạo chống chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ Ngụy tại miền Nam (1969-1973)
Ngày 5-2-1972, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra Tuyên bố về việc
giải quyết hồ bình vấn đề Việt Nam. Bản Tun bố viết: “Hồn tồn nhất trí với
bản Tun bố ngày 2-2 của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hồ miền Nam
Việt Nam, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà tuyên bố kiên quyết
13
khơng chấp nhận“kế hoạch hồ bình” lừa bịp của Tổng thống Níchxơn và triệt để
ủng hộ giải pháp Bẩy điểm của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hồ miền
Nam Việt Nam mà hai vấn đề then chốt đã được nêu rõ thêm”. [6]
Sau khi nhận thức rõ âm mưu của địch và mục tiêu triển khai, Đảng ta đã khẩn
trương tăng cường tiềm lực quốc phòng, mở rộng các tuyến vận tải chiến lược 559
nhằm gia tăng sự chi viện vào miền Nam để có thể giành và giữ được thế chủ động
trên chiến trường. Trong giai đoạn 1969 – 1972, hậu phương đã chi viện 131.596
cán bộ chiến sĩ, chiếm tổng 92,4% dân số cho chiến trường Nam Bộ.
Đặc biệt Đảng ta cũng đã tăng cường đấu tranh ngoại giao nhằm làm cô lập
địch, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của quốc tế và liên kết với Lào, Campuchia – 2
nước cũng đang bị Mỹ nhắm đến để tạo ra sức mạnh tổng hợp, đẩy mạnh quá trình
kháng chiến chống lại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”.
Ngày 10-4-1972, Đảng đã tuyên bố về bước leo thang chiến tranh mới của đế
quốc Mỹ.
Ngày 16-4-1972, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam và
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra Lời kêu gọi đồng bào và chiến sĩ
cả nước: “Triệu người như một hãy nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng kiên
quyết chiến đấu vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì sự nghiệp giải phóng miền Nam,
bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa tiến tới hồ bình thống nhất nước nhà”.Đáp lời
kêu gọi thiêng liêng của Đảng và Chính phủ, cả nước một lịng bừng bừng khí thế
thi đua quyết chiến quyết thắng giặc Mỹ xâm lược.
Từ 30/1 đến 23/3/1971, Đảng đã chỉ đạo quân ta mở chiến dịch phản công tại
Đường 9 Nam Lào và đã đánh bại được cuộc hành quân lớn nhất, điển hình nhất
của chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ ngụy – cuộc hành quân Lam
Sơn 719. Cuộc hành quân này có sự tham gia của 42.000 quân trong đó có 9.000
quân Mỹ gồm 15 trung đoàn bộ binh, hai trung đoàn thiết giáp (460 xe), 21 tiểu
đoàn pháo binh (250 khẩu), 700 máy bay ( có 300 trực thăng), 4 tiểu đoàn quân
Ngụy Lào. Kết quả quân ta đã tiêu diệt, loại bỏ hơn 2 vạn địch, đánh thiệt hại 6 lữ
14
đoàn, trung đoàn, 13 tiểu đoàn bộ binh, pháo binh, phá hủy 1.100 xe (có 528 xe
tăng xe bọc thép) hơn 100 khẩu pháo lớn, bắn rơi 550 máy bay, bắt sống 1000 tên
địch. Quân đội Sài Gòn cũng bị tiêu diệt nặng.
Từ 4/2 đến 24/6/1971, bộ đội chủ lực miền Nam dưới sự chỉ đạo của Đảng đã
mở ra chiến lược phản công, tiếp tục đánh bại cuộc hành quân “Toàn thắng 1.71”
của Mỹ ngụy, loại bỏ 2 vạn địch, bắt 700, phá hủy 1500 xe, 160 khẩu pháo, bắn rơi
200 máy bay.
31/3 đến 27/6 ta tiến công tại Trị Thiên, loại bỏ hơn 27000 địch, phá hủy 636 xe
tăng thiết giáp, 1870 xe quân sự, 419 khẩu pháo, bắn rơi và phá hủy 340 máy bay
… giải phóng hoàn toàn Quảng Trị và ba xã thuộc huyện Hương Điền tỉnh Thừa
Thiên. Nối tiếp sự thành công, Đảng lãnh đạo quân ta thực hiện chiến dịch Quảng
Trị (28/6/1972 – 31/1/1973) và cũng đã loại bỏ được 29.822 tên địch, phá hủy 330
xe, 273 khẩu pháo và bắn rơi 169 máy bay.
30/3 đến 5/6 Đảng lãnh đạo mở chiến dịch Tây Nguyên cũng đạt được nhiều kết
quả to lớn
31/3/1972 đến 28/1/1973 chiến dịch tại Đông Nam Bộ tiếp tục được Đảng chỉ
huy và sau 10 tháng chiến đấu thì 7985 tên địch đã bị loại bỏ, 897 máy bay bị bắn
rơi, 1881 xe bị phá hủy, thu 282 xe.
Tất cả những kết quả trên đã góp phần tạo thế vững chắc cho bộ đội chủ lực
tiến công sau này và giáng địn nặng nề vào chiến lược “Việt Nam hóa chiến
tranh”, buộc Mĩ phải tuyên bố “Mĩ hóa” (thừa nhận sự thất bại của chiến lược
“Việt Nam hóa chiến tranh”) trở lại chiến tranh xâm lược.
15
CHƯƠNG 3: BÀI HỌC KINH NGHIỆM QUA QUÁ TRÌNH LÃNH ĐẠO
XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC CỦA ĐẢNG GIAI ĐOẠN 1969 – 1973
3.1. Bài học kinh nghiệm qua quá trình lãnh đạo của Đảng (1969 – 1973)
3.1.1 Bài học kinh nghiệm qua quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã
hội tại miền Bắc (1969 – 1973)
Trong suốt quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội tại miền Bắc, Đảng Đảng đã
khơng ngừng cụ thể hóa các mục tiêu chiến lược, đồng thời đưa ra các đường lối
phù hợp với yêu cầu thực tiễn trong từng giai đoạn.
Đặc biệt trong giai đoạn 1969 – 1973, việc Đảng xác định vẫn tiếp tục xây dựng
chủ nghĩa xã hội tại miền Bắc song chuyển hướng xây dựng sang phù hợp với thời
chiến đã đóng góp vơ cùng lớn, đem lại nhiều thành tựu. Đảng đã vơ cùng bình
tĩnh, sáng suốt và chủ động trong việc chuyển hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội để
từ đó tạo ra sức mạnh tổng hợp to lớn, không chỉ tạo điều kiện cho công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ miền Bắc mà cịn tích cực chi viện cho miền Nam
và hai nước anh em Lào, Campuchia.
•
Đảng đã chỉ tạo tạm ngừng xây dựng các cơng trình lớn, những cơ sở cơng
nghiệp mang tính trọng điểm được đặc biệt chú ý giữ vững hoạt động. Gia
tăng và nâng cao công nghiệp tại địa phương đặc biệt là công nghiệp nhẹ và
sản xuất tiêu dùng để có thể đáp ứng nhu cầu cuộc sống nhân dân và chi viện
•
cho quân dân miền Nam và các nước anh em Lào, Campuchia.
Đảng khuyến khích nhân dân phát triển lĩnh vực nơng nghiệp khó có thể bị
phá hoại bởi kẻ địch hơn, chỉ đạo duy trì sản xuất ở mức độ phù hợp và tập
trung phát triển trồng trọt, chăn nuôi, điều chỉnh các kế hoạch hiện đại hóa
nơng thơn, cải tạo nơng nghiệp, gia tăng sản lượng, chất lượng nơng
nghiệp… phù hợp với tình hình chiến tranh.
16
3.1.2 Bài học kinh nghiệm qua quá trình Đảng lãnh đạo chống chiến lược “Việt
Nam hóa chiến tranh” của Mỹ Ngụy 1969 – 1973.
Luôn quan sát từng bước đi của kẻ địch để nắm bắt tình hình và ln trong
tư thế sẵn sàng chiến đấu.
Trong khi lãnh đạo nhân dân miền Bắc tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa,
Đảng ta luôn theo dõi sát những âm mưu, hành động của đế quốc Mỹ đối với cách
mạng nước ta vì vậy trước chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, Đảng đã đánh
giá đúng âm mưu của địch và nhanh chóng đưa ra nhận định rõ ràng trong Hội nghị
lần thứ 18 (1/1970): “Việt Nam hóa chiến tranh” là mưu đồ chiến lược hết sức
thâm độc của đế quốc Mỹ nhằm kéo dài chiến tranh xâm lược, từng bước rút dần
quân Mỹ, ra sức viện trợ và vực cho ngụy quyền, ngụy quân mạnh lên… Do đó,
cục diện chiến tranh có thể diễn biến theo hai khả năng: chiến tranh sẽ kết thúc
sớm bằng một giải pháp chính trị hoặc tiếp tục kéo dài do cố gắng giành thế mạng
trong thương lượng của địch. Trong cả hai khả năng đó, đế quốc Mỹ có thể ném
bom trở lại miền Bắc. Vì vậy nhiệm vụ trước mắt là: Động viên sự nỗ lực cao nhất
trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trên cả hai miền, phát huy thắng lợi đã đạt
được, kiên trì, đẩy mạnh kháng chiến, tiếp tục phát triển chiến lược tiến cơng một
cách tồn diện, liên tục và mạnh mẽ, đẩy mạnh tiến cơng qn sự, chính trị, kinh tế
kết hợp với tiến công ngoại giao…; làm thất bại chiến lược phòng ngự của địch,
tạo ra chuyển biến mới trong cục diện chiến tranh, giành thắng lợi từng bước, đi
đến thắng lợi quyết định, đánh cho Mỹ phải rút quân, đánh cho Ngụy phải suy
sụp…[7]
Sự chỉ đạo kiên quyết, khôn khéo của Đảng trong việc vận dụng bạo lực
cách mạng, sức mạnh quần chúng để kháng chiến.
17
Ngày 27/1/1973, hiệp định Paris về việc “Chấm dứt chiến tranh, lập lại hồ bình
ở Việt Nam” đã buộc Mỹ phải rút quân ra khỏi lãnh thổ nước ta. Song, chính quyền
Mỹ đã khơng làm đúng theo thỏa thuận mà tiếp tục đưa thêm viện trợ cho ngụy
quyền và nhằm kéo dài chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” tại miền Nam.
Chúng vi phạm một cách trắng trợn hiệp định Paris và ráo riết “hiện đại và tinh
nhuệ hóa” ngụy quân, mở rộng lấn chiếm nhiều vùng giải phóng nước ta.
Đối mặt với tình hình này tháng 7/1973, Hội nghị lần thứ 21 Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khoá III đã kịp thời ban hành Nghị quyết về “Thắng lợi vĩ đại
của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và nhiệm vụ của cách mạng miền Nam
Việt Nam trong giai đoạn mới” (Nghị quyết 21). Nghị quyết khẳng định: “Con
đường của cách mạng miền Nam là con đường bạo lực cách mạng. Bất kỳ trong
tình huống nào ta cũng phải nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến
công và chỉ đạo linh hoạt để đưa cách mạng miền Nam tiến lên” [8].
Qua đó, Đảng ta cũng huy động sức mạnh của cả nước, đoàn kết trong Đảng,
trong tồn qn, tồn dân – nguồn lực chính của bạo lực cách mạng cùng nhau
chung sức đồng lòng, tham gia kháng chiến, phát huy sức mạnh tổng hợp để tiến
lên đánh bại âm mưu “Việt Nam hóa chiến tranh”, giải phóng miền Nam, giành lại
độc lập dân tộc.
Vận dụng chính sách ngoại giao khơn khéo
Trong q trình kháng chiến chống chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của
Mỹ (1969 – 1973), Đảng đã đánh giá Mỹ là một nước giàu song khơng mạnh như
ta tưởng và có những điểm yếu mà ta có thể lợi dụng và đánh thắng, việc Mỹ mạnh
hay yếu không chỉ phụ thuộc ở Mỹ mà còn tùy thuộc vào ta. Nhận thức được điều
này, Đảng không chỉ tập trung sức mạnh tổng hợp cả nước mà Đảng còn tranh thủ
18
sự đồng tình của bạn bè quốc tế và hợp tác với hai nước anh em Lào và Campuchia
cùng nhau kháng chiến để tăng cường sức mạnh.
Ngày 24 và 25/4/1970, Hội nghị cấp cao ba nước Việt Nam – Lào – Campuchia
đã được tổ chức nhằm chuẩn bị kế hoạch quân sự chống Mỹ, hội nghị này cũng thể
hiện quyết tâm của nhân dân trong việc đoàn kết kháng chiến chống Mỹ.
Đặc biệt, mặc dù bị chi phối bởi những lợi ích riêng tùy theo diễn biến chiến
trường Việt Nam do Mỹ đưa ra, dù có những xung đột và bất đồng song với chính
sách ngoại giao khơn khéo của Đảng, chính phủ và nhân dân Liên Xơ – Trung
Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác vẫn ủng hộ và giúp đỡ nhân dân Việt Nam
trong quá trình làm thất bại âm mưu “Việt Nam hóa chiến tranh của Mỹ”.
Ngoài ra, Đảng ta cũng tranh thủ sự đồng tình của bạn bè u chuộng hịa bình
thế giới, nhờ đó mà nhân dân tiến bộ thế giới, nhân dân u chuộng hịa bình cũng
đã nhanh chóng đứng lên phản đối, lên án cuộc chiến tranh xâm lược tàn bạo của
Mỹ; ủng hộ, giúp đỡ Việt Nam về cả vật chất lẫn tinh thần. Thậm chí ngay cả chính
nhân dân Mỹ tiến bộ cũng đã đổ xuống đường biểu tình, phản đối chiến tranh, đòi
rút quân Mỹ về nước.
3.2 Vai trò, trách nghiệm của sinh viên trong việc phát huy công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ Quốc của Đảng ta trong tình hình hiện nay.
Đầu tiên, sinh viên cần chăm chỉ, sáng tạo, học tập có mục đích và động cơ đúng
đắn để mai sau có thể xây dựng tốt đất nước. Hiện nay, Đảng và nhà nước Việt
Nam đang xây dựng xã hội chủ nghĩa theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
gắn với kinh tế tri thức cũng như đẩy mạnh kinh tế số, xã hội số để có thể bắt kịp
xu thế 4.0 của thời đại. Lúc này đây, vai trò của sinh viên trở nên vô cùng quan
trọng bởi sinh viên sẽ là nguồn nhân lực chính trong việc thực hiện các cơng cuộc
này. Sinh viên có chất lượng cao, có đầy đủ những kiến thức và kỹ năng thì mới có
thể thúc đẩy q trình phát triển khoa học cơng nghệ; bắt kịp với các xu thế thời
19
đại; nâng cao chất lượng của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
gắn với phát triển kinh tế tri thức. Chính vì vậy, sinh viên chúng ta gần không
ngừng học tập, rèn luyện bản thân; nâng cao kĩ năng; sáng tạo trong việc tiếp thu
kiến thức để có thể tiếp nối thế hệ cha anh, góp sức cho công cuộc xây dựng đất
nước của Đảng, của dân tộc.
Tiếp đó, sinh viên cần khơng ngừng tu dưỡng đạo đức; rèn luyện tác phong; tạo
cho mình lối sống lành mạnh; tránh xa các tệ nạn xã hội; biết đấu tranh, tố cáo
những thông tin sai sự thật gây ảnh hưởng đến danh dự uy tín của Đảng, Nhà nước.
Sinh viên cũng cần kiên quyết, tỉnh táo trước những hành vi, âm mưu thù địch gây
chia rẽ, phản động. Đặc biệt, trong thời đại giao lưu hội nhập quốc tế, sinh viên vẫn
phải giữ vững và phát huy các bản sắc văn hóa tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu văn hóa
bên ngồi theo hướng “hịa nhập chứ khơng hịa tan”. Quan trọng hơn hết, là những
người được kế thừa nền hịa bình, độc lập dân tộc, hưởng thụ q trình phát triển
đất nước do ơng cha dày cơng bảo vệ và xây dựng, sinh viên cần phải luôn ghi nhớ
và biết ơn công lao của những thế hệ đi trước, phải nắm bắt được lịch sử dân tộc
chứ không phải chỉ là “học môn lịch sử”.
Sinh viên cần luôn nhân cao nhận thức, khi sử dụng mạng xã hội để tiếp cận thơng
tin thì cần cẩn trọng và tiếp thu một cách hợp lý. Hiện nay, với sự phát triển của
mạng xã hội và các thiết bị hiện đại, mặc dù thơng tin có thể truyển tải đến sinh
viên nhiều và nhanh hơn song nó cũng đem đến nhiều tác hại tiêu cực điển hình là
việc thơng tin tràn lan không được kiểm chứng, sinh viên dễ đọc phải những thông
tin sai lệch, xuyên tạc và tiêu cực; nghiêm trọng hơn là các thông tin phản động và
chống phá Đảng, Nhà nước. Chính vì thế việc sinh viên nâng cao nhận thức và tiếp
thu thông tin từ những trang, tổ chức uy tín là vơ cùng cần thiết.
Ngồi ra, sinh viên cần nhận thức rõ trách nghiệm của mình trong việc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, tránh lối suy nghĩ đây chỉ là trách nghiệm của Đảng, Nhà nước,
20
của bộ máy cầm quyền. Sinh viên cũng cần chấp hành nghiêm các quy định, luật
pháp mà Đảng, Nhà nước để ra, tuyệt đối trung thành với nhà nước, thực hiện
nghiêm túc luật quốc phịng, qn sự; ln xây dựng và củng cố cho mình lịng u
nước, lịng tự hào, tự tơn dân tộc cũng như ý chí tự lực tự cường giống như cha ông
ta đã từng.
Bác đã từng nói: “Tuổi trẻ là tuổi của tương lai. Muốn có tương lai tốt đẹp thì phải
chiếm lấy bằng ý chí và nghị lực của chính bản thân”, chính vì thế sinh viên, rộng
hơn là thế hệ trẻ - những người chủ tương lai của đất nước, cần ra sức rèn đức
luyện tài, cố gắng phấn đấu và học tập, tu dưỡng đạo đức, tiên phong trong công
cuộc xây dựng, đổi mới và bảo vệ đất nước. Chỉ cần có lịng nhiệt huyết, tinh thần
yêu nước và ý chí, khát vọng cống hiến thì việc xây dựng một đất nước hung
cường, phần vinh, dân chủ; một đất nước có thể sánh vai với các cường quốc năm
châu như mong mỏi của Bắc là hồn tồn có thể.
21
KẾT LUẬN
Gần 50 năm đã trơi qua nhưng q trình Đảng lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở miền Bắc và kháng chiến chống chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” tại
miền nam những năm 1969 – 1973 vẫn là một thành tựu to lớn, một cột mốc quan
trọng đánh dấu những đường lối chỉ đạo đúng đắn và phù hợp với xu thế của Đảng;
sự chung sức đồng lòng, đấu tranh bền bỉ cũng như khát vọng giải phóng, khát
vọng tự do và cao hơn là khát vọng ấm no, hạnh phúc của nhân dân trên khắp mọi
miền Tổ Quốc.
Xây dựng xã hội chủ nghĩa và bảo vệ độc lập dân tộc là một trong những nhiệm
vụ chung của mọi cơng dân Việt Nam trong đó có sinh viên. Mỗi sinh viên dù còn
ngồi trên ghế giảng đường trên hết cần có ý thức, trách nhiệm, hiểu biết rõ ràng,
chính xác về chủ trương, quan điểm của Đảng về giải quyết vấn đề xây dựng và
bảo vệ đất nước. Khi đã hiểu thấu đáo, mỗi sinh viên cần phải biết lan tỏa đến
những người xung quanh để có cùng nhận thức. Nếu mỗi người dân hiểu và hành
xử đúng đắn thì lợi ích quốc gia sẽ được đảm bảo và bảo vệ.
Trên đây là bài tiểu luận của em về đề tài “Đảng lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở miền Bắc và kháng chiến chống chiến lược “Việt Nam hóa chiến
tranh” tại miền nam những năm 1969 – 1973”. Do em còn hạn chế về kinh
nghiệm, kiến thức và thực tiễn nghiên cứu nên em rất mong nhận được ý kiến đóng
góp từ mọi người để có thể hồn thiện bài viết tốt hơn. Em xin trân trọng cảm ơn.
22
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bùi Công Trừng, Miền Bắc Việt Nam trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội,
Nxb Sự thật, Hà Nội, 1960
[2]
[3] Văn kiện Quốc hội tồn tập, tập IV (1971-1976)
[4], [6] (Cổng thơng tin điện tử - Chính phủ nước Cộng
hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam)
[5] (Báo điện tử - Đảng Cộng sản Việt Nam)
[7] Nghị quyết Hội Nghị lần thứ 18 của Trung ương Đảng (khóa III) tháng 1/1970
[8] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập.
23