TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
……
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
KHÓA 39 (2013 – 2016)
PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ KẾT HƠN CĨ YẾU
TỐ NƯỚC NGOÀI – LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Giảng viên hướng dẫn:
Sinh viên thực hiện:
ThS. Nguyễn Huỳnh Anh
Võ Tấn Tài
Bộ môn: Luật Thương mại
MSSV: S1300131
Lớp: Luật Thương mại – K39
Cần Thơ, tháng 5 năm 2016
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
----------
....................................................................................................
....................................................................................................................
....................................................................................................................
....................................................................................................................
....................................................................................................................
....................................................................................................................
....................................................................................................................
....................................................................................................................
....................................................................................................................
....................................................................................................................
....................................................................................................................
....................................................................................................................
....................................................................................................................
....................................................................................................................
....................................................................................................................
....................................................................................................................
....................................................................................................................
....................................................................................................................
....................................................................................................................
....................................................................................................................
....................................................................................................................
....................................................................................................................
Cần Thơ, ngày………tháng..……..năm 2016
MỤC LỤC
Pháp luật Việt Nam về kết hơn có yếu tố nước ngoài – Lý luận và thực tiễn
LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài đề tài
Ở Việt Nam trước đây quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngồi là một loại quan hệ
không phổ biến. Tuy nhiên, trong thời kỳ hội nhập quốc tế như hiện nay các quan hệ
giao lưu quốc tế ngày càng được mở rộng. Chính vì vậy, kéo theo các quan hệ dân sự
có yếu tố nước ngoài ngày càng gia tăng nhất là quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngồi.
Hiện nay có lúc quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngoài đã trở thành một hiện tượng khá
phổ biến. Cũng như mọi quan hệ khác, quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngồi cần có sự
điều chỉnh của pháp luật. Vì vậy, nghiên cứu các vấn đề pháp lý liên quan tới quan hệ
này trong giai đoạn hiện nay là cần thiết.
Khác với việc giải quyết quan hệ kết hơn thơng thường, quan hệ kết hơn có yếu
tố nước ngồi khơng những chịu sự điều chỉnh của pháp luật trong nước mà còn chịu
sự điều chỉnh của pháp luật nước ngồi và điều ước quốc tế. Vì thế mà quyền và lợi
ích các bên cũng được giải quyết theo chiều hướng khác nhau tùy thuộc vào pháp luật
từng nước khác nhau và điều ước quốc tế. Ở Việt Nam thì quyền và lợi ích đó được
bảo vệ trên cơ sở Hiến pháp, Luật, Nghị định, Thông tư và điều ước quốc tế mà Việt
Nam tham gia ký kết với các nước thành viên. Tuy nhiên hệ thống pháp luật hiện hành
vẫn còn tồn tại những bất cập trong quá trình áp dụng, ảnh hưởng rất lớn đến cuộc
sống của chủ thể kết hôn và những giá trị đạo đức truyền thống của xã hội. Do đó, để
hạn chế mức độ thấp nhất những vụ kết hơn nhằm mục đích trục lợi đi đến bi kịch
trong hơn nhân có yếu tố nước ngồi và dư luận xã hội thì việc điều chỉnh quan hệ kết
hơn có yếu tố nước ngồi là một thách thức không nhỏ của pháp luật nước ta hiện nay.
Yêu cầu đặt ra là cần có khung pháp lý chặt chẽ, hồn thiện khơng chỉ pháp luật trong
nước mà kể cả đến pháp luật của các quốc gia cũng như các Điều ước quốc tế mà Việt
Nam tham gia ký kết. Vì những lý do trên, nên người viết chọn đề tài: “Pháp luật Việt
Nam về kết hơn có yếu tố nước ngồi – Lý luận và thực tiễn”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục đích của q trình nghiên cứu là giúp người viết tìm hiểu rõ hơn về những
quy định của pháp luật Việt Nam về quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngồi. Với những
vấn đề về việc áp dụng pháp luật và phân định thẩm quyền giải quyết các vấn đề liên
quan đến điều kiện kết hơn, trình tự, thủ tục kết hơn có yếu tố nước ngồi, bên cạnh đó
nhằm mục đích hồn thiện những thiếu sót, bất cập của pháp luật Việt Nam hiện hành
điều chỉnh về quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngoài.
GVHD: Th.S Nguyễn Huỳnh Anh
Trang 4
SVTH: Võ Tấn Tài
Pháp luật Việt Nam về kết hơn có yếu tố nước ngoài – Lý luận và thực tiễn
3. Phạm vi nghiên cứu
Với đề tài này người viết chủ yếu tìm hiểu quy định của pháp luật Việt Nam về
vấn đề kết hơn có yếu tố nước ngồi cũng như là thẩm quyền giải quyết các vấn đề có
liên quan kết hơn có yếu tố nước ngồi như: Thẩm quyền kết hơn, pháp luật về điều
kiện kết hơn, trình tự thủ tục đăng ký kết hơn. Bên cạnh đó, người viết cịn tìm hiểu và
phân tích những vấn đề mang tính thực tiễn xung quanh vấn đề kết hơn có yếu tố nước
ngồi.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để tìm hiểu đề tài, người viết sử dụng những phương pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp phân tích luật viết: phân tích những quy định của pháp luật hiện
hành điều chỉnh việc kết hơn có yếu tố nước ngồi, sau đó đánh giá, tổng hợp với các
cơ sở lý luận để có thể nhìn nhận đầy đủ về quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngoài.
Phương pháp so sánh, đối chiếu: đối chiếu lý luận với thực tiễn, qua đó đúc kết từ
thực tiễn tinh thần chung theo luật và đề ra phương hướng khắc phục những vướng
mắc cịn tồn tại trong q trình thi hành pháp luật.
Ngoài ra, khi tiến hành thực hiện đề tài, người viết đã tiến hành thu thập một số
thơng tin trên internet, báo chí, sách, giáo trình của một số trường đại học có liên quan
đến vấn đề kết hơn có yếu tố nước ngồi.
5. Kết cấu luận văn
Với đề tài “Pháp luật Việt Nam về kết hôn có yếu tố nước ngồi – Lý luận và
thực tiễn” , ngoài phần mục lục, lời mở đầu và danh mục tài liệu tham khảo người viết
chia đề tài thành ba chương:
Chương 1: Khái qt về kết hơn có yếu tố nước ngồi
Trong chương này người viết trình bày những nội dung khái qt về kết hơn và
kết hơn có yếu tố nước ngồi, đồng thời trình bày về đối tượng điều chỉnh và phương
pháp điều chỉnh, các nguyên tắc giải quyết xung đột pháp luật, lược sử phát triển của
quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngồi qua các thời kỳ từ trước cách mạng tháng Tám
đến nay.
Chương 2: Quy định pháp luật Việt Nam về quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngồi
Để phân tích, nhận xét về những quy định của pháp luật hiện hành điều chỉnh
quan hệ hơn nhân có yếu tố nước ngồi trong chương này người viết tập trung phân
tích những quy định cụ thể của pháp luật thông quan các văn bản Luật hôn nhân và gia
GVHD: Th.S Nguyễn Huỳnh Anh
Trang 5
SVTH: Võ Tấn Tài
Pháp luật Việt Nam về kết hơn có yếu tố nước ngồi – Lý luận và thực tiễn
đình, Luật Hộ tịch, Nghị định 123/2015/NĐ-CP của chính phủ quy định chi tiết một số
điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch, Thông tư 15/2015/TT-BTP của Bộ Tư pháp
quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hộ tịch và Nghị định số 123/2015/NĐCP, của chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch,…
Người viết tập trung phân tích những quy định về điều kiện kết hơn, thẩm quyền giải
quyết, trình tự, thủ tục giải quyết; công nhận và từ chối việc đăng ký kết hơn có yếu tố
nước ngồi.
Chương 3: Thực trạng và giải pháp khắc phục những tồn tại trong kết hơn có yếu
tố nước ngồi
Ở chương này người viết tìm hiều thực trạng tình hình kết hơn của những cơ gái
Việt Nam với người nước ngồi, đồng thời nêu lên những vướng mắc hiện nay khi áp
dụng pháp luật để điều chỉnh các vấn đề liên quan đến quan hệ hơn nhân có yếu tố
nước ngồi, thơng qua đó có những ý kiến và đề xuất hợp lý để góp phần hồn thiện
những quy định của pháp luật về vấn đề này trong giai đoạn hiện nay ở nước ta.
GVHD: Th.S Nguyễn Huỳnh Anh
Trang 6
SVTH: Võ Tấn Tài
Pháp luật Việt Nam về kết hơn có yếu tố nước ngoài – Lý luận và thực tiễn
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ KẾT HƠN CĨ YẾU TỐ NƯỚC NGỒI
Trong những năm gần đây, với chính sách mở rộng hội nhập quốc tế của Đảng
và Nhà nước ta đã làm cho đời sống của nhân dân được cải thiện đáng kể. Cùng với sự
phát triển của quá trình giao lưu quốc tế, các quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngồi
ngày càng phát triển một cách đa dạng và phức tạp cả về chiều rộng lẫn chiều sâu.
Việc điều chỉnh các quan hệ hơn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài trở thành một
yêu cầu cấp bách và quan trọng, điều đó khơng chỉ góp phần ổn định và phát triển giao
lưu dân sự quốc tế mà còn là nhu cầu thiết yếu của xã hội, nhằm hướng đến bảo quyền
và lợi ích hợp pháp của cơng dân khi tham gia vào quan hệ kết hơn có yếu tố nước
ngồi.
Ở chương này, người viết trình bày về khái qt về quan hệ kết hơn có yếu tố
nước ngồi, đồng thời nêu đối tượng điều chỉnh, phương pháp điều chỉnh trong quan
hệ kết hơn có yếu tố nước ngồi, bên cạnh nêu lên nguồn điều chỉnh, và lịch sử hình
thành quy định pháp luật điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước
ngồi nói chung, quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngồi nói riêng.
1.1. Khái qt về quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngồi
1.1.1. Khái niệm về kết hơn
Theo quan điểm Mác – Lênin gia đình đơn vị nhỏ nhất của xã hội, là tế bào của
xã hội, có tác động tích cực thúc đẩy sự phát triển của xã hội nên gia đình gắn liền với
đời sống của xã hội, hạnh phúc của mỗi cá nhân, góp phần quan trọng vào sản xuất,
đào tạo con người.
Sinh thời chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng khẳng định: “Quan tâm đến gia đình
là đúng vì nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã
hội tốt thì gia đình càng tốt hơn, hạt nhân của xã hội là gia đình” 1. Do đó quan tâm
đến gia đình, xây dựng gia đình tốt chính là quan tâm và xây dựng xã hội vững mạnh
và ngày một tốt hơn. Khi nói đến gia đình thì chúng ta không thể bỏ qua mối quan hệ
cơ bản nhất trong mỗi gia đình đó chính là hơn nhân.
Hơn nhân, trong chừng mực nào đó có thể được định nghĩa như là sự kết hợp
giữa hai người, một nam một nữ để chung sống, cùng lao động và sản xuất, cũng như
dành cho nhau sự giúp đỡ và hỗ trợ cần thiết trong cuộc sống hàng ngày.
Tuy nhiên ở một số nước thì vấn đề hơn nhân lại có những quy định khác nhau.
Một số nước Hồi giáo vẫn thừa nhận rằng hôn nhân là sự kết hợp giữa nam và nữ,
1 Bài nói tại hội nghi cán bộ thảo luận dự thảo Luật Hơn Nhân và Gia đình, Hồ Chí Minh tồn tập 9, Nxb Chính
trị Quốc gia Hà Nội, năm 2000, Trang 531-532
GVHD: Th.S Nguyễn Huỳnh Anh
Trang 7
SVTH: Võ Tấn Tài
Pháp luật Việt Nam về kết hơn có yếu tố nước ngoài – Lý luận và thực tiễn
nhưng người đàn ông lại được phép thực hiện sự kết hợp đó với nhiều người phụ nữ
cùng lúc. Mặt khác, ở một số nước Bắc Âu, đơn cử là Hà Lan lại xuất hiện xu hướng
cho rằng sự khác biệt giới tính không phải là điều kiện bắt buộc của hôn nhân, theo đó
thì những người cùng giới tính vẫn có thể chung sống với nhau và pháp luật vẫn công
nhận cuộc hơn nhân này. Cịn ở Việt Nam thì hơn nhân được định nghĩa như sau:
“Hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi kết hôn2”. Quan hệ hôn nhân ở Việt
Nam chỉ được công nhận khi sự kết hợp giữa người nam và người nữ sau khi đã tiến
hành thủ tục kết hôn theo quy định của pháp luật. Có thể nói rằng kết hơn chính là
điểm khởi đầu của hôn nhân.
Kết hôn được xem như là sự kiện xác lập hôn nhân, tạo nên sự liên kết đặc biệt
giữa hai con người và tạo thành quan hệ vợ chồng.
Dưới góc độ xã hội, thì kết hơn là việc nam nữ chính thức lấy nhau thành vợ
thành chồng. Theo truyền thống và phong tục, tập quán của người Việt Nam thì nam,
nữ được coi là chính thức lấy nhau thành vợ chồng khi hai bên nam nữ tổ chức lễ cưới
theo nghi lễ truyền thống, và kể từ đó được cộng đồng thừa nhận là vợ chồng. Như
vậy, dưới góc độ xã hội kết hơn được hiểu là hình thức xác lập quan hệ vợ chồng.
Dưới góc độ pháp lý, thì kết hơn được giải thích tại Điều 3 khoản 5 luật Hơn
Nhân và gia đình 2014 như sau: “Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng
với nhau theo quy định của Luật Hơn nhân và gia đình về điều kiện kết hơn và đăng ký
kết hôn”. Như vậy việc kết hôn pháp luật Việt Nam chỉ công nhận kết hôn là sự kết
hợp giữa nam và nữ, không thừa nhận quan hệ kết hơn của những người cùng giới
tính3. Việc xác lập quan hệ vợ chồng phải tuân thủ đầy đủ quy định của pháp luật về
điều kiện kết hôn và đăng kí kết hơn. Theo đó thì các bên có thể tuân thủ hay không
tuân thủ các điều kiện, quy định của phong tục tập quán hay của tôn giáo nhưng bắt
buộc phải tuân thủ các điều kiện và nghi thức do pháp luật quy định, hay nói cách khác
là kết hơn chính là sự thừa nhận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về việc xác lập
quan hệ vợ chồng của nam và nữ, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa họ với
nhau.
1.1.2. Quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngồi
Ngày nay cùng với sự phát triển của quá trình giao lưu quốc tế, các quan hệ về
hơn nhân có yếu tố nước ngồi phát sinh ngày càng nhiều, việc giải quyết xung đột
pháp luật trong mối quan hệ đó trở thành yêu cầu quan trọng và cấp bách đối với mỗi
2 Khoản 1 điều 3 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014.
3 Khoản 2 Điều 8 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014.
GVHD: Th.S Nguyễn Huỳnh Anh
Trang 8
SVTH: Võ Tấn Tài
Pháp luật Việt Nam về kết hơn có yếu tố nước ngoài – Lý luận và thực tiễn
quốc gia trong cộng đồng quốc tế nhằm bảo vệ quyền lợi của cơng dân của nước mình
khi tham gia vào mối quan hệ này.
Việc điều chỉnh quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngồi khơng chỉ phụ thuộc vào
pháp luật trong nước mà cịn phụ thuộc vào pháp luật nước ngồi và điều ước quốc tế
mà các nước kí kết hoặc gia nhập.
Về quan hệ kết có yếu tố nước ngồi, Luật Hơn nhân và gia đình 2014 đã đề
cập đến vấn đề kết hôn tại khoản 5 Điều 3 của luật này: “Kết hôn là việc nam và nữ
xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật này về điều kiện kết hôn và
đăng ký kết hơn” và quan hệ hơn nhân có yếu tố nước ngồi tại khoản 25 Điều 3 Luật
hơn nhân và gia đình: “Quan hệ hơn nhân và gia đình có yếu tố nước ngồi là quan hệ
hơn nhân và gia đình mà ít nhất một bên tham gia là người nước ngoài, người Việt
Nam định cư ở nước ngoài; quan hệ hơn nhân và gia đình giữa các bên tham gia là
công dân Việt Nam nhưng căn cứ xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp
luật nước ngồi, phát sinh tại nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở
nước ngồi”.
Như vậy, kết hơn có yếu tố nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam là
việc nam và nữ xác lập quan hệ hơn nhân và gia đình theo quy định của pháp luật Việt
Nam và thỏa điều kiện sau:
Thứ nhất, việc kết hơn mà có ít nhất một bên tham gia là người nước ngoài,
người Việt Nam định cư ở nước ngoài;
Thứ hai, việc kết hôn giữa các bên tham gia là công dân Việt Nam với nhau
nhưng căn cứ xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài và
phát sinh tại nước ngoài.
1.2. Đối tượng điều chỉnh
1.2.1. Yếu tố chủ thể
Vấn đề xác định chủ thể trong quan hệ hơn nhân có yếu tố nước ngồi thường
căn cứ vào nguyên tắc luật nhân thân của các bên nam, nữ tham gia vào quan hệ kết
hôn, tức dựa vào sự cư trú hoặc dựa vào yếu tố quốc tịch của các bên chủ thể tham gia
vào quan hệ kết hôn.
Theo khoản 25 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 thì chủ thể trong quan
hệ kết hơn có yếu tố nước ngồi là: Người nước ngồi, người Việt Nam định cư ở nước
ngồi, cơng dân Việt Nam. Căn cứ quy định này thì yếu tố chủ thể được chia thành các
trường hợp sau:
Trường hợp thứ nhất, chủ thể là người nước ngoài. Khái niệm về người nước
ngoài được sử dụng trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam. Theo đó, để
làm rõ khái niệm người nước ngồi thì nghị định 138/2006/NĐ-CP ngày 15 tháng 11
GVHD: Th.S Nguyễn Huỳnh Anh
Trang 9
SVTH: Võ Tấn Tài
Pháp luật Việt Nam về kết hơn có yếu tố nước ngoài – Lý luận và thực tiễn
năm 2006 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành các quy định của Bộ Luật Dân sự
về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi, tại khoản 2 Điều 3 đã định nghĩa: “Người
nước ngồi là người khơng có quốc tịch Việt Nam, bao gồm người quốc tịch nước
ngoài và người khơng quốc tịch”. Bên cạnh đó thì Luật Quốc tịch năm 2008, giải thích
về quốc tịch nước ngồi và người khơng quốc tịch theo đó thì: tại khoản 1 Điều 3 giải
thích: “Quốc tịch nước ngồi là quốc tịch nước khác không phải là quốc tịch Việt
Nam”, tại khoản 2 Điều 3 giải thích: “Người khơng quốc tịch là người khơng có quốc
tịch Việt Nam và cũng khơng có quốc tịch nước ngoài”. Như vậy, người nước ngoài ở
đây bao gồm các trường hợp: là người có một quốc tịch là quốc tịch nước ngồi, có hai
hay nhiều quốc tịch là quốc tịch nước ngồi, hoặc là người khơng mang quốc tịch của
bất kì nước nào.
Trường hợp thứ hai, chủ thể là công dân Việt Nam. Khái niệm về công dân
Việt Nam được định nghĩa rõ ràng trong các văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam.
Theo đó, thì tại khoản 1 Điều 17 Hiến pháp 2013 thì: “Cơng dân nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là người có quốc tịch Việt Nam”, hay là quy định tại khoản 1 Điều
5 Luật Quốc tịch nêu rõ: “Người quốc tịch Việt Nam là công dân Việt Nam”. Cơ sở
pháp lý quan trọng để xác định tư cách chủ thể trong quan hệ kết hơn có yếu tố nước
ngồi đó là quốc tịch của các bên. Quốc tịch là trạng thái pháp lý ràng buộc xác định
mối quan hệ giữa nhà nước với cá nhân có quốc tịch.
Ở Việt Nam quốc tịch được quy định trong luật quốc tịch năm 2008, theo quy
định của luật này người mang quốc tịch Việt Nam là người được sinh ra trong hay
ngoài lãnh thổ Việt Nam mà có cha và mẹ đều là công dân Việt Nam 4; hay là người
được sinh ra trong hoặc ngồi lãnh thổ Việt Nam mà có cha hoặc có mẹ là cơng dân
Việt Nam cịn người kia là người khơng quốc tịch hoặc có mẹ là công dân Việt Nam
mà cha không ghi rõ là ai; được sinh ra có cha hoặc mẹ là cơng dân Việt Nam cịn
người kia là cơng dân nước ngồi, nếu có sự thỏa thuận bằng văn bản của cha mẹ vào
thời điểm đăng kí khai sinh cho con, hoặc là trường hợp được sinh trên lãnh thổ Việt
Nam mà cha mẹ không thỏa thuận được việc lựa chọn quốc tịch cho con 5; hay là
trường hợp trẻ em được sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam mà khi sinh ra có cha mẹ đều là
người khơng quốc tịch, nhưng có nơi thường trú tại Việt Nam; Trẻ em sinh ra trên lãnh
thổ Việt Nam mà khi sinh ra có mẹ là người khơng quốc tịch, nhưng có nơi thường trú
tại Việt Nam, cịn cha khơng rõ là ai 6; Trẻ sơ sinh bị bỏ rơi, trẻ em được tìm thấy trên
lãnh thổ Việt Nam mà không rõ cha mẹ là ai; hoặc là Trẻ sơ sinh bị bỏ rơi, trẻ em được
4 Điều 15 Luật Quốc tịch năm 2008.
5 Điều 16 Luật Quốc tịch năm 2008
6 Điều 17 Luật Quốc tịch năm 2008.
GVHD: Th.S Nguyễn Huỳnh Anh
Trang 10
SVTH: Võ Tấn Tài
Pháp luật Việt Nam về kết hơn có yếu tố nước ngồi – Lý luận và thực tiễn
tìm thấy trên lãnh thổ Việt Nam mà không rõ cha mẹ là ai, khi trẻ em chưa đủ 15 tuổi
mà tìm thấy cha mẹ mà cha mẹ chỉ có quốc tịch nước ngồi, hay là chỉ tìm thấy cha
hoặc mẹ mà người đó chỉ có quốc tịch nước ngồi.7
Khi tham gia vào quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngồi, cơng dân Việt Nam
phải tuân thủ theo quy định của pháp luật Việt Nam khi tham gia vào quan hệ này.
Trường hợp thứ ba, chủ thể là người định cư ở nước ngoài. Hiến pháp năm
2013 khẳng định tại Điều 18 như sau: “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài là bộ
phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam”. Khái niệm về người Việt Nam
định cư ở nước ngồi được giải thích tại khoản 3 Điều 3 nghị định số 138/NĐ-CP như
sau: “Người Việt Nam định cư ở nước ngồi là người có quốc tịch Việt Nam và người
gốc Việt Nam đang cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài ở nước ngoài”, và cũng bắt đầu
từ Luật hơn nhân và gia đình năm 2014, thì chủ thể là người Việt Nam định cư ở nước
ngoài được đưa vào quan hệ hơn nhân có yếu tố nước ngoài. Xét về quốc tịch của
người Việt Nam định cư ở nước ngoài, Luật Quốc tịch 2008 sửa đổi, bổ sung năm
2014 quy định tại khoản 2 Điều 13 như sau: “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài
mà chưa mất quốc tịch Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam trước ngày
Luật Quốc tịch 2008 sửa đổi bổ sung năm 2014 có hiệu lực thì vẫn cịn quốc tịch Việt
Nam; Người Việt Nam định cư ở nước ngồi chưa mất quốc tịch Việt Nam mà khơng
có giấy tờ chứng minh quốc tịch Việt Nam theo quy định của Luật Quốc tịch 2008 sửa
đổi bổ sung năm 2014 thì đăng ký với cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngồi để
được xác định có quốc tịch Việt Nam và cấp Hộ chiếu Việt Nam". Như vậy người Việt
Nam định cư ở nước ngoài bao gồm:
Thứ nhất, là người có quốc tịch Việt Nam nhưng đang cư trú, làm ăn, sinh sống
lâu dài ở nước ngoài.
Thứ hai, là người gốc Việt Nam đang cư trú, làm ăn, sinh sống lâu dài ở nước
ngồi, theo đó người gốc Việt Nam là người đã từng có quốc tịch Việt Nam mà khi
sinh ra quốc tịch của họ được xác định theo nguyên tắc huyết thống và bao gồm con,
cháu của họ.8
1.2.2. Yếu tố khách thể
Khách thể của một quan hệ pháp luật là các lợi ích vật chất hoặc tinh thần mà
chủ thể mong muốn đạt đến khi tham gia vào quan hệ pháp luật. Khách thể là một yếu
tố bắt buộc trong một quan hệ pháp luật vì đó là động cơ, nguyên nhân để phát sinh
7 Điều 18 Luật Quốc tịch năm 2008
8 Khoản 4 Điều 3 Luật Quốc tịch năm 2008.
GVHD: Th.S Nguyễn Huỳnh Anh
Trang 11
SVTH: Võ Tấn Tài
Pháp luật Việt Nam về kết hơn có yếu tố nước ngoài – Lý luận và thực tiễn
quyền, nghĩa vụ giữa các chủ thể. Lợi ích là yếu tố hiện diện trong quan hệ pháp luật.
Lợi ích rất đa dạng: vật chất và phi vật chất, hữu hình và vơ hình, cho cá nhân hay cho
tập thể, cho cộng đồng 9,..
Khác với các quan hệ pháp luật khác, nếu như khách thể của quan hệ pháp luật
dân sự có thể là đối tượng tài sản, vật chất cũng như những giá trị tinh thần, hay khách
thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ thì khách thể của
quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngồi chính là quyền nhân thân của các bên tham gia
vào mối quan hệ này. Trong quan hệ pháp luật về kết hơn có yếu tố nước ngồi thì yếu
tố tình cảm giữa các bên là nét đặc trưng và sẽ quyết định để xác lập kết hôn, đảm bảo
cho cuộc hôn nhân được lâu dài.
1.2.3. Yếu tố sự kiện pháp lý
Theo lý luận về nhà nước và pháp luật: “sự kiện pháp lý là những sự kiện thực
tế mà sự xuất hiện hay mất đi của chúng được pháp luật gắn với việc hình thành, thay
đổi hoặc chấm dứt quan hệ pháp luật. Sự kiện pháp lý có thể coi là cầu nối giữa quy
phạm pháp luật và quan hệ pháp luật” 10. Sự kiện pháp lý đóng vai trị quan trọng
trong quan hệ pháp luật, bởi vì một quan hệ pháp luật chỉ phát sinh, thay đổi hoặc
chấm dứt dưới tác động của ba điều kiện: Quy phạm pháp luật, năng lực chủ thể và sự
kiện pháp lý. Sự kiện pháp lý có thể chia thành hai loại:
Thứ nhất, sự kiện pháp lý đơn nhất là sự kiện đơn lẻ mà pháp luật gắn sự kiện
này với nội dung của quy định pháp luật.
Thứ hai, sự kiện pháp lý phức hợp là tập hợp một loạt các sự kiện mà chỉ khi
chúng xuất hiện toàn bộ thì mới làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt một quan hệ pháp
luật.11
Sự kiện pháp lý trong quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngồi, chính là sự kiện
làm xác lập quan hệ hơn nhân có yếu tố nước ngồi. Sự kiện pháp lý trong quan hệ kết
hơn có yếu tố nước ngoài là sự kiện phức hợp. Sự kiện này bắt đầu từ lúc khi các bên
nam, nữ đi đăng kí kết hơn và kết thúc khi đã được cơ quan có thẩm quyền chấp nhận
và cấp giấy chứng nhận kết hôn.
Việc xác định sự kiện pháp lý trong quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngồi có ý
nghĩa quan trọng trong việc làm phát sinh quan hệ pháp luật điều chỉnh mối quan hệ xã
hội này, cụ thể đó là quan hệ pháp luật kết hơn có yếu tố nước ngồi.
1.3. Phương pháp điều chỉnh quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngồi
Tư pháp quốc tế Việt Nam cũng như Tư pháp quốc tế của đa số các nước trên
thế giới đều có những cách thức, biện pháp rất riêng biệt và đặc thù của mình để điều
9 Phan Trung Hiền, Lý luận nhà nước và pháp luật (Quyển 1), Nxb Chính trị quốc gia, 2012, trang 133.
10 Lê Minh Tâm, Giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật, Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB Tư Pháp, 2004,
trang 447.
11 Phan Trung Hiền, Lý luận về nhà nước và pháp luật (quyển 2), Nxb Chính trị quốc gia, 2013, trang 137.
GVHD: Th.S Nguyễn Huỳnh Anh
Trang 12
SVTH: Võ Tấn Tài
Pháp luật Việt Nam về kết hơn có yếu tố nước ngoài – Lý luận và thực tiễn
chỉnh và phân định quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể tham gia vào các quan hệ
pháp luật dân sự mang tính chất quốc tế. Khi đó, phương pháp điều chỉnh là phương
pháp đặc thù của chuyên nghành Tư pháp quốc tế.
Phương pháp điều chỉnh của Tư pháp quốc tế về các quan hệ dân sự theo nghĩa
rộng có yếu tố nước ngồi nói chung và quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngồi nói
riêng, bao gồm phương pháp xung đột và phương pháp thực chất. Hai phương pháp
này có sự kết hợp hài hòa, cũng như sự tác động tương hỗ trong việc thiết lập một cơ
chế điều chỉnh các quan hệ Tư pháp quốc tế và bảo đảm một trật tự pháp lý dân sự
quốc tế.12
1.3.1. Phương pháp xung đột
Phương pháp xung đột trong Tư pháp quốc tế là phương pháp được hình thành
và xây dựng trên nền tảng hệ thống các quy phạm xung đột của quốc gia, kể cả các
quy phạm xung đột trong các điều ước quốc tế mà quốc gia đó là thành viên. Đây là
phương pháp sử dụng các quy phạm xung đột để giải quyết vấn đề. Phương pháp xung
đột không trực tiếp giải quyết quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngồi, mà chỉ có nhiệm
vụ dẫn chiếu tới luật thực chất của quốc gia mà ở đó có các quy định phân quyền và
nghĩa vụ của các bên. Tính gián tiếp của phương pháp xung đột thể hiện ở việc dẫn
chiếu đến hệ thống pháp luật áp dụng, còn việc áp dụng phụ thuộc vào pháp luật của
nước mà được quy phạm xung đột dẫn chiếu đến.
Khoản 1 Điều 126 của luật hơn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Trong
việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, mỗi bên phải tuân theo
pháp luật của nước mình về điều kiện kết hơn”. Quy định trên là quy định pháp luật
xung đột vì quy định này chỉ ra quy định chọn pháp luật áp dụng của các bên nam, nữ
khi tiến hành đăng kết hôn, theo đó các bên sẽ phải tuân theo quy định của nước mà họ
mang quốc tịch về điều kiện kết hơn, ngồi ra nếu việc kết hơn tiến hành tại cơ quan
thẩm quyền của Việt Nam thì người nước ngồi còn phải tuân thủ theo các quy định
của Việt Nam về điều kiện kết hôn.
Thông thường các quy phạm pháp luật cấu thành từ hai bộ phận: phần phạm vi
và phần hệ thuộc. Trong đó, phần phạm vi chỉ ra những quan hệ mà quy phạm điều
chỉnh, phần hệ thuộc quy định pháp luật nước nào cần được áp dụng để điều chỉnh loại
quan hệ nêu trong phần phạm vi 13. Hiện nay có các hình thức quy phạm xung đột: quy
phạm xung đột một chiều và quy định xung đột hai chiều.
12 Bùi Xuân Nhự, Giáo trình Tư pháp quốc tế, trường Đại học Hà Nội, Nxb Tư pháp, 2006, trang 31.
13 Giáo trình Tư pháp quốc tế (phần chung), Trường Đại học luật Tp.Hồ Chí Minh, Nxb Hồng Đức, năm 2013,
Trang 119.
GVHD: Th.S Nguyễn Huỳnh Anh
Trang 13
SVTH: Võ Tấn Tài
Pháp luật Việt Nam về kết hơn có yếu tố nước ngồi – Lý luận và thực tiễn
Tóm lại, phương pháp xung đột một mặt nó ln được hồn thiện và pháp điển
hóa trong điều kiện quốc tế hóa đời sống quốc tế, mặt khác nó cũng ln được bổ sung
và hoàn thiện trong luật pháp của mỗi quốc gia. Vì thế, phương pháp xung đột được áp
dụng khá phổ biến để điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi nói chung,
và quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngồi nói riêng. Đây là phương pháp được áp dụng
thông qua các quy phạm xung đột. Quy phạm xung đột là quy phạm pháp luật đặc biệt,
tuy không trực tiếp quy định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia vào quan hệ
kết hôn có yếu tố nước ngồi, nhưng chỉ ra việc áp dụng pháp luật của một nước nào
đó để điều chỉnh quan hệ này. Đây là một quy phạm được các quốc gia sử dụng để giải
quyết các vấn đề phát sinh trong quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngồi. Vì thế, các quy
phạm xung đột cần phải được xây dựng hoàn thiện.
1.3.2. Phương pháp thực chất
Phương pháp thực chất được xây dựng trên cơ sở hệ thống các quy phạm thực
chất trực tiếp phân định quyền và nghĩa vụ giữa các bên tham gia quan hệ này. Trong
quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngồi, quy phạm thực chất áp dụng để giải quyết trong
hai trường hợp:
Thứ nhất, khi quy phạm thực chất được pháp luật quy định áp dụng để điều
chỉnh quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngồi thì các quy định điều chỉnh về quyền và
nghĩa vụ của công dân Việt Nam cũng được áp dụng cho người nước ngồi tại Việt
Nam. Ví dụ, theo khoản 2 Điều 121 Luật Hôn nhân và gia đình 2014: “Trong quan hệ
hơn nhân và gia đình với cơng dân Việt Nam người nước ngồi có quyền và nghĩa vụ
như công dân Việt Nam”.
Thứ hai, trong trường hợp có quy phạm xung đột dẫn chiếu đến việc áp dụng
pháp luật của một nước, lúc này các quy phạm thực chất nước đó được áp dụng để
điều chỉnh. Ví dụ, khoản Điều 25 Hiệp định tương trợ tư pháp về dân sự và hình sự
giữa nước Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hoà dân chủ nhân dân
Lào quy định: “Nghi thức kết hôn được thực hiện theo pháp luật của Nước ký kết nơi
tiến hành kết hơn”. Từ quy định trên có thể thấy, trong trường hợp công dân Việt Nam
kết hôn với cơng dân Lào tại Việt Nam thì với quy định của Hiệp định thì nghi thức kết
hơn giữa trong trường hợp này sẽ được thực hiện theo pháp luật của Việt Nam, và để
giải quyết về nghi thức kết hôn thì phải căn cứ vào các quy định thực chất của pháp
luật Việt Nam để giải quyết.
Các quy phạm thực chất có thể được xây dựng trong các điều ước quốc tế gọi là
quy phạm thực chất thống nhất, còn các quy phạm thực chất được xây dựng trong các
văn bản pháp quy của mỗi quốc gia được gọi là quy phạm thực chất không thống nhất.
Phương pháp thực chất là phương pháp giải quyết trực tiếp quan hệ kết hơn có yếu tố
GVHD: Th.S Nguyễn Huỳnh Anh
Trang 14
SVTH: Võ Tấn Tài
Pháp luật Việt Nam về kết hơn có yếu tố nước ngoài – Lý luận và thực tiễn
nước ngoài. Đây là phương pháp tăng khả năng điều chỉnh hữu hiệu của luật pháp,
mang tính khả thi cao, loại bỏ sự khác biệt, thậm chí mâu thuẫn trong pháp luật giữa
các nước với nhau trong quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngồi.
Vì vậy, phương pháp thực chất là một phương pháp điều chỉnh mang lại hiệu
quả giải quyết xung đột pháp luật một cách tốt nhất. Việc vận dụng và tăng cường khả
năng áp dụng phương pháp thực chất thống nhất sẽ thúc đẩy sự hợp tác về mọi mặt
giữa các quốc gia, đảm bảo một trật tự thế giới mới trên quy mơ tồn cầu về vấn đề kết
hơn có yếu tố nước ngồi.
1.4. Nguồn luật điều chỉnh quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngồi
1.4.1. Pháp luật quốc gia
Pháp luật quốc gia là tổng thể các quy tắc, các quy định điều chỉnh mọi lĩnh vực
trong đời sống xã hội của chính quốc gia đó. Đây là công cụ cơ bản chủ yếu đề một
nhà nước thực hiện chức năng của mình.
Pháp luật quốc gia với tư cách là nguồn pháp luật điều chỉnh quan hệ kết hơn có
yếu tố nước ngồi, chứa đựng các ngun tắc và các quy phạm pháp luật trong nước
nhằm điều chỉnh các quan hệ hơn nhân có yếu tố nước ngồi. Trong thực tế, pháp luật
quốc gia có nhiều hình thức khác nhau chứa đựng các nguyên tắc, các quy phạm điều
chỉnh quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngoài, như văn bản quy phạm pháp luật, tiền lệ
pháp, tập quán pháp. Tuy nhiên hình thức nào được coi là nguồn pháp luật quốc gia
điều chỉnh quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngồi thì hồn tồn phụ thuộc vào quy
định của từng hệ thống pháp luật của các quốc gia.
Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các vấn đề liên quan đến quyền
và nghĩa vụ của các bên khi tham gia vào quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngồi được
quy định trong các văn bản sau:
Hiến pháp: đây là văn bản có giá trị pháp lý cao nhất ở Việt Nam, trong đó quy
định các nguyên tắc cơ bản về mặt pháp lý đối với tất cả các vấn đề quan trọng của đất
nước như: Chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội, tổ chức và hoạt động của bộ máy
nhà nước quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, trong đó bao gồm quyền kết hơn .
Quyền kết hôn được xem là quyền cơ bản của công dân, được pháp luật thừa nhận và
bảo vệ. Điều này được ghi nhậnn trong các bản hiến pháp của Việt Nam như: Điều 9
Hiến pháp năm 1946 được ghi nhận: “Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi
phương diện”, đây được coi là cơ sở pháp lý để khẳng định sự bình đẳng nam nữ trong
quan hệ hơn kết hơn; tại Điều 24 Hiến pháp 1959 ghi nhận: “Phụ nữ có quyền bình
đẳng với nam giới về các mặt sinh hoạt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình,
GVHD: Th.S Nguyễn Huỳnh Anh
Trang 15
SVTH: Võ Tấn Tài
Pháp luật Việt Nam về kết hơn có yếu tố nước ngoài – Lý luận và thực tiễn
nhà nước bảo hộ quyền hôn nhân”; tại Điều 64 Hiến pháp 1992 ghi nhận: “ Nhà nươc
bảo hộ quan hệ hôn nhân và gia đình, hơn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một
chồng,vợ chồng bình đẳng”, tại Điều 36 Hiến pháp 2013 “Nam, nữ có quyền kết hơn,
ly hơn. Hơn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng
bình đẳng tơn trọng lẫn nhau; nhà nước bảo hộ hơn nhân và gia đình, bảo hộ quyền
lợi của bà mẹ và trẻ em”.
Bộ luật Dân sự: Theo Điều 6 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014, các quy
định của Bộ luật Dân sự liên quan đến quan hệ hơn nhân và gia đình được áp dụng
trong trường hợp pháp luật về hơn nhân và gia đình khơng có quy định. Quan hệ dân
sự nói chung và quan hệ hơn nhân, trong đó có quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngồi
nói riêng, được quy định tại phần thứ 7, chương “Quan hệ dân sự có yếu tố nước
ngoài” của Bộ luật dân sự năm 2005. Những nguyên tắc được quy định trong phần này
được kết hợp với những quy định về hôn nhân và gia đình nói chung trong Bộ luật
Dân sự đã tạo thành nguyên tắc cơ bản trong việc điều chỉnh qua hệ kết hơn có yếu tố
nước ngồi ở Việt Nam.
Luật Hơn nhân và gia đình: Luật hơn nhân và gia đình là văn bản pháp luật điều
chỉnh các quan hệ hôn nhân và gia đình bao gồm cả quan hệ kết hơn có yếu tố nước
ngồi. Trong đó, đưa ra những khái niệm về quan hệ hơn nhân có yếu tố nước ngồi,
quy định về quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngoài, việc áp dụng pháp luật trong quan
hệ hơn nhân có yếu tố nước ngồi,... Luật hơn nhân và gia đình năm 2014 là văn bản
pháp luật hiên hành của Việt Nam điều chỉnh về quan hệ hôn nhân và gia đình, trong
đó có quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngồi, được Quốc hội ban hành ngày 19 tháng
06 năm 2014 và chính thức có hiệu lực thi hành từ 01 tháng 01 năm 2015 đến nay
trong đó, chương VIII (từ Điều 121 đến 130) là những quy định về quan hệ hơn nhân
và gia đình có yếu tố nước ngồi.
Luật Hộ tịch: có hiệu lực ngày 01/01/2016, Luật Hộ tịch là văn bản pháp luật
điều chỉnh các vấn đề về hộ tịch, trong đó có các vấn đề về kết hơn có yếu tố nước
ngồi như: Thẩm quyền đăng kí kết hơn có yếu tố nước ngồi, thủ tục đăng ký kết hơn
có yếu tố nước ngoài,..
Ngoài các văn bản trên, một số nội dung liên quan đến quan hệ kết hơn có yếu
tố nước ngồi cịn được quy định trong các văn bản khác:
Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 sửa đổi bổ sung năm 2014.
Các Nghị định của Chính phủ như: Nghị định 126/2014/NĐ-CP, ngày 31 tháng
12 năm 2014, quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành luật hôn nhân và gia
đình, Nghị định 123/2015/NĐ-CP ngày 15/11/2015, quy định một số điều và biện pháp
thi hành luật Hộ tịch,…
GVHD: Th.S Nguyễn Huỳnh Anh
Trang 16
SVTH: Võ Tấn Tài
Pháp luật Việt Nam về kết hơn có yếu tố nước ngồi – Lý luận và thực tiễn
Ngồi ra cịn có thơng tư số 15/2015/TT-BTP của Bộ Tư pháp ban hành ngày
16 tháng 11 năm 2015, quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hộ tịch và nghị
định số 123/2015/NĐ-CP ngày 15 tháng 11 năm 2015 của chính phủ quy định chi tiết
một số điều và biện pháp thi hành Luật Hộ tịch.
1.4.2. Điều ước quốc tế
Điều ước quốc tế là văn bản thỏa thuận giữa các chủ thể của Luật quốc tế, chủ
yếu là các quốc gia với nhau nhằm điều chỉnh các vấn đề về quyền và nghĩa vụ giữa
các chủ thể trong quan hệ quốc tế.
Việc xác định một Điều ước quốc tế có phải là nguồn pháp luật điều chỉnh quan
hệ kết hôn có yếu tố nước ngồi hay khơng thì cần căn cứ vào đối tượng điều chỉnh
của điều ước quốc tế đó. Theo đó, tất cả các Điều ước quốc tế có quy phạm điều chỉnh
quan hệ kết hơn có yếu tố nươc ngồi thường khơng quy định cụ thể việc giải quyết
các vấn đề trong quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngoài mà chỉ quy định các nguyên tắc
chọn pháp luật áp dụng. Như vậy có thể nói rằng, các quy phạm được quy định trong
các Điều ước quốc tế và hôn nhân thường là các quy phạm xung đột.
Cho đến nay, cho dù chưa kí kết hoặc tham gia một điều ước quốc tế đa phương
nào về việc điều chỉnh quan hệ kết hơn có yếu nước ngồi, nhưng Việt Nam đã tích
cực kí kết các điều ước song phương với một số nước trên thế giới, trong đó quy định
một số vấn đề cơ bản điều chỉnh quan hệ hơn nhân có yếu tố nươc ngồi. Đó là các
hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý. Các nước mà Việt Nam đã ký Hiệp định tương
trợ tư pháp bao gồm: Ban Lan (năm 1993), Bê-la-rút (năm 2000), Bun-ga-ri (năm
1986), Triều Tiên (năm 2002), Cuba (năm 1984), Hung-ga-ri (năm 1985), Lào (năm
1998), Nga (năm 1981), Mông Cổ (năm 2000), Trung Quốc (năm 1998) 14,... Trong các
hiệp định này, bên cạnh việc đưa ra các quy định điều chỉnh các vấn đề tương trợ tư
pháp đối với các vấn đề hình sự, các Hiệp định này cịn quy định các vấn đề về dân sự,
bao gồm cả vấn đề liên quan đến quan hệ hôn nhân như kết hôn, li hôn.
Trong các hiệp định tương trợ tư pháp mà Việt Nam kí kết với các nước đã thỏa
thuận các nguyên tắc chọn pháp luật áp dụng trong trường hợp có xung đột pháp luật
trong lĩnh vực kết hơn có yếu tố nước ngồi. Ví dụ quy định về kết hôn trong hiệp định
tương trợ tư pháp và pháp lý về các vấn đề dân sự và hình sự giữa Việt Nam và Liên
bang Nga tại Điều 24 của Hiệp định như sau: “Về điều kiện kết hôn, mỗi bên đương sự
phải tuân theo pháp luật của Bên ký kết mà người đó là cơng dân. Ngồi ra, về những
trường hợp cấm kết hơn, việc kết hơn cịn phải tuân theo pháp luật của Bên ký kết nơi
14 Giáo trình luật hơn nhân và gia đình, trường Đại học luật tp Hồ Chí Minh, Nxb Hồng Đức, năm 2013, trang
127,128.
GVHD: Th.S Nguyễn Huỳnh Anh
Trang 17
SVTH: Võ Tấn Tài
Pháp luật Việt Nam về kết hơn có yếu tố nước ngoài – Lý luận và thực tiễn
tiến hành kết hơn; Hình thức kết hơn tn theo pháp luật của Bên ký kết nơi tiến hành
kết hôn”.
Các nguyên tắc và quy định trong hiệp định tương trợ tư pháp về vấn đề kết hơn
có yếu tố nước ngồi mà Việt Nam đã kí kết với các nước là cơ sở pháp lý cho Việt
Nam và các nước có liên quan thực hiện việc điều chỉnh quan hệ kết hơn có yếu tố
nước ngoài liên quan thực hiện việc điều chỉnh quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngồi
liên quan đến cơng dân của nước mình.
1.5. Các ngun tắc giải quyết xung đột pháp luật về quan hệ kết hôn có yếu tố
nước ngồi
1.5.1. Ngun tắc luật quốc tịch
Ngun tắc Luật quốc tịch hay còn gọi là luật bản quốc được hiểu là luật của
quốc gia mà các bên là công dân, nguyên tắc luật quốc tịch là những quy định của
nước mà các bên mang quốc tịch được áp dụng nhằm giải quyết các vấn đề liên quan
đến quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngồi. Ngun tắc Luật quốc tịch thường được áp
dụng để giải quyết các vấn đề liên quan đến chủ thể tham gia vào quan hệ kết hơn có
yếu tố nước ngồi. Theo khoản 1 Điều 126 luật Hơn nhân và gia đình năm 2014:
“Trong việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, mỗi bên phải tuân
theo quy định của nước mình về điều kiện kết hơn”. Theo quy định trên thì các bên
nam, nữ tham gia vào quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngồi các bên phải tuân theo
quy định của nước mà các bên mang quốc tịch.
Trong quan hệ dân sự nói chung và quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngồi nói
riêng, khi xảy ra xung đột thì Việt Nam cũng áp dụng nguyên tắc này để giải quyết.
Tuy nhiên, việc xác định quốc tịch của một chủ thể là công dân của nước nào vẫn là
một vấn đề quan trọng. Vì nguyên tắc này ngoài chịu sự điều chỉnh của điều ước quốc
tế, pháp luật nước ngồi, thì cịn chịu sự điều chỉnh của pháp luật nước sở tại. Vì vậy,
khi quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngồi phát sinh giữa cơng dân nước nào thì sẽ áp
dụng pháp luật của nước đó để điều chỉnh.
1.5.2. Nguyên tắc luật nơi cư trú
Đây là một nguyên tắc được áp dụng rộng rãi trong quan hệ kết hơn có yếu tố
nước ngồi. Theo ngun tắc này, quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngoài được điều
chỉnh theo pháp luật của nước nơi các bên nam, nữ tham gia vào quan hệ kết hơn có
yếu tố nước ngồi cư trú. Việc kết hơn giữa người nước ngoài với nhau ngoài việc họ
tuân thủ quy định của nước mà họ mang quốc tịch về những quy định kết hơn thì họ
GVHD: Th.S Nguyễn Huỳnh Anh
Trang 18
SVTH: Võ Tấn Tài
Pháp luật Việt Nam về kết hơn có yếu tố nước ngồi – Lý luận và thực tiễn
cịn phải tn thủ theo những quy định của Việt Nam về kết hôn nếu họ đang cư trú
trên lãnh thổ Việt Nam.
Đối với người nước ngồi là người có một quốc tịch thì việc áp dụng pháp luật
điều chỉnh quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngồi dễ dàng hơn, tuy nhiên với người
nước ngồi là người khơng quốc tịch hoặc người có hai hay nhiều quốc tịch thì việc áp
dụng không thể phụ thuộc vào quốc tịch mà phụ thuộc và nơi họ cư trú. Quy định tại
khoản 1 Điều 760 Bộ luật dân sự năm 2005: “Trong trường hợp Bộ luật này hoặc các
văn bản pháp luật khác của Cộng hoà xã hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam dẫn chiếu
đến việc áp dụng pháp luật của nước mà người nước ngồi là cơng dân thì pháp luật
áp dụng đối với người không quốc tịch là pháp luật của nước nơi người đó cư trú; nếu
người đó khơng có nơi cư trú thì áp dụng pháp luật Cộng hồ xã hội chủ nghĩa Việt
Nam”.
Nếu pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam dẫn chiếu đến
việc áp dụng pháp luật của nước mà người nước ngoài là cơng dân thì pháp luật áp
dụng đối với người không quốc tịch là pháp luật của nước nơi người đó cư trú; nếu
người đó khơng có nơi cư trú thì áp dụng pháp luật của nước Cộng hịa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngồi là người
khơng quốc tịch thì ngồi việc áp dụng pháp luật Việt Nam thì người không quốc tịch
sẽ áp dụng pháp luật của nước nơi mà người đó cư trú, nếu khơng có nơi cư trú thì sẽ
áp dụng pháp luật Việt Nam.
1.5.3. Nguyên tắc luật nơi thực hiện hành vi
Theo nguyên tắc này thì hành vi được thực hiện ở nước nào thì sẽ được điều
chỉnh bởi pháp luật nước đó. Nguyên tắc này được áp dụng chủ yếu để điều chỉnh về
nghi thức kết hơn trong quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngoài. Hầu hết pháp luật của
các nước cũng như các Điều ước quốc tế điều chỉnh về quan hệ kết hơn có yếu tố nước
ngồi, đều dựa vào nguyên tắc luật nơi thực hiện hành vi để điều chỉnh vấn đề nghi
thức kết hôn, tức là dựa vào luật của nước mà các bên chủ thể tham gia vào quan hệ
kết hôn. Ở Việt Nam, trong quan hệ kết hơn có u tố nươc ngồi, vấn đề áp dụng
nguyên tắc luật nơi thực hiện hành vi được ghi nhận tại khoản 1 Điều 126 luật hôn
nhân và gia đình 2014 như sau: “Việc kết hơn giữa những người nước ngồi với nhau
tại Việt Nam trước cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam phải tuân thủ theo quy định
của luật này về điều kiện kết hôn”. Theo quy định này thì người nước ngồi tiến hành
kết hơn tại Việt Nam thì phải tuân theo quy định pháp luật hơn nhân và gia đình Việt
Nam, tức là áp dụng nguyên tắc luật nơi thực hiện hành vi kết hôn.
Trên thực tế, nguyên tắc này được Việt Nam và nhiều quốc gia ghi nhận là một
nguyên tắc quan trọng khi điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngồi. Vì vậy,
GVHD: Th.S Nguyễn Huỳnh Anh
Trang 19
SVTH: Võ Tấn Tài
Pháp luật Việt Nam về kết hơn có yếu tố nước ngoài – Lý luận và thực tiễn
việc áp dụng nguyên tắc này một mặt giúp mở rộng phạm vi áp dụng pháp luật Việt
Nam, mặt khác tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam giải
quyết vụ việc một cách thuận lợi, nhanh chóng.
Tóm lại, những nguyên tắc cơ bản nêu trên để điều chỉnh quan hệ hơn nhân có
yếu tố nước ngồi, ln gắn bó chặt chẽ bổ sung cho nhau, tạo cơ sở pháp lý vững
chắc để bảo vệ lợi ích quốc gia, lợi ích của các bên khi tham gia vào quan hệ kết hơn
có yếu tố nước ngồi, ghóp phần thúc đẩy giao lưu dân sự quốc tế, tạo điều kiện thuận
lợi để mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập quốc tế.
1.6. Lịch sử hình thành quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngồi trong pháp luật Việt
Nam
1.6.1. Giai đoạn trước Cách mạng Tháng Tám 1945
Từ trước năm 1945 nước ta là nước thuộc địa nửa phong kiến, quan hệ dân sự
trong giai đoạn này được quy định trong Bộ luật Hồng Đức và Bộ luật Gia Long.
Bộ luật Hồng Đức được gọi là Quốc triều hình luật, ban hành dưới triều thời
Hậu Lê. Bộ luật Hồng Đức là cơng trình luật học vĩ đại đã kế thừa các di sản pháp luật
của các đời vua trước, đồng thời tiếp thu có sàng lọc Bộ luật nhà Đường ở Trung Quốc
mà vẫn giữ nét độc đáo của nền luật cổ Việt Nam.15
Bộ luật Gia Long gọi là Hoàng Việt luật lệ, ban hành dưới triều nhà Nguyễn và
soạn thảo theo quy trình chặt chẽ dưới sự kiểm sốt của Hồng Đế. Năm 1815, bộ luật
in thành sách ban hành trên phạm vi toàn quốc, và là lần đầu tiên trong lịch sử một bộ
luật thống nhất từ Đàng Trong đến Đàng Ngoài. Tuy nhiên ngay từ khi ban hành Bộ
Luật này có nhiều quy định lạc hậu hơn so với Bộ luật Hồng Đức.
Dưới thời pháp thuộc đất nước bị chia cắt làm ba kì: Nam Kì, Trung Kì, Bắc Kì.
Ở Nam Kì, thực dân Pháp ban hành bộ luật giản yếu Nam Kì. Ở Bắc Kì, Bộ dân luật
Bắc Kì năm 1931 được thay thế cho Bộ luật Gia Long theo nghị định của Thống sứ
Bắc Kì. Ở Trung Kì, thực dân Pháp ban hành Hồng Việt Trung Kì hộ luật năm 1939.
Tuy nhiên pháp luật dân sự trong thời kì này có những mặt hạn chế nhất định: hạn chế
về hôn nhân và gia đình, kết hơn, ly hơn… mang nặng tư tưởng phong kiến đề cao nho
giáo trọng nam khinh nữ.Trong các bộ luật này tuy có một số quy định đề cập vấn đề
hơn nhân có yếu tố nước ngồi nhưng thực chất quy phạm này nhằm điều chỉnh vấn đề
quốc tịch. Ví dụ: Tại Điều thứ 15 Bộ luật Bắc kì 1931 quy định: “Đàn bà quốc dân An
nam kết hơn với người đại pháp hay người ngoại quốc thì sẽ theo quốc tịch người
chồng, trừ khi quốc luật của người ngoại quốc ấy không nhận cho vào quốc tịch người
của bộ luật này quy định: “Đàn bà Pháp hay ngoại quốc mà kết hôn với một quốc dân
15 Nông Quốc Bình, Nguyễn Hồng Bắc, quan hệ hơn nhân và gia đình có yếu tố nước ngồi ở Việt Nam trong
thời kỳ hội nhập quốc tế, Nxb Tư pháp, 2006, trang 139.
GVHD: Th.S Nguyễn Huỳnh Anh
Trang 20
SVTH: Võ Tấn Tài
Pháp luật Việt Nam về kết hơn có yếu tố nước ngồi – Lý luận và thực tiễn
An nam thì cũng thành ra quốc dân An nam trong khi đương lấy nhau, trừ khi nào
quốc luật người đàn bà ấy không nhận cho theo quốc tịch người chồng, hay là lúc làm
lễ kết hôn, người đàn bà ấy đã khai rõ quan Hộ lại rằng không muốn theo quốc tịch
người chồng thì khơng kể. Lời khai ấy phải biên vào trong chứng thư giá thú do quan
Hộ lại Đại pháp làm”.
Như vậy, có thể thấy, trong thời kì phong kiến do ta thực hiện chính sách “bế
quan tỏa cảng”, đồng thời trong thời kì pháp thuộc thì mối quan hệ của nước ta với các
qc gia khác cịn rất hạn chế, cho nên pháp luật để điều chỉnh quan hệ hơn nhân có
yếu tố nước ngồi vẫn chưa được quan tâm.
1.6.2. Giai đoạn từ cách mạng tháng 8 năm 1945 đến năm 1975
Giai đoạn từ cách mạng tháng 8 năm 1945 đến năm 1958
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành cơng, nước Việt Nam dân chủ cộng hịa
ra đời. Nhà nước mới, địi hỏi phải có hệ thống pháp luật mới. Năm 1946, bản Hiến
pháp đầu tiên của nhà nước độc lập được ban hành, đánh dấu một bước ngoặc mới
trong lịch sử lập pháp của nhà nước Việt Nam. Với tính chất là đạo luật nguồn, Hiến
pháp năm 1946 là cơ sở pháp lý quan trọng để nhà nước ban hành các văn bản pháp
luật, điều chỉnh quan hệ xã hội, trong đó có lĩnh vực hơn nhân và gia đình. Tuy nhiên
do nhà nước non trẻ phải đối mặt với nhiều khó khăn để bảo vệ nền độc lập, nên chưa
thể ban hành ngay một hệ thống pháp luật hồn chỉnh.
Vì vậy, ngày 10/10/1945, chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 90/SL cho
phép áp dụng một cách chọn lọc quy lệ và chế định trong các bộ dân luật cũ. Tiếp đến
ngày 22/5/1950, Sắc lệnh số 97/SL về việc sửa đổi một số quy lệ và chế định trong dân
luật được ban hành. Sắc lệnh đã có những quy định tiến bộ về kết hơn như xóa bỏ việc
cấm kết hơn trong thời kỳ tang chế và cho phép người kết hôn được tự nguyện quyết
định việc kết hơn khơng cần sự bằng lịng của cha mẹ. Với những quy định này, bước
đầu tạo được những hiệu ứng vơ cùng tích cực cho việc xây dựng đời sống hơn nhân
và gia đình mới, tạo nền tảng tiến tới xây dựng một đạo luật hoàn chỉnh điều chỉnh các
quan hệ về hơn nhân và gia đình. Mặc dù các văn bản pháp luật trên có nhiều quy định
tiến bộ về hơn nhân nhưng khơng có quy định nào đề cập vấn đề hơn nhân có yếu tố
nước ngoài.
Giai đoạn từ năm 1958 đến năm 1975
Đây là giai đoạn khá đặc thù, do hoàn cảnh lịch sử, đất nước bị chia cắt thành
hai miền nên cũng có hai hệ thống pháp luật song song tồn tại. Pháp luật ở miền Bắc
của nhà nước Việt Nam và pháp luật ở miền Nam của Ngụy quyền Sài Gòn.
Ở miền Bắc, trong giai đoạn này, bản Hiến pháp mới của Việt Nam dân chủ
cộng hịa đã được Quốc hội thơng qua tại kì họp thứ 11 ngày 31/12/1959. Về vấn đề
GVHD: Th.S Nguyễn Huỳnh Anh
Trang 21
SVTH: Võ Tấn Tài
Pháp luật Việt Nam về kết hơn có yếu tố nước ngoài – Lý luận và thực tiễn
liên quan đến quan hệ hôn nhân đoạn 1 Điều 24 Hiến pháp năm 1959 quy định như
sau: “Phụ nữ nước Việt Nam dân chủ cộng hịa có quyền bình đẳng với nam giới về
các mặt sinh hoạt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và gia đình”, đoạn 4 Điều 24 Hiến
pháp 1959 quy định: “Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình”.
Xuất phát từ tình hình thực tế về quan hệ hơn nhân và gia đình trong tình hình
mới, Luật Hơn nhân và gia đình năm 1959 được Quốc hội khóa I kỳ họp thứ 11 thơng
qua vào ngày 29/12/1959. Đây là đạo luật đầu tiên của nước ta về Hơn nhân và gia
đình. Sự ra đời của Luật Hơn nhân và gia đình năm 1959 có ý nghĩa chính trị to lớn,
được xem như là dấu mốc cho việc tách quan hệ hơn nhân và gia đình ra khỏi ngành
luật dân sự thành ngành luật độc lập. Luật này ghi nhận và bảo vệ quyền tự do kêt hơn,
quyền bình đẳng nam nữ trong đời sống hơn nhân và gia đình. Với ý nghĩa đó, Luật
hơn nhân và gia đình năm 1959 là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc xây dựng một chế
độ hôn nhân và gia đình tự do, tiến bộ, xóa bỏ những tập tục lạc hậu của chế độ hơn
nhân và gia đình phong kiến, góp phần giải phóng phụ nữ. Ở góc độ này, quy định về
kết hơn có tính chất mở ra cách cửa bình đẳng giữa nam và nữ trong gia đình. Tuy
nhiên, Luật hơn nhân và gia đình năm 1959 lại khơng có quy phạm nào quy định về
quan hệ hơn nhân có yếu tố nước ngồi.
Ở miền Nam từ năm 1945 đến 1975, chính quyền Ngụy Sài Gịn ban hành một
hệ thống pháp luật riêng. Pháp luật điều chỉnh các quan hệ hơn nhân và gia đình tập
trung trong ba văn bản pháp luật: Luật gia đình năm 1959, Sắc luật số 15/64 và Bộ dân
luật năm 1972.Về quan hệ hơn nhân có yếu tố nước ngồi, Bộ dân luật năm 1972 quy
định tại Điều 125. Cũng như nội dung của các Điều 24, 25, 70 của Luật gia đình 1959.
Điều 125 chỉ quy định các điều kiện và thủ tục để hôn thú được lập ở nước ngồi có
giá trị tại miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ: “Trong trường hợp hôn thú lập ở ngoại
quốc, trong vòng ba tháng sau khi trở về lãnh thổ Việt Nam, người có quốc tịch Việt
Nam phải xuất trình một bản sao chứng thực hôn thú cũ nhất là ba tháng gửi cho biện
pháp lý tòa án nơi trú ngụ. Biện lý sẽ ra lệnh đăng kí vào sổ giá thú đương niên và ghi
vào lề chứng thư khai sinh của đương sự, ở sổ chánh cũng như sổ kép”.16
Nhìn chung các văn bản pháp luật dưới chế độ ngụy quân, Ngụy quyền miền
Nam là các văn bản có nội dung đi ngược với lợi ích quốc gia và dân tộc. Mặc dù đã
xóa bỏ chế độ đa thê nhưng vẫn cịn thể hiện ngun tắc bất bình đẳng giữa vợ và
chồng, cấm ly hôn giữa vợ và chồng.
1.6.3. Giai đoạn từ năm 1975 đến nay
Giai đoạn từ năm 1975 đến năm 1993
16 Nơng Quốc Bình, Lịch sử pháp triển của pháp luật về hơn nhân có yếu tố nước ngồi tại Việt Nam, Tạp chí
Luật học, Số 2, 2002, trang 8.
GVHD: Th.S Nguyễn Huỳnh Anh
Trang 22
SVTH: Võ Tấn Tài
Pháp luật Việt Nam về kết hơn có yếu tố nước ngoài – Lý luận và thực tiễn
Sau ngày 30/4/1945, miền Nam hồn tồn giải phóng, đất nước thống nhất,
Luật hơn nhân và gia đình năm 1959 được thi hành thống nhất trên phạm vi cả nước
theo nghị quyết số 76/CP ngày 25/3/1977 của Hội Đồng Chính Phủ.Các quy định về
kết hơn trong luật hơn nhân và gia đình năm 1959 và văn bản hướng dẫn thi hành được
áp dụng thống nhất trên phạm vi cả nước.
Năm 1980, Hiến pháp mới được ban hành thay thế Hiến pháp năm 1959. Tình
hình kinh tế xã hội cũng đã có những thay đổi, Luật hơn nhân và gia đình năm 1959
bắt đầu thể hiện những bất cập cần phải được bổ sung để đáp ứng việc điều chỉnh các
quan hệ hôn nhân và gia đình trong tình hình mới.
Vì vậy, luật hơn nhân và gia đình năm 1986 được ban hành thay thế Luật Hơn
nhân và gia đình năm 1959. Điểm chú ý của Luật hơn và gia đình năm 1986 đã có
riêng một chương để điều chỉnh về quan hệ hơn nhân và gia đình của cơng dân Việt
Nam với người nước ngồi. Chương này gồm 3 điều, đó là các Điều 52, 53, 54. Theo
đó thì quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngồi được quy định tại Điều 52 của Luật Hơn
nhân và gia đình 1986 như sau: “Trong việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người
nước ngoài, mỗi bên tuân theo những quy định của pháp luật nước mình về kết hơn.
Nếu việc kết hơn giữa cơng dân Việt Nam với người nước ngồi tiến hành ở Việt Nam
thì người nước ngồi cịn phải tn theo các quy định ở Điều 5, Điều 6, Điều 7 của
Luật hơn nhân và gia đình Việt Nam”. Bên cạnh Điều 54 quy định vể nguyên tắc áp
dụng pháp luật về quan hệ hơn nhân và gia đình tại Điều 54 như sau: “Trường hợp đã
có hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý về hôn nhân và gia đình giữa Việt Nam và
nước ngồi thì tn theo những quy định của Hiệp định đó”.
Có thể nói việc dành chương riêng trong Luật hơn nhân và gia đình năm 1986
để quy định về quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngồi là bước phát triển
mới của luật Hơn nhân và gia đình, đáp ứng nhu cầu của tình hình mới và phản ánh
xung hướng mở rộng phạm vi điều chỉnh của luật hôn nhân và gia đình, bước đầu các
quy định về quan hệ hơn nhân và gia đình có yếu tố nước ngồi, trong đó có quan hệ
kết hơn có yếu tố nước ngồi..
Năm 1992, trước cuộc tình hình đổi mới tồn diện đất nước, Hiến pháp năm
1992 được ban hành thay thế hiến pháp năm 1980.Quan hệ hơn nhân và gia đình được
quy định tại Điều 64 như sau: “Gia đình là tế bào của xã hội; nhà nước bảo hộ hôn
nhân và gia đình; hơn nhân theo ngun tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ
chồng bình đẳng; cha mẹ có trách nhiệm ni dạy con thành cơng dân tốt. Con cháu
có bổn phận kính trọng và chăm sóc ông bà cha mẹ; Nhà nước và xã hội không thừa
nhận việc phân biệt đối xử giữa các con”.
Giai đoạn từ năm 1993 đến năm 2000
GVHD: Th.S Nguyễn Huỳnh Anh
Trang 23
SVTH: Võ Tấn Tài
Pháp luật Việt Nam về kết hơn có yếu tố nước ngoài – Lý luận và thực tiễn
Năm 1993, Pháp lệnh Hơn nhân và gia đình giữa cơng dân Việt Nam với người
nước ngoài được Ủy ban thường vụ Quốc hội thơng qua ngày 02 tháng 02 năm 1993
và có hiệu lực ngày 01 tháng 3 năm 1994. Đây là văn bản chuyên biệt đầu tiên điều
chỉnh một phần quan hệ hơn nhân và gia đình có yếu tố nước ngồi, trong đó lần đầu
tiên quy định áp dụng tập qn quốc tế điều chỉnh quan hệ hơn nhân có yếu tố nước
ngồi. Theo đó ở mục I chương II của pháp lệnh này là những quy định về quan hệ kết
hơn có yếu tố nước ngồi. Khoản 1 Điều 6 của pháp lệnh quy định: “Trong việc kết
hôn giữa cơng dân Việt Nam với người nước ngồi, mỗi bên phải tuân theo pháp luật
của nước mình về điều kiện kết hôn và cấm kết hôn. Nếu việc kết hôn giữa cơng dân
Việt Nam với người nước ngồi tiến hành trước cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của
Việt Nam thì người nước ngồi phải tn theo các quy định tại các Điều 5,6 và 7 của
Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, khơng bị nhiễm HIV và được cơ quan có thẩm
quyền của nước mà người đó là cơng dân xác nhận có đủ điều kiện kết hơn và việc kết
hơn đó được pháp luật nước họ cơng nhận”.
Ngồi ra, cịn có quy định về nghi thức kết hơn giữa cơng dân Việt Nam và
người nước ngồi theo khoản 3 Điều 6 của pháp lệnh thì: “Việc kết hơn giữa cơng dân
Việt Nam với người nước ngồi tiến hành trước cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của
Việt Nam phải tuân theo nghi thức kết hôn quy định tại Điều 8 của Luật hơn nhân và
gia đình”, bên cạnh đó, quy định về kết hơn giữa cơng dân Việt Nam với người nước
ngoài tiến hành ở nước ngoài cũng được quy định cụ thể như sau: “Việc kết hơn giữa
cơng dân việt nam với người nước ngồi được tiến hành ở nước ngoài và tuân theo
pháp luật nước đó về nghi thức kết hơn thì được cơng nhận tại Việt Nam, trừ trường
hợp việc kết hơn đó có ý định rõ ràng là để lẩn tránh quy định của pháp luật Việt Nam
về điều kiện kết hôn và cấm kết hôn”.
Quy định thẩm quyền đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngồi cũng được quy
định cụ thể tại Điều 7 của Pháp lệnh: “Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương nơi thường trú của cơng dân Việt Nam có thẩm quyền đăng ký kết hơn
giữa cơng dân Việt Nam với người nước ngồi; Cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan
lãnh sự của Việt Nam có thẩm quyền đăng ký kết hơn tại nước tiếp nhận giữa cơng
dân Việt Nam với người nước ngồi, nếu việc đăng ký không trái với pháp luật của
nước đó”. Như vậy việc đăng ký kết hơn sẽ tiến hành ở Ủy ban nhân dân cấp tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương của công dân Việt Nam, hoặc tại cơ quan đại diện
ngoại giao, cơ quan lãnh sự của Việt Nam.
Mặc dù Pháp lệnh hơn nhân và gia đình năm 1993 chỉ mới điều chỉnh một trong
ba loại quan hệ kết hơn có yếu tố nước ngồi (quan hệ kết hơn giữa cơng dân Việt
Nam và người nước ngồi) cịn hai loại quan hệ khác (quan hệ hơn kết của công dân
GVHD: Th.S Nguyễn Huỳnh Anh
Trang 24
SVTH: Võ Tấn Tài
Pháp luật Việt Nam về kết hơn có yếu tố nước ngoài – Lý luận và thực tiễn
Việt Nam với nhau diễn ra ở nước ngoài và quan hệ kết hơn của người nước ngồi với
nhau trên lãnh thổ Việt Nam), tuy nhiên Pháp lệnh đã đóng vai trị quan trọng trong
trong đời sống hơn nhân có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam lúc bấy giờ.
Bên cạnh Pháp lệnh hơn nhân và gia đình giữa cơng dân Việt Nam với người
nước ngồi, các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước còn ban hành nhiều văn bản
pháp luật khác nhằm điều chỉnh các quan hệ hơn nhân có yếu tố nước ngoài như Nghị
định số 184-CP ngày 30/11/1994 của Chính phủ quy định về thủ tục kết hơn, nhận con
ngồi giá thú, ni con ni, nhận đỡ đầu giữa cơng dân Việt Nam với người nước
ngồi; Bộ luật dân sự Việt Nam năm 1995 được quốc hội thông qua ngày 28/10/1995,
quy định về quyền kết hôn tại Điều 35, đăng kí kết hơn tại Điều 57 của Bộ luật này,
Luật quốc tịch Việt Nam năm 1998,…
Như vậy cùng với các văn bản pháp luật khác, Pháp lệnh hôn nhân và gia đình
giữa cơng dân Việt Nam với người nước ngoài đã đánh dấu sự phát triển đáng kể của
pháp luật về hơn nhân có yếu tố nước ngồi của Việt Nam trong giai đoạn từ năm 1993
đến 2000. Nội dung của Pháp lệnh hơn nhân và gia đình giữa cơng dân Việt Nam với
người nước ngồi đã được các văn bản pháp luật sau này kế thừa và phát triển.
Giai đoạn từ năm 2000 đến nay
Có thể nói rằng Luật hơn nhân và gia đình năm 1986 đã đóng góp một phần to
lớn trong việc điều chỉnh quan hệ hơn nhân và gia đình Việt Nam suốt hơn 13 năm đổi
mới. Tuy nhiên, trong giai đoạn đổi mới của đất nước một số quy định của Luật hôn
nhân và gia đình 1986 đã bộc lộ nhiều vấn đề cần được nghiên cứu, bổ sung. Để đáp
ứng những yêu cầu trong nước và quốc tế trong giai đoạn mới, Luật hơn nhân và gia
đình năm 2000 được quốc hội thơng qua ngày 09/6/2000 tại kì họp khóa X. Luật này
có hiệu lực thi hành ngày 01/01/2001, Luật này thay thế cho Luật Hơn nhân và gia
đình năm 1986 và Pháp lệnh Hơn nhân và gia đình giữa cơng dân Việt Nam với người
nước ngồi năm 1993. Vấn đề hơn nhân và gia đình có yếu tố nước ngồi được Luật
hơn nhân và gia đình năm 2000 quy định tại chương XI với 7 điều luật từ Điều 100
đến Điều 106.
Điểm chung nhất của Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000 trong điều chỉnh
quan hệ hơn nhân và gia đình có yếu tố nước ngồi là xu hướng áp dụng pháp luật Việt
Nam giải quyết các xung đột pháp luật. Thẩm quyền giải quyết hơn nhân và gia đình
có yếu tố nước ngoài rõ ràng, khả thi hơn so với luật Hơn nhân và gia đình 1986 và
Pháp lệnh Hơn nhân và gia đình giữa cơng dân Việt Nam với người nước ngoài 1993.
Ngày 10 tháng 7 năm 2002 Nghị định 68/2002/NĐ-CP của chính phủ quy định
chi tiết thi hành một số điều của luật Hơn nhân và gia đình năm 2000 về quan hệ hơn
nhân và gia đình có yếu tố nước ngồi được thơng qua bao gồm 84 điều. Ngày 16
GVHD: Th.S Nguyễn Huỳnh Anh
Trang 25
SVTH: Võ Tấn Tài