THẢO LUẬN LUẬT HÌNH SỰ PHẦN CHUNG
CHƯƠNG 7,8
CHƯƠNG 7
3.Trách nhiệm hình sự chấm dứt khi người phạm tội chấp hành xong hình phạt.
Nhận định sai.
CSPL: Đ29, Đ69 BLHS 2015
Trách nhiệm hình sự là một dạng của trách nhiệm pháp lý, là hậu quả pháp lý của việc
phạm tội thể hiện ở trách nhiệm của người phạm tội trước Nhà nước phải chịu những tác
động pháp lý bất lợi được quy định trong luật hình sự do Tịa án áp dụng theo một trình
tự tố tụng nhất định. Tuy nhiên, việc chấp hành xong hình phạt khơng có nghĩa là trách
nhiệm hình sự đối với người phạm tội đã chấm dứt. Trong trường hợp này, người phạm
tội vẫn cịn án tích, nghĩa là trách nhiệm hình sự của người đó vẫn cịn. Trách nhiệm hình
sự chỉ chấm dứt khi khơng cịn những tác động pháp lý về hình sự bất lợi đối với người
phạm tội, cụ thể là khi người phạm tội được miễn TNHS hoặc được xóa án tích.
7. Người phạm tội làm tiền giả theo quy định tại khoản 1 Điều 207 BLHS thì có thể
bị áp dụng hình phạt cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định.
ĐÚNG vì căn cứ vào Điều 41 BLHS năm 2015 thì hình phạt cấm hành nghề hoặc làm
cơng việc nhất định là hình phạt bổ sung áp dụng đối với người bị kết án khi Tòa án xét
thấy sau khi người bị kết án chấp hành xong hình phạt chính mà để họ tiếp tục đảm
nhiệm chức vụ hành nghề hoặc làm cơng việc đó, thì có thể gây ra nguy hại cho xã hội
hoặc họ lại có điều kiện phạm tội mới. Hình phạt này được quy định đối với các tội phạm
có sự lợi dụng chức vụ, nghề nghiệp hay công việc nhất định kể cả các tội phạm do thiếu
trách nhiệm khi thực hiện công vụ hoặc do vi phạm quy tắc nghề nghiệp. Như vậy, người
phạm tội làm tiền giả theo quy định tại khoản 1 Điều 207 BLHS thì có thể bị áp dụng
hình phạt cấm hành nghề hoặc làm cơng việc nhất định vì những người phạm tội làm tiền
giả thường là những người lợi dụng sự hiểu biết trong lĩnh vực in ấn nhiều năm, lợi dụng
có kiến thức về tin học, biết sử dụng các phần mềm kỹ thuật, pha các nguyên liệu để tạo
ra sản phẩm tiền giả giống như thật và tận dụng mối quan hệ với nhiều đầu mối là cá
nhân, tổ chức liên quan đến lĩnh vực in ấn để thực hiện hành vi phạm tội. Nếu sau khi
những người phạm tội làm tiền giả này chấp hành xong hình phạt chính mà ta lại để họ
tiếp tục làm những cơng việc liên quan đến in ấn thì có thể gây ra nguy hại cho xã hội
hoặc họ sẽ dễ dàng tái phạm.
11. Hình phạt quản chế được tuyên kèm với tất cả các loại hình phạt chính.
Nhận định sai.
CSPL: Đ43 BLHS 2015
Quản chế là buộc người bị kết án phạt tù phải cư trú, làm ăn sinh sống và cải tạo ở một
địa phương nhất định dưới sự kiểm soát, giáo dục của chính quyền địa phương và nhân
dân địa phương. Đây là hình phạt bổ sung đưuọc áp dụng đối với người phạm tội xâm
phạm an ninh quốc gia, người tái phạm nguy hiểm.
12. Biện pháp “tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm” (Điều 47 BLHS)
chỉ có thể áp dụng đối với người phạm tội.
Nhận định sai.
Theo quy định tại Khoản 3 Điều 47 BLHS năm 2015 thì Tịa án cịn có thể tịch thu vật,
tiền thuộc tài sản của người khác khi chứng minh được họ có lỗi trong việc để cho người
phạm tội sử dụng vào việc thực hiện tội phạm, ví dụ như sự thiếu trách nhiệm trong quản
lý, sử dụng và bảo vệ tài sản của mình để người phạm tội sử dụng làm công cụ, phương
tiện thực hiện tội phạm. Như vậy, biện pháp “tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội
phạm” (Điều 47 BLHS năm 2015) có thể áp dụng đối với cả người phạm tội và những
người khác liên quan đến hành vi phạm tội của tội phạm.
13. Biện pháp tư pháp có thể được áp dụng thay thế cho hình phạt.
Nhận định đúng.
Việc quy định các biện pháp tư pháp hình sự trong BLHS và việc áp dụng các biện pháp
đó trong thực tiễn có khả năng tác động hỗ trợ hình phạt trong việc giáo dục người phạm
tội hoặc trong nhiều trường hợp cịn có thể thay thế cho hình phạt, rút ngắn được thủ tục
tố tụng, giải quyết nhanh chóng các vụ án. Một số biện pháp tư pháp thay thế cho hình
phạt như biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn và biện pháp đưa vào trường giáo
dưỡng được áp dụng cho người chưa thành niên phạm tội nhằm đạt được mục đích răn
đe, giáo dục, cải tạo người phạm tội. Như vậy, biện pháp tư pháp có thể được áp dụng
thay thế cho hình phạt.
16. Phạm tội nhiều lần là phạm tội có tính chất chun nghiệp.
Nhận định sai.
CSPL Điểm b, g Khoản 1 Điều 52 BLHS 2015.
phạm tội có tính chất chuyên nghiệp thể hiện tính nguy hiểm và mang cấp độ cao hơn so
với tình tiết phạm tội nhiều lần. Phạm tội nhiều lần chỉ để chỉ người phạm tội thực hiện từ
hai lần hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm. Cịn đối với phạm tội có tính
chất chun nghiệp thì các hành vi phạm tội có tính chất liên tục nghĩa là người phạm tội
liên tiếp thực hiện loại tội phạm cùng nhóm trong khoảng thời gian nhất định và ít nhất
phải từ năm lần trở lên. Các hành vi phạm tội đã trở thành hoạt động phạm tội có hệ
thống và tạo nên nguồn thu nhập cơ bản hoặc nguồn sống chủ yếu của người phạm tội.
Mặt khác, nếu ở tình tiết phạm tội nhiều lần các lần người tội phạm thực hiện hành vi
phạm tội chưa bị đưa ra xét xử lần nào thì ở tình tiết phạm tội có tính chất chun nghiệp
người phạm tội có thể bị đưa ra xét xử ở các lần khác nhau. Bởi vì có thể ngay sau khi
được xóa án tích người phạm tội lại tiếp tục thực hiện một loạt tội phạm cùng nhóm.
Điểm khác nhau cuối cùng là phạm tội có tính chất chun nghiệp khơng phân biệt đã bị
truy cứu trách nhiệm hình sự hay chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự cịn ở phạm tội
nhiều lần thì các lần phạm tội phải chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Như vậy, phạm
tội nhiều lần khơng được coi phạm tội có tính chất chuyên nghiệp.
Bài tập 1
A là tiếp viên hàng không - phạm tội buôn lậu được quy định tại Điều 188 BLHS.
Hãy xác định quyết định về hình phạt mà Tòa án áp dụng đối với A đúng hay sai trong
các tình huống sau:
1. A bị xử phạt về tội buôn lậu theo khoản 1 và khoản 5 Điều 188 BLHS với mức
án 3 năm tù và tịch thu một phần tài sản.
Quyết định về hình phạt mà Tịa án áp dụng đối với A trong trường hợp này là sai.
Căn vào Khoản 1 Điều 188 BLHS năm 2015 thì mức cao nhất của khung hình phạt được
quy định tại khoản này là 3 năm, đối chiếu với Điểm a Khoản 1 Điều 9 BLHS năm 2015
thì trường hợp phạm tội của A thuộc loại tội phạm ít nghiêm trọng. Căn cứ vào Điều 45
BLHS năm 2015 thì hình phạt tịch thu tài sản chỉ được áp dụng đối với người bị kết án về
các tội nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng. Như vậy, do
trường hợp phạm tội của A thuộc loại tội phạm ít nghiêm trọng nên Tịa án khơng thể áp
dụng hình phạt tịch thu tài sản đối với A trong trường hợp này.
2. A bị xử phạt về tội buôn lậu theo khoản 2 và khoản 5 Điều 188 BLHS với mức
án là 7 năm tù, phạt tiền 20 triệu đồng và cấm hành nghề tiếp viên hàng không 2
năm.
Căn cứ vào Điều 41 BLHS năm 2015 thì hình phạt cấm hành nghề hoặc làm cơng
việc nhất định là hình phạt bổ sung áp dụng đối với người bị kết án khi Tòa án xét thấy
sau khi người bị kết án chấp hành xong hình phạt chính mà để họ tiếp tục đảm nhiệm
chức vụ hành nghề hoặc làm công việc đó, thì có thể gây ra nguy hại cho xã hội hoặc họ
lại có điều kiện phạm tội mới. Theo đó, hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành
nghề hoặc làm cơng việc nhất định có thể được áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm
trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng và có thể tun kèm
với hầu hết các hình phạt chính chỉ trừ hình phạt chung thân và tử hình. Do đó, trong
trường hợp trên, việc Tịa án tun kèm hình phạt cấm hành nghề tiếp viên hàng khơng
cùng với hình phạt tù là 7 năm đối với A là hoàn toàn thuyết phục. Mặt khác, căn cứ vào
Điều 35 BLHS năm 2015 thì phạt tiền vừa là hình phạt chính, vừa có thể áp dụng là hình
phạt bổ sung. Trong trường hợp trên việc phạt tiền 20 triệu đồng đối với A được áp dụng
dưới dạng là hình phạt bổ sung được quy định tại Khoản 5 Điều 188 BLHS năm 2015
nên hoàn toàn thỏa mãn điều kiện “mỗi tội phạm, người phạm tội chỉ bị áp dụng một hình
phạt chính và có thể bị áp dụng một hoặc một số hình phạt bổ sung” được quy định tại
Khoản 3 Điều 32 BLHS năm 2015. Như vậy, quyết định về hình phạt mà Tịa án áp dụng
đối với A trong trường hợp này là hoàn toàn đúng.
3. A bị xử phạt về tội buôn lậu theo khoản 4 và khoản 5 Điều 188 BLHS với mức
án là chung thân và tịch thu toàn bộ tài sản.
Căn cứ vào Khoản 4 Điều 188 BLHS năm 2015 thì mức cao nhất của khung hình
phạt được quy định tại khoản này là 20 năm, đối chiếu với Điểm d Khoản 1 Điều 9 BLHS
năm 2015 thì trường hợp phạm tội của A thuộc loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Căn
cứ vào Điều 45 BLHS năm 2015 thì hình phạt tịch thu tài sản chỉ được áp dụng đối với
người bị kết án về các tội nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm
trọng. Như vậy việc Tòa án áp dụng hình phạt tịch thu tồn bộ tài sản với A trong trường
hợp này là hoàn hợp lý. Tuy nhiên, việc Tòa án xử phạt A về tội buôn lậu theo khoản 4 và
khoản 5 Điều 188 BLHS năm 2015 với mức án là chung thân là hoàn tồn sai vì theo quy
định tại Khoản 4 Điều 188 thì hình phạt nặng nhất có thể áp dụng đối với tội buôn lậu là
20 năm tù. Như vậy, quyết định về hình phạt mà Tịa án áp dụng đối với A trong trường
hợp này là sai.
Bài tập 5
H là một thanh niên độc thân, đã có hành vi mua bán trái phép chất ma túy trong một
thời gian dài. H bị bắt quả tang cùng với 2 kg heroine được giấu trong cốp xe ơ tơ hiệu
BMW do chính H đứng tên. Trong quá trình điều tra, cơ quan điều tra xác định tài sản
của H gồm có:
- Một chiếc xe ô tô hiệu BMW trị giá 50.000 USD;
- Một căn nhà có trị giá 300 triệu là tài sản thừa kế từ cha mẹ;
- Một nhà hàng trị giá 5 tỷ VND do H đầu tư từ lợi nhuận thu được do buôn bán ma
túy.
Biết rằng hành vi mua bán trái phép chất ma túy của H thuộc trường hợp được quy
định tại khoản 4 Điều 251 BLHS.
1. Dựa vào quy định của BLHS Tòa án phải áp dụng biện pháp nào để xử lý 2
kg heroine?
Theo quy định tại Điều 46, Điểm c Khoản 1 Điều 47 BLHS năm 2015 thì Tịa án phải
áp dụng biện pháp “tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm” để xử lý 2kg
heroine. Vì heroine là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, cấm lưu hành nên sẽ bị áp
dụng biện pháp tịch thu bất kể chúng thuộc sở hữu của ai.
2. Dựa vào quy định của BLHS Tòa án phải áp dụng biện pháp nào liên quan
đến tài sản của H.
Đối chiếc xe ơ tơ hiệu BMW trị giá 50.000 USD, Tịa án phải áp dụng biện pháp “tịch
thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm” vì đây là vật thuộc sở hữu của H và đã
được H sử dụng vào việc giấu 2 kg heroine (căn cứ vào Điểm a Khoản 1 Điều 47 BLHS
năm 2015).
Đối với nhà hàng trị giá 5 tỷ VND, Tòa án phải áp dụng biện pháp “tịch thu vật, tiền
trực tiếp liên quan đến tội phạm” vì đây là vật có được do H đầu tư từ lợi nhuận thu được
do buôn bán ma túy (căn cứ vào Điểm b Khoản 1 Điều 47 BLHS năm 2015).
Đối với căn nhà có trị giá 300 triệu, Tịa khơng phải áp dụng bất kì biện pháp tư pháp
nào vì đây là căn nhà A có được do thừa kế từ cha mẹ, hồn tồn khơng liên quan quá
trình phạm tội của A.
Bài tập 9
A 18 tuổi đã cướp giật tài sản của người khác và bị truy tố theo Điều 171 BLHS. Áp
dụng trường hợp quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp
dụng theo Điều 54 BLHS thì có bao nhiêu phương án quyết định hình phạt nhẹ hơn và
hãy xác định mức hình phạt thấp nhất có thể áp dụng đối với A trong mỗi phương án
nếu:
1. A bị xét xử theo khoản 1 Điều 171 BLHS
Căn cứ vào Khoản 3 Điều 54 BLHS năm 2015 quy định: “Trong trường hợp có đủ
các điều kiện quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều này nhưng điều luật chỉ có một
khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất, thì Tịa án có thể
quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển sang một
hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản
án.”
Như vậy, ở tình huống trên, khung hình phạt được áp dụng để xét xử đối với hành vi
phạm tội của A là khung nhẹ nhất của điều luật nên khi quyết định hình phạt dưới mất
thấp nhất của khung hình phạt, Tịa án có thể lựa chọn một trong hai phương án sau:
+ Thứ nhất, quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt (phạt từ 3
tháng đến dưới 1 năm). Như vậy, mức hình phạt thấp nhất có thể áp dụng đối với A trong
phương án này là 3 tháng tù.
+ Thứ hai, chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn (áp dụng hình phạt cải
tạo khơng giam giữ từ 6 tháng đến 3 năm). Như vậy, mức hình phạt thấp nhất có thể áp
dụng đối với A trong phương án này là 6 tháng tù.
2. A bị xét xử theo khoản 2 Điều 171 BLHS
Căn cứ vào Khoản 1 Điều 54 BLHS năm 2015 quy định: “Tịa án có thể quyết định
một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong
khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết
giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này.”
Như vậy, ở tình huống trên, khung hình phạt được áp dụng để xét xử đối với hành vi
phạm tội của A không phải là khung hình phạt nhẹ nhất của Điều 171 BLHS năm 2015
nên Tịa án có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt liền kề
nhẹ của Điều 171 (tức là Khoản 1 Điều 171 BLHS năm 2015) từ 1 năm tù đến dưới 3
năm. Do đó, mức hình phạt thấp nhất có thể áp dụng đối với A trong phương án này là 1
năm tù.
3. A bị xét xử theo khoản 4 Điều 171 BLHS
Căn cứ vào Khoản 1 Điều 54 BLHS năm 2015 quy định: “Tịa án có thể quyết định
một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong
khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết
giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này.”
Như vậy, ở tình huống trên, khung hình phạt được áp dụng để xét xử đối với hành vi
phạm tội của A khơng phải là khung hình phạt nhẹ nhất của Điều 171 BLHS năm 2015
nên Tòa án có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt liền kề
nhẹ của Điều 171 (tức là Khoản 3 Điều 171 BLHS năm 2015) từ 7 năm tù đến dưới 12
năm tù. Do đó, mức hình phạt thấp nhất có thể áp dụng đối với A trong phương án này là
7 năm tù.
Bài tập 11
A phạm tội trộm cắp tài sản và bị Tòa án áp dụng khoản 1 Điều 173 và Điều 65
BLHS xử phạt một năm tù và cho hưởng án treo với thời gian thử thách là 2 năm. Sau 6
tháng kể từ ngày chấp hành xong thời gian thử thách, A phạm tội vô ý làm chết người
theo Điều 128 BLHS. Hãy cho biết A có tái phạm khơng? Tại sao? Nếu:
1. Hành vi của A thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 128 BLHS.
Căn cứ vào Khoản 1 Điều 53 BLHS năm 2015 quy định: “Tái phạm là trường hợp đã
bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý hoặc thực
hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do
vơ ý.” Đối chiếu với tình huống của A trong trường hợp này, ta có thể thấy:
+ Thứ nhất, thuộc trường hợp đã bị kết án
A đã bị kết án về tội trộm cắp tài sản và bị Tòa án áp dụng khoản 1 Điều 173 và Điều
65 BLHS xử phạt một năm tù và cho hưởng án treo với thời gian thử thách là 2 năm.
+ Thứ hai, chưa được xóa án tích
Theo quy định tại Điểm a Khoản 2 Điều 70 thì A chỉ được xóa án tích từ khi hết thời
gian thử thách án treo và không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn là 1 năm.
Trong tình huống trên, chỉ mới 6 tháng kể từ ngày chấp hành xong thời gian thử thách, A
đã phạm tội vô ý làm chết người theo Điều 128 BLHS nên khơng được đương nhiên xóa
án tích theo quy định tại Điều 70 BLHS năm 2015.
+ Thứ ba, thực hiện hành vi phạm tội do cố ý hoặc thực hiện hành vi phạm tội về tội
phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô ý.
Do sau 6 tháng kể từ ngày chấp hành xong thời gian thử thách, A phạm tội vô ý làm
chết người thuộc trường hợp quy định tại Khoản 1 Điều 128 BLHS năm nên hành vi
phạm tội của A thuộc loại tội phạm nghiêm trọng (căn cứ vào Điểm b Khoản 1 Điều 9
BLHS năm 2015). Do đó, trường hợp của A không thỏa mãn điều kiện trên.
Như vậy, tuy trong tình huống trên A đã bị kết án, chưa được xóa án tích nhưng A
thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm nghiêm trọng do vô ý nên không bị coi là có tái
phạm.
2. Hành vi của A thuộc trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều 128 BLHS.
Căn cứ vào Khoản 1 Điều 53 BLHS năm 2015 quy định: “Tái phạm là trường hợp đã
bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý hoặc thực
hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do
vô ý.” Đối chiếu với tình huống của A trong trường hợp này, ta có thể thấy:
+ Thứ nhất, thuộc trường hợp đã bị kết án
A đã bị kết án về tội trộm cắp tài sản và bị Tòa án áp dụng khoản 1 Điều 173 và Điều
65 BLHS xử phạt một năm tù và cho hưởng án treo với thời gian thử thách là 2 năm.
+ Thứ hai, chưa được xóa án tích
Theo quy định tại Điểm a Khoản 2 Điều 70 thì A chỉ được xóa án tích từ khi hết thời
gian thử thách án treo và không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn là 1 năm.
Trong tình huống trên, chỉ mới 6 tháng kể từ ngày chấp hành xong thời gian thử thách, A
đã phạm tội vô ý làm chết người theo Điều 128 BLHS nên khơng được đương nhiên xóa
án tích theo quy định tại Điều 70 BLHS năm 2015.
+ Thứ ba, thực hiện hành vi phạm tội do cố ý hoặc thực hiện hành vi phạm tội về tội
phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do vô ý.
Do sau 6 tháng kể từ ngày chấp hành xong thời gian thử thách, A phạm tội vô ý làm
chết người thuộc trường hợp quy định tại Khoản 2 Điều 128 BLHS năm nên hành vi
phạm tội của A thuộc loại tội phạm rất nghiêm trọng (căn cứ vào Điểm c Khoản 1 Điều 9
BLHS năm 2015).
Như vậy, trong tình huống trên A đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục
thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng do vô ý nên sẽ bị coi là có tái
phạm.
LẦN 8
20. Trong trường hợp có nhiều bản án, thời gian thực tế mà người bị kết án
phải chấp hành hình phạt tù có thời hạn có thể trên 30 năm.
Nhận định đúng
vì theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 55 và Điều 56 BLHS, khi bị cáo phạm
nhiều tội hoặc tổng hợp hình phạt tù có thời hạn của nhiều bản án thì mức phạt tù được
tuyên trong bản án sau khi đã tổng hợp không được vượt quá 30 năm. Tuy nhiên, nếu một
người đang chấp hành một bản án mà họ lại phạm tội mới thì thời gian thực tế chấp hành
hình phạt của họ có thể trên 30 năm.
22. Có thể quyết định mức hình phạt 12 năm tù cho người phạm tội giết
người chưa đạt thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 123 BLHS.
Nhận định sai
vì căn cứ vào Khoản 3 Điều 57 BLHS năm 2015 quy định: “Đối với trường hợp
phạm tội chưa đạt, nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung
thân hoặc tử hình thì áp dụng hình phạt tù khơng q 20 năm; nếu là tù có thời hạn thì
mức hình phạt khơng q ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định.” Theo đó, đối
với người phạm tội giết người chưa đạt thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 123
BLHS có khung hình phạt cao nhất là 15 năm tù thì hình phạt được áp dụng đối với họ
không quá 11 năm 3 tháng. Như vậy, ta không thể quyết định mức hình phạt 12 năm tù
cho người phạm tội giết người chưa đạt thuộc trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 123
BLHS.
37. Chấp hành bản án là chấp hành hình phạt.
Nhận định sai
vì chấp hành bản án là việc người bị kết án phải chấp hành theo quyết định của
bản án hoặc quyết định của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật cịn chấp hành hình phạt là
việc người bị kết án phải thực hiện các nghĩa vụ thuộc về nội dung của hình phạt được áp
dụng đối với họ theo bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của toà án. Và việc
miễn chấp hành hình phạt được hiểu là khơng buộc người bị kết án phải chấp hành một
phần hoặc tồn bộ hình phạt đã tun bao gồm hình phạt chính và hình phạt bổ sung. Tuy
nhiên, người được miễn chấp hành hình phạt vẫn phải chấp hành đầy đủ các nghĩa vụ dân
sự do Tịa án tun trong bản án. Từ đó, ta có thể thấy, chấp hành bản án chưa chắc là
chấp hành hình phạt vì nếu một người được miễn chấp hành hình phạt theo quy định tại
Điều 62 BLHS năm 2015 và phải thực hiện các nghĩa vụ dân sự về bồi thường thiệt hại
thì người đó khơng phải chấp hành hình phạt mà chỉ chấp hành bản án để thực hiện đầy
đủ các nghĩa vụ dân sự do Tòa án tuyên trong bản án.
39. Án treo là một loại hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn.
Nhận định sai.
Án treo cũng là hình phạt tù có thời hạn nhưng người được hưởng án treo không
phải chấp hành án tại các cơ sở giam giữ của lực lượng thi hành án hình sự. Ngược lại,
người bị phạt tù có thời hạn nhưng khơng được hưởng án treo thì phải chấp hành án tại
các cơ sở giam giữ theo quy định. Qua đó, có thể hiểu người được Tịa án cho hưởng án
treo, tuy cũng là hình phạt tù có thời hạn nhưng họ vẫn được đi lại, sinh hoạt ngoài cộng
đồng và tham gia các hoạt động sản xuất, kinh doanh.
43. Án treo chỉ áp dụng cho người phạm tội ít nghiêm trọng.
Nhận định sai.
CSPL: Khoản 1 Điều 65 BLHS 2015
Điều kiện cho hưởng án treo: Mức hình phạt tù khơng q 03 năm, nhân thân
tương đối tốt (khả năng tự cải tạo giáo dục cao), có nhiều tình tiết giảm nhẹ và xét thấy
khơng cần phải bắt chấp hành hình phạt tù chứ không phải chỉ áp dụng cho người phạm
tội ít nghiêm trọng.
BÀI TẬP 12
A 17 tuổi phạm tội cướp tài sản theo khoản 1 Điều 168 BLHS.
Anh (chị) hãy xác định:
1. Mức hình phạt tối đa có thể áp dụng đối với A là bao nhiêu?
Căn cứ vào Khoản 1 Điều 101 BLHS năm 2015 quy định: “Đối với người từ đủ 16
tuổi đến dưới 18 tuổi khi phạm tội, nếu điều luật được áp dụng quy định hình phạt tù
chung thân hoặc tử hình, thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá 18 năm tù;
nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng không quá ba phần tư
mức phạt tù mà điều luật quy định.” Theo đó, A (17 tuổi) phạm tội cướp tài sản theo quy
định tại khoản 1 Điều 168 BLHS có khung hình phạt cao nhất là 10 năm tù thì mức hình
phạt tối đa có thể áp dụng đối với A là 7 năm 6 tháng
2. Xác định thời hạn xóa án tích đối với A là bao lâu và tính từ thời điểm
nào nếu A bị Toà án tuyên phạt 4 năm tù?
Thời hạn xóa án tích đối với A là 01 năm . Tính từ thời điểm sau 4 năm khi A
đã chấp hành xong hình phạt tù.
CSPL: điểm b khoản 2 Điều 107 BLHS.
3. Tịa án có thể phạt tiền theo khoản 6 Điều 168 BLHS đối với A được
khơng? Tại sao?
Tịa án không thể phạt tiền theo khoản 6 Điều 168 BLHS đối với A. Căn cứ
theo khoản 6 Điều 91 BLHS thì khơng áp dụng hình phạt bổ sung đối với người
dưới 18 tuổi phạm tội.
4. A có bị xem là tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm khơng nếu trong
khi đang chấp hành hình phạt tù về tội cướp tài sản nêu trên A lại phạm tội cố
ý gây thương tích theo khoản 5 Điều 134 BLHS.
Căn cứ vào Điểm a Khoản 2 Điều 53 BLHS năm 2015 quy định:
“2. Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm:
a) Đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng
do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất
nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý;”
Đối chiếu với tình huống của A trong trường hợp này, ta có thể thấy:
+ Thứ nhất, A thuộc trường hợp đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng do
cố ý.
+ Thứ hai, A chưa được xóa án tích
+ Thứ ba, thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm đăc biệt nghiêm trọng do
cố ý.
Vì trong khi đang chấp hành hình phạt tù về tội cướp tài sản nêu trên A lại
phạm tội cố ý gây thương tích theo Khoản 5 Điều 134 BLHS năm 2015 (có mức
cao nhất của khung hình phạt là 20 năm tù hoặc tù chung thân) nên hành vi phạm
tội của A thuộc loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng (căn cứ vào Điểm d Khoản 1
Điều 9 BLHS năm 2015).
Như vậy, trong tình huống trên A đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng
do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội về tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý nên sẽ bị coi là có tái phạm nguy hiểm.
BÀI TẬP 17
A phạm hai tội: giết người (khoản 1 Điều 123 BLHS) và trộm cắp tài sản (khoản 2
Điều 173 BLHS). Nay đưa ra xét xử cả hai tội trong một vụ án hình sự.
1. Hãy xác định mức tối đa của hình phạt chung của hai tội trên có thể áp
dụng với A nếu:
- A phạm tội giết người khi 17 tuổi bị Tòa án tuyên phạt 15 năm tù và phạm
tội trộm cắp tài sản khi 19 tuổi bị Tòa án tuyên phạt 4 năm tù.
Căn cứ vào Điểm a Khoản 3 Điều 103 BLHS năm 2015, ta có thể tổng hợp hình
phạt đối với A như sau: 15 năm (hình phạt Tịa án tun đối với tội được thực hiện khi
người đó chưa đủ 18 tuổi) + 4 năm (hình phạt Tịa án tun đối với tội được thực hiện khi
người đó đã đủ 18 tuổi) = 19 năm. Áp dụng quy định tại Khoản 1 Điều 103 BLHS năm
2015, tổng hợp hình phạt của hai bản án trong ví dụ này là 18 năm tù. Như vậy, mức tối
đa của hình phạt chung của hai tội trên có thể áp dụng với A là 18 năm tù.
- A phạm tội trộm cắp tài sản khi 17 tuổi bị Tòa án tuyên phạt 3 năm tù và
giết người khi 19 tuổi bị Tòa án tuyên phạt 18 năm tù.
Căn cứ vào Điểm b Khoản 3 Điều 103 BLHS năm 2015, ta có thể tổng hợp hình
phạt đối với A như sau: 3 năm (hình phạt Tịa án tuyên đối với tội được thực hiện khi
người đó chưa đủ 18 tuổi) + 18 năm (hình phạt Tịa án tuyên đối với tội được thực hiện
khi người đó đã đủ 18 tuổi) = 21 năm. Áp dụng quy định tại Điểm a Khoản 1 Điều 55
BLHS năm 2015, tổng hợp hình phạt của hai bản án trong ví dụ này là 21 năm tù. Như
vậy, mức tối đa của hình phạt chung của hai tội trên có thể áp dụng với A là 21 năm tù.
2. Trường hợp của A có phải là trường hợp có nhiều bản án khơng? Tại sao?
Có nhiều bản án là trường hợp một người đang chấp hành một bản án lại bị đưa ra
xét xử về một tội phạm khác hoặc cùng lúc có nhiều bản án khác nhau đang có hiệu lực.
Như vậy, do A phạm hai tội: giết người (khoản 1 Điều 123 BLHS), trộm cắp tài sản
(khoản 2 Điều 173 BLHS) và bị đưa ra xét xử cả hai tội trong một vụ án hình sự, chứ
khơng phải đang chấp hành một bản án lại bị đưa ra xét xử về một tội phạm khác hoặc
cùng lúc có nhiều bản án khác nhau đang có hiệu lực nên trường hợp của A khơng phải
trường hợp có nhiều bản án.
BÀI TẬP 18
Theo quy định của pháp luật, hành khách khi qua cửa khẩu biên giới không phải
khai báo hải quan nếu chỉ mang số ngoại tệ tiền mặt trong giới hạn 5.000 USD. X (25
tuổi) đã mang 20.000 USD qua cửa khẩu mà không khai báo theo quy định của thủ tục
hải quan và bị bắt quả tang. Do vậy, X bị truy tố và xét xử về “tội vận chuyển trái phép
tiền tệ qua biên giới” theo khoản 1 Điều 189 BLHS.
Anh (chị) hãy xác định:
1. Nếu áp dụng Điều 54 BLHS thì có bao nhiêu phương án lựa chọn hình phạt
nhẹ hơn và mức hình phạt tối thiểu có thể áp dụng trong mỗi phương án?
Căn cứ vào Khoản 3 Điều 54 BLHS năm 2015 quy định: “Trong trường hợp có đủ
các điều kiện quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều này nhưng điều luật chỉ có một
khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất, thì Tịa án có thể
quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển sang một
hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản
án.”
Như vậy, ở tình huống trên, khung hình phạt được áp dụng để xét xử đối với hành
vi phạm tội của X là khung nhẹ nhất của điều luật nên khi quyết định hình phạt dưới mức
thấp nhất của khung hình phạt, Tịa án có thể lựa chọn một trong hai phương án sau:
+ Thứ nhất, quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt (phạt
tiền từ 1 triệu đến dưới 20 triệu). Như vậy, mức hình phạt thấp nhất có thể áp dụng đối
với A trong phương án này là phạt tiền 1 triệu.
+ Thứ hai, chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn và mức hình phạt
thấp nhất có thể áp dụng đối với A trong phương án này là cảnh cáo.
2. Những hình phạt bổ sung nào có thể áp dụng đối với X?
Căn cứ vào Khoản 4 Điều 189 BLHS năm 2015 quy định: “Người phạm tội cịn có
thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm
hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.” Như vậy, hình phạt bổ
sung có thể áp dụng đối với X là hình phạt tiền, hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm
hành nghề hoặc công việc nhất định. Tuy nhiên nếu áp dụng hình phạt tiền là hính phạt
chính thì hình phạt bổ sung có thể áp dụng đối với X chỉ có thể là hình phạt cấm đảm
nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc công việc nhất định.
3. Số tiền được coi là mang trái phép qua biên giới là bao nhiêu? Chỉ rõ căn
cứ pháp lý và hướng xử lý đối với số tiền mà X mang trái phép qua biên giới.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 189 BLHS năm 2015 thì số tiền được coi là mang
trái phép qua biên giới là từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng. Trong tình
huống trên, số tiền được coi là mang trái phép qua biên giới là 15.000 USD (342.448.600
đồng).
Theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 47 BLHS năm 2015 thì số tiền mà X
mang trái phép qua biên giới sẽ bị tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.
BÀI TẬP 19
A bị kết án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo khoản 3 Điều 174 BLHS và bị xử
phạt 15 năm tù. Đang thụ hình trong trại giam được 3 năm thì A lại phạm tội cố ý gây
thương tích cho bạn tù. Sự việc xảy ra là do có sự khiêu khích của người bị hại trong vụ
án này. Về tội phạm mới, A bị xét xử theo khoản 5 Điều 134 BLHS và bị xử phạt 12 năm
tù. Chi phí điều trị cho người bị hại là 50 triệu đồng. Gia đình của A đã gởi cho gia đình
người bị hại 30 triệu đồng dùng để điều trị cho người bị hại.
Anh (chị) hãy xác định:
1. Trong lần phạm tội mới A có bị coi là tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm
không? Nếu là tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm thì tình tiết đó có ý nghĩa là tình
tiết tăng nặng TNHS theo Điều 52 BLHS hay là tình tiết định khung tăng nặng của
tội phạm mới.
Căn cứ vào Điểm a Khoản 2 Điều 53 BLHS năm 2015 quy định:
“2. Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm:
a) Đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do
cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm
trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý;”
Đối chiếu với tình huống của A trong trường hợp này, ta có thể thấy:
+ Thứ nhất, A thuộc trường hợp đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý
+ Thứ hai, A chưa được xóa án tích
+ Thứ ba, thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm đăc biệt nghiêm trọng do cố ý.
Vì trong khi đang chấp hành hình phạt tù về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nêu trên
A lại phạm tội cố ý gây thương tích theo Khoản 5 Điều 134 BLHS năm 2015 (có mức cao
nhất của khung hình phạt là 20 năm tù hoặc tù chung thân) nên hành vi phạm tội của A
thuộc loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng (căn cứ vào Điểm d Khoản 1 Điều 9 BLHS
năm 2015).
Như vậy, trong tình huống trên A đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng do cố
ý, chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng do cố ý nên sẽ bị coi là có tái phạm nguy hiểm.
2. Trong việc thực hiện tội phạm mới có tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng
TNHS nào khơng? Chỉ rõ căn cứ pháp lý.
Tình tiết tăng nặng
+ Tái phạm nguy hiểm (Điểm h Khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015)
Tình tiết giảm nhẹ
+ Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả
(Điểm b Khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015)
+ Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật
của nạn nhân gây ra (Điểm e Khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015)
3. Hãy tổng hợp hình phạt của hai bản án trên? Chỉ rõ căn cứ pháp lý.
Khi đang chấp hành bản án 15 năm tù về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản được 3
năm thì A lại phạm tội mới là tội cố ý gây thương tích và bị Tịa án kết án 12 năm tù về
tội này. Theo đó, căn cứ vào Khoản 2 Điều 56 BLHS năm 2015 ta có thể tổng hợp hình
phạt đối với A như sau: 12 năm (hình phạt bản án mới về tội cố ý gây thương tích) + 12
năm (hình phạt bản án trước là 15 năm - thời gian đã chấp hành hình phạt là 3 năm) = 24
năm. Như vậy, tổng hợp hình phạt của hai bản án trong ví dụ này là 24 năm tù.
4. Trong thời gian chấp hành hình phạt chung của 2 bản án, A phải chấp
hành hình phạt bao lâu mới được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt lần đầu?
Chỉ rõ căn cứ pháp lý.
Căn cứ vào Khoản 1 Điều 63 BLHS năm 2015 quy định: “Thời gian đã chấp hành
hình phạt để được xét giảm lần đầu là một phần ba thời hạn đối với hình phạt cải tạo
khơng giam giữ, hình phạt tù có thời hạn, 12 năm đối với tù chung thân.” Như vậy, trong
thời gian chấp hành hình phạt chung của 2 bản án, A phải chấp hành hình phạt 8 năm tù
(tức là 1/3 của 24 năm tù) thì mới được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt lần đầu.
5. Cần áp dụng biện pháp tư pháp nào đối với A? Chỉ rõ căn cứ pháp lý.
Căn cứ vào Điều 46 BLHS năm 2015 thì biện pháp tư pháp được áp dụng đối với
A là trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt, buộc công khai xin lỗi. Căn cứ vào
Khoản 1 Điều 48 BLHS năm 2015 quy định: “Người phạm tội phải trả lại tài sản đã
chiếm đoạt cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp, phải sửa chữa hoặc bồi thường
thiệt hại vật chất đã được xác định do hành vi phạm tội gây ra.” và Khoản 2 Điều 361
BLDS năm 2015 quy định: “Thiệt hại về vật chất là tổn thất vật chất thực tế xác định
được, bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt
hại, thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút.”
Theo đó, thiệt hại vật chất mà A đã gây ra là chi phí điều trị 50 triệu đồng của
người bị hại như vậy A phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại vật chất cho người bị hại.
6. Thời hạn xóa án tích về các tội mà A đã thực hiện là bao lâu và tính từ thời
điểm nào? Chỉ rõ căn cứ pháp lý.
+ Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản: Căn cứ Khoản 2 Điều 73 BLHS năm 2015 quy
định: “Người bị kết án chưa được xóa án tích mà thực hiện hành vi phạm tội mới và bị
Tịa án kết án bằng bản án có hiệu lực pháp luật thì thời hạn để xóa án tích cũ được tính
lại kể từ ngày chấp hành xong hình phạt chính hoặc thời gian thử thách án treo của bản
án mới hoặc từ ngày bản án mới hết thời hiệu thi hành.” Như vậy, do A chưa được xóa án
tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội mới là tội cố ý gây thương tích và bị Tịa án kết án
12 năm tù nên thời hạn xóa án tích cũ về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản sẽ tính từ ngày
chấp hành xong bản án mới về tội cố ý gây thương tích. Căn cứ vào Điểm c Khoản 2
Điều 70 BLHS năm 2015, thì thời hạn xóa án tích đối với trường hợp bị phạt tù từ trên 5
năm đến 15 năm là 3 năm. Như vậy, thời hạn xóa án tích về tội này đối với A là 3 năm
tính từ ngày A chấp hành xong hình phạt chính là 12 năm tù của bản án mới về tội cố ý
gây thương tích.
+ Tội cố ý gây thương tích: Căn cứ vào Điểm c Khoản 2 Điều 70 BLHS năm
2015, thì thời hạn xóa án tích đối với trường hợp bị phạt tù từ trên 5 năm đến 15 năm là 3
năm. Như vậy, thời hạn xóa án tích về tội này đối với A là 3 năm tính từ ngày A chấp
hành xong hình phạt chính là 12 năm tù của bản án mới về tội cố ý gây thương tích.