Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

THẢO LUẬN dân sự 2 lần 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.93 KB, 20 trang )

:
PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG
VÀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG
NỘI DUNG:
TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ, VI PHẠM HỢP ĐỒNG


 Vấn đề 1: Bồi thường thiệt hại do không thực hiện đúng hợp đồng
gây ra
Tình huống: Ơng Lại (bác sỹ chuyên khoa phẫu thuật thẩm mỹ) và bà Nguyễn
thỏa thuận phẫu thuật ngực với 4 yêu cầu: Lấy túi ngực ra, Thâu nhỏ ngực lại, Bỏ túi nhỏ
vào, Không được đụng đến núm vú. Ba ngày sau phẫu thuật, bà Nguyễn phát hiện thấy
núm vú bên phải sưng lên, đau nhức và đen như than. Qua 10 ngày, vết mổ hở hết phần
vừa cắt chỉ, nhìn thấy cả túi nước đặt bên trong và ông Lại tiến hành mổ may lại. Được
vài ngày thì vết mổ bên tay phải chữ T lại hở một lỗ bằng ngón tay, nước dịch tn ướt
đẫm cả người. Sau đó ơng Lại mổ lấy túi nước ra và may lại lỗ hổng và thực tế bà
Nguyễn mất núm vú phải.
1. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng theo
pháp luật Việt Nam? Nêu rõ những thay đổi trong BLDS 2015 so với BLDS 2005 về
Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng.
- Trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng tồn tại khi tồn tại hợp đồng
giữa các bên với nhau và một bên không thực hiện đúng hợp đồng gây ra thiệt hại.
- Các căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại hợp đồng trong pháp
luật Việt Nam gồm có:
+ Thứ nhất, có hành vi vi phạm nghĩa vụ: hành vi này có thể là hành vi vi phạm
các cam kết, các thỏa thuận giữa các bên trong quan hệ nghĩa vụ cũng có thể là các hành
vi vi phạm pháp luật.
+ Thứ hai, phải có thiệt hại xảy ra, nếu khơng có thiệt hại thì sẽ khơng phát sinh
trách nhiệm bồi thường. Thiệt hại được bồi thường do vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng
bao gồm những thiệt hại về vật chất và bù đắp tổn thất về tinh thần.
+ Thứ ba, phải có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây ra thiệt hại và thiệt hại


xảy ra. Hành vi vi phạm nghĩa vụ là nguyên nhân trực tiếp, còn việc phát sinh ra thiệt hại
là kết quả khách quan, tất yếu của hành vi vi phạm nghĩa vụ.


- Những thay đổi trong BLDS 2015 so với BLDS 2005 về căn cứ phát sinh trách
nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng
+ Ta thấy tại Điều 307 BLDS 2005 đề cập đến vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do vi phạm nghĩa vụ dân sự. Trong nội dung của điều luật chỉ đề cập đến vấn đề thiệt
hại với hai loại trách nhiệm đó là trách nhiệm bồi thường về vật chất và trách nhiệm bồi
thường bù đắp tổn thất về tinh thần, không cho biết rõ để có trách nhiệm bồi thường thiệt
hại thì phải hội tụ đủ những điều nào. Tuy nhiên, tại Điều 302 và 307 BLDS 2005 có thể
suy luận được rằng muốn phát sinh trách nhiệm bồi thường thì thiệt hại phải xảy ra. Đối
với BLDS 2015 đã bổ sung đầy đủ hơn ở Điều 360 với nội dung như sau: “Trường hợp
có thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ gây ra thì bên có nghĩa vụ phải bồi thường tồn bộ thiệt
hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác.” Tại quy định này thì
yếu tố thiệt hại đã được xác định rõ ràng qua cụm từ “có thiệt hại”. Xét thấy Điều 360
BLDS 2015 được nêu rõ hơn BLDS 2015 ở cụm từ “có thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ gây
ra”. Do vậy, “[...] Hướng sửa đổi đối với vấn đề vừa nêu trong BLDS 2015 là thuyết phục
và sẽ là cơ sở pháp lý rõ ràng để Tòa án áp dụng giải quyết tranh chấp trong thực tiễn xét
xử về nguyên tắc bồi thường thiệt hại.”1.
+ Các loại thiệt hại được bồi thường do vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng cũng
được xác định cụ thể, đầy đủ và rõ ràng, hợp lý hơn so với BLDS 2005, cụ thể tại Điều
419 BLDS 2015.
+ Việc bồi thường thiệt hại trong trường hợp bên vi phạm có lỗi, đây được xem là
quy định có nhiều điểm mới của BLDS 2015 thể hiện sự tiến bộ về tư duy lập pháp của
các nhà làm luật. Những quy định trong BLDS 2005 chỉ thể hiện được nội dung: bên có
nghĩa vụ khơng phải chịu trách nhiệm dân sự nếu chứng minh được nghĩa vụ không thực
hiện được là hồn tồn do lỗi của bên có quyền, BLDS 2015 đã bổ sung Điều 363 quy
định trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại xảy ra do một phần lỗi
của bên quy phạm như sau: “Trường hợp vi phạm nghĩa vụ và có thiệt hại do một phần

lỗi của bên bị vi phạm thì bên vi phạm chỉ phải bồi thường thiệt hại tương ứng với mức
độ lỗi của mình”. Quy định này cũng là hệ quả của việc không thực hiện nghĩa vụ ngăn
1 Đỗ Văn Đại (chủ biên), Bình luận khoa học những điểm mới của BLDS 2015, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt

Nam 2016 (xuất bản lần thứ hai), phần số 273.


chặn, hạn chế thiệt hại theo quy định tại Điều 362 BLDS 2015 của bên có quyền, đồng
thời quy định này phù hợp với thực tiễn cũng như nguyên tắc tự chịu trách nhiệm theo
quy định tại khoản 5 Điều 3 BLDS 2015.
2. Trong tình huống trên, có việc xâm phạm tới yếu tố nhân thân của bà
Nguyễn không? Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bà Nguyễn
đã hội đủ chưa? Vì sao?
- Căn cứ theo khoản 3 Điều 33 BLDS 2015 quy định như sau: “Việc gây mê, mổ,
cắt bỏ, cấy ghép mô, bộ phận cơ thể người; thực hiện kỹ thuật, phương pháp khám, chữa
bệnh mới trên cơ thể người; thử nghiệm y học, dược học, khoa học hay bất cứ hình thức
thử nghiệm nào khác trên cơ thể người phải được sự đồng ý của người đó và phải được
tổ chức có thẩm quyền thực hiện.”. Theo như tình huống trên, khi ơng Lại phẫu thuật cho
bà Nguyễn đã có sự đồng ý của bà và làm theo ý muốn của bà. Chính vì thế khơng có
việc xâm phạm tới yếu tố nhân thân của bà Nguyễn.
- Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bà Nguyễn đã hội đủ.
Trong tình huống trên ta thấy ơng Lại đã có hành vi vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng, tại
hợp đồng thỏa thuận giữa ơng Lại và bà Nguyễn có tồn tại những yêu cầu và trong đó có
một yêu cầu rằng “không được động đến núm vú”. Tuy nhiên, sau khi tiến hành phẫu
thuật thì núm của bà Nguyễn phải chịu ảnh hưởng nhiều nhất. 3 ngày sau phẩu thuật thì
núm bên phải của bà bị đau nhức, sưng lên và đen như than. Qua 10 ngày, vết mổ hở hết
phần vừa cắt chỉ và ông Lại phải tiến hành mổ may lại. Được vài ngày thì vết mổ lại hở
một lỗ bằng ngón tay và sau đó ơng Lại mổ lấy túi nước ra và may lại lỗ hổng và thực tế
bà Nguyễn mất núm vú phải. Theo Điều 360 BLDS 2015: “Trường hợp có thiệt hại do vi
phạm nghĩa vụ gây ra thì bên có nghĩa vụ phải bồi thường tồn bộ thiệt hại, trừ trường

hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác”. Như vậy, đã có đủ căn cứ để nói
rằng ơng Lai phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bà Nguyễn.
3. Theo quy định hiện hành, những thiệt hại vật chất nào do vi phạm hợp
đồng gây ra được bồi thường? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Những thiệt hại vật chất do vi phạm hợp đồng gây ra được bồi thường bao gồm:
tổn thất về tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại hay thu
nhập thực tế bị mất hoặc giảm sút.


- Cơ sở pháp lý là: Theo khoản 2 Điều 361 BLDS 2015 quy định: “Thiệt hại về
vật chất là tổn thất vật chất thực tế xác định được, bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí
hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm
sút.”. Tài sản có thể là tài sản hiện hữu hoặc tài sản hình thành trong tương lai.

4. BLDS có cho phép yêu cầu bồi thường tổn thất về tinh thần phát sinh do
vi phạm hợp đồng không? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.
- BLDS có cho phép yêu cầu bồi thường tổn thất về tinh thần phát sinh do vi
phạm hợp đồng.
- Các cơ sở pháp lý là:
+ Khoản 3 Điều 361 BLDS 2015 quy định: “Thiệt hại về tinh thần là tổn thất về
tinh thần do bị xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín và các
lợi ích nhân thân khác của một chủ thể”.
+ Khoản 1 Điều 584 BLDS 2015 quy định: “Người nào có hành vi xâm phạm tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của
người khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có
liên quan quy định khác”.
+ Theo khoản 3 Điều 419 quy định: “Theo yêu cầu của người có quyền, Tịa án có
thể buộc người có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại về tinh thần cho người có quyền. Mức
bồi thường do Tòa án quyết định căn cứ vào nội dung vụ việc”.
5. Theo quy định hiện hành, bà Nguyễn có được bồi thường tổn thất về tinh

thần khơng? Vì sao? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.
- Theo quy định hiện hành, bà Nguyễn có được bồi thường tổn thất về tinh thần.
- Theo khoản 1 và khoản 3 Điều 361 và khoản 3 Điều 419 BLDS 2015, bà
Nguyễn sau khi được ông Lại làm phẫu thuật thẩm mỹ đã xảy ra nhiều vấn đề như sau:
ông Lại đã vi phạm yêu cầu của bà Nguyễn được ghi trong hợp đồng phẫu thuật thẩm
mỹ, làm mất núm vú phải của bà, bị hở vết mổ bằng ngón tay, thấy cả túi nước bên trong,
phải tiến hành mổ may lại, ảnh hưởng đến sức khỏe, thân thể của bà Nguyễn.


Vì những lẽ trên bà Nguyễn sẽ được bồi thường tổn thất về tinh thần nếu như có
yêu cầu.

Vấn đề 2: Phạt vi phạm hợp đồng
*Tóm tắt bản án số 121/2011/KDTM-PT ngày 26/12/2011 của Tòa án nhân
dân TP.HCM
- Nguyên đơn: Công ty TNHH Sản xuất Thương mại Dịch vụ Tân Việt
- Bị đơn: Công ty TNHH Tường Long
- Nội dung vụ án: công ty Tân Việt và công ty Tường Long có ký kết Hợp đồng
kinh tế số 01-10/TL-TV ngày 01/10/2010 và phụ lục hợp đồng ngày 7/10/2010 với nội
dung cụ thể về đơn giá, số lượng, thời hạn giao hàng và phương thức thanh toán. Tuy
nhiên, sau khi thanh tốn đợt 1, cơng ty Tường Long có cơng văn yêu cầu thay đổi đơn
giá nhưng công ty Tân Việt khơng đồng ý. Ngày 3/12/2010, cơng ty Tường Long có
thơng báo về việc hủy bỏ hợp đồng và phụ lục hợp đồng. Vì cho rằng cơng ty Tường
Long đã tự ý hủy bỏ hợp đồng và phụ lục hợp đồng nên công ty Tân Việt đã khởi kiện
yêu cầu công ty Tường Long phải thanh toán 509.769.640 đồng bao gồm tiền phạt cọc và
tiền phạt hợp đồng.
- Hướng giải quyết của Tòa án: Tại bản án sơ thẩm, tòa chấp nhận một phần
yêu cầu của nguyên đơn về việc buộc bị đơn thanh toán số tiền phạt do hủy bỏ hợp đồng
và bác yêu cầu bị đơn thanh toán số tiền phạt cọc. Tại bản án phúc thẩm, Tịa khơng chấp
nhận yêu cầu kháng cáo của công ty Tân Việt và giữ nguyên quyết định bản án sơ thẩm.

*Tóm tắt Quyết định số 10/2020/KDTM-GĐT ngày 14/08/2020 của Hội đồng
thẩm phán Tịa án nhân dân tối cao
- Ngun đơn: Cơng ty TNHH Yến Sào Sài Gịn
- Bị đơn: Cơng ty Cổ phần Yến Việt
- Nội dung vụ án: Tháng 10/2010, công ty Yến Sào và công ty Yến Việt ký Hợp
đồng nguyên tắc số 02/HĐNT về việc “Phân phối độc quyền ra phía Bắc”, Theo đó, cơng
ty Yến Việt đồng ý cho công ty Yến Sào là nhà phân phối độc quyền trong thời hạn 10
năm đối với sản phẩm từ yến mang nhãn hiệu Yến Việt tại khu vực phía Băc từ Nghệ An
trở ra. Tuy nhiên sau đó cơng ty Yến Việt đã thành lập chi nhánh tại Hà Nội và thiết lập
các cửa hàng để phân phối sản phẩm trên thị trường phía Bắc mà khơng trao đổi với công


ty Yến Sào, vi phạm hợp đồng số 02 và gây thiệt hại nghiêm trọng đến hoạt động sản
xuất kinh doanh của cơng ty Yến Sào. Vì vậy cơng ty Yến Sào đề nghị Tịa án buộc cơng
ty Yến Việt bồi thường 10.000.000.000 đồng (do vi phạm Hợp đồng số 02/HĐNT), yêu
cầu công ty Yến Việt chấm dứt hoạt động phân phối các sản phẩm từ yến mang nhãn hiệu
Yến Việt tại thị trường phía Bắc.
- Hướng giải quyết của Tòa án: hủy Quyết định giám đốc thẩm số
12/2019/KDTM-GĐT, hủy bản án kinh doanh thương mại phúc thẩm số 01/2017/DSPT
và bản án sơ thẩm số 06/KDTM-ST. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Ninh
Thuận xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm.
1. Điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về phạt vi phạm hợp đồng
- Khoản 2 Điều 422 BLDS 2005 quy định: “Mức phạt vi phạm do các bên thỏa
thuận”, trong khi đó Điều 301 Luật thương mại quy định: “Mức phạt đối với vi phạm
nghĩa vụ hợp đồng hoặc tổng mức phạt với nhiều vi phạm do các bên thỏa thuận trong
hợp đồng, nhưng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm, trừ trường
hợp quy định tại điều 266 của Luật này”. Chính vì thế, khoản 2 Điều 418 BLDS 2015 bổ
sung thêm cụm từ “trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác”. Theo quy định của
BLDS 2005, mức phạt vi phạm do các bên tự thỏa thuận xuất phát từ nguyên tắc tự do
thỏa thuận theo quy định luật dân sự. Tuy nhiên mức phạt được pháp luật thương mại

điều chỉnh thì bị hạn chế ở mức 8%. Do đó, cần phải phân biệt được các quan hệ do pháp
luật dân sự hay pháp luật thương mại điều chỉnh. Theo pháp luật thương mại dù thiệt hại
thực tế có lớn hơn mức phạt thì bên vi phạm phải chịu tối đa mức phạt trong thỏa thuận
nhưng phải phù hợp theo pháp luật. Như vậy sự bổ sung của BLDS 2015 đã giúp cho các
bên trong chừng mực nào đó có thể tự do định đoạt mức phạt vi phạm hợp đồng.
- Mặt khác, mối quan hệ về chế tài phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại cũng
khơng có sự thống nhất giữa luật dân sự và luật thương mại. Khoản 2 Điều 422 BLDS
2005 quy định: “Trong trường hợp các bên khơng có thỏa thuận về bồi thường thiệt hại
thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải nộp tiền phạt”. Trong khi khoản 1 Điều 307 Luật
thương mại quy định: “Trường hợp các bên khơng có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị
vi phạm chỉ có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp luật này có quy định
khác.”. BLDS 2015 đã bổ sung để thống nhất với Luật thương mại bằng cách thay một
phần nội dung của khoản 3 Điều 418 “Trường hợp các bên có thoả thuận về phạt vi phạm
nhưng không thỏa thuận về việc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt


hại thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm". Trong hợp đồng giữa phạt vi
phạm và bồi thường thiệt hại có mối quan hệ cụ thể. Pháp luật dân sự tơn trọng sự thể
hiện ý chí của các bên, hai chế tài này sẽ được áp dụng nếu trong hợp đồng có thỏa thuận.
Quy định mới tránh trường hợp trên hợp đồng không thỏa thuận nhưng lại yêu cầu bồi
thường thiệt hại.
* Đối với vụ việc thứ nhất
2. Điểm giống nhau giữa đặt cọc và phạt vi phạm hợp đồng
- Về đối tượng: là một khoản tiền mà buộc phải nộp cho một bên trong hợp đồng.
- Về hình thức: đều được lập thành văn bản.
- Về hậu quả pháp lý: bên vi phạm (bên đặt cọc) bị mất một khoản tiền và không
căn cứ vào thiệt hại thực tế.
3. Khoản tiền trả trước 30% được Toà án xác định là tiền đặt cọc hay là nội
dung của phạt vi phạm hợp đồng
- Trong bản án số 121/2011/KDTM-PT ngày 26/12/2011 Toà án xác định khoản

tiền trả trước 30% là tiền đặt cọc.
- Đoạn trong bản án cho thấy: “Xét thấy, theo khoản 3 Điều 4 Hợp đồng kinh tế
01/10/TL-TV ngày 01/10/2010 các bên đã thỏa thuận: Ngay sau khi kí hợp đồng, bên
mua (cơng ty Tân Việt) phải thanh tốn trước cho bên bán (cơng ty Tường Long) 30%
giá trị đơn hàng gọi là tiền đặt cọc, 40% giá trị đơn hàng thanh toán ngay sau khi bên
cơng ty Tường Long giao hàng hồn tất, 30% cịn lại sẽ thanh tốn trong vịng 30 ngày
kể từ ngày thanh toán cuối cùng. Do vậy, số tiền thanh toán đợt 1 là 30% giá trị đơn
hàng (406.920.000 đồng) được xác định là tiền đặt cọc.”
4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết của Tòa án liên quan đến khoản
tiền trả trước 30%?
- Cách giải quyết của Tòa án là chưa hợp lý và thiếu thống nhất.
- Về khoản tiền trả trước 30%, Tòa án đã xác định đây là tiền đặt cọc dựa trên
khoản 7 Điều 292 Luật thương mại và Điều 358 BLDS. Khoản tiền này dùng để đảm bảo
cho việc thực hiện hợp đồng. Tuy nhiên, sau đó Tịa án lại nhận định rằng phía bị đơn đã
không từ chối thực hiện hợp đồng mà hai bên đã đi vào thực hiện hợp đồng cho nên
khoản tiền 30% được xác định là khoản tiền dùng để thanh toán đợt giao hàng lần thứ
nhất. Theo hai bên thỏa thuận thì sau khi kí hợp đồng, cơng ty Tân Việt (bên mua) phải
thanh tốn trước cho cơng ty Tường Long (bên bán) 30% giá trị đơn hàng gọi là tiền đặt
cọc, do đó theo quy định tại khoản 2 Điều 358 BLDS 2005 số tiền 30% thuộc về bên bán


khi bên mua từ chối thực hiện hợp đồng nhưng trên thực tế thì hai bên đã đi vào thực hiện
hợp đồng nên khoản tiền trên phải được trả lại cho bên mua chứ khơng được dùng vào
việc thanh tốn cho giá trị đơn hàng thứ nhất.
- Do đó, cách giải quyết nhiều mâu thuẫn như trên của Tòa án đã khiến quyền và
lợi ích hợp pháp của nguyên đơn không được đảm bảo.
*Đối với vụ việc thứ hai
5. Cho biết điểm giống và khác nhau giữa thỏa thuận phạt vi phạm hợp
đồng và thỏa thuận về mức bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng.
*Điểm giống:

- Là biện pháp chế tài mà luật dân sự quy định để áp dụng cho các trường hợp vi
phạm hợp đồng.
- Cơ sở để áp dụng hai biện pháp này là phải có hành vi vi phạm hợp đồng trên
thực tế và phải có lỗi của các vi phạm.
- Áp dụng với các hợp đồng có hiệu lực.
- Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên bị vi phạm.
*Điểm khác:
Thỏa thuận phạt vi phạm Thoả thuận về mức bồi thường thiệt hại
hợp đồng
do vi phạm hợp đồng

Cơ sở pháp


Điều 418 Bộ luật Dân sự Điều 419 Bộ luật Dân sự 2015
2015, Điều 300, 301 Luật
Thương mại 2005


Phạt vi phạm là sự thoả
thuận giữa các bên trong
hợp đồng, theo đó bên vi
phạm nghĩa vụ phải nộp
một khoản tiền cho bên bị
vi phạm nghĩa vụ.

Thiệt hại được bồi thường do vi phạm
nghĩa vụ theo hợp đồng được xác định
theo quy định tại khoản 2 Điều này, Điều
13 và Điều 360 của Bộ luật này.


Các bên có thể thỏa thuận
về việc bên vi phạm nghĩa
vụ chỉ phải chịu phạt vi
phạm mà không phải bồi
thường thiệt hại hoặc vừa
phải chịu phạt vi phạm và
vừa phải bồi thường thiệt
hại.

Các chủ thể chỉ được quyền yêu cầu bồi
thường thiệt hại trong phạm vi luật định.

Khái niệm

Đặc điểm

Bên bị vi phạm chỉ được
phạt bên vi phạm khi có
thỏa thuận trong hợp đồng.

- Điều 13 Bộ luật Dân sự 2015 quy định
về bồi thường thiệt hại như sau: “Cá
nhân, pháp nhân có quyền dân sự bị
xâm phạm được bồi thường thiệt hại,
trừ trường hợp các bên có thỏa thuận
hoặc luật có quy định khác.”
- Điều 360 Bộ luật Dân sự 2015 quy
định về trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do vi phạm nghĩa vụ như sau:

“Trường hợp có thiệt hại do vi phạm
nghĩa vụ gây ra thì bên có nghĩa vụ
phải bồi thường tồn bộ thiệt hại, trong
trường hợp có thoả thuận khác hoặc
luật quy định khác.”

Được bồi thường thiệt hại ngay cả khi
khơng có thỏa thuận.


Do thỏa thuận trong hợp Điều 584 Bộ luật Dân sự 2015 quy định:
đồng
“Người nào có hành vi xâm phạm tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy
Căn cứ áp
tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác
dụng chế tài
của người khác mà gây thiệt hại thì phải
bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này,
luật khác có liên quan quy định khác.”

- Mức phạt vi phạm do các
bên thỏa thuận, trừ trường
hợp luật liên quan có quy
định khác.

Thiệt hại thực tế phải được bồi thường
toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thỏa
thuận về mức bồi thường, hình thức bồi
thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực

hiện một công việc, phương thức bồi
Mức áp
- Mức phạt hoặc tổng mức
dụng chế tài phạt đối với nhiều vi phạm thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường
hợp pháp luật có quy định khác.
do các bên thỏa thuận trong
hợp đồng, nhưng không
quá 8% giá trị phần nghĩa
vụ hợp đồng bị vi phạm.

Mục đích

- Ngăn ngừa các hành vi vi
phạm có thể xảy ra khi giao
kết hợp đồng nhằm bảo vệ
lợi ích của các bên trong
hợp đồng.
- Nâng cao ý thức trách
nhiệm của mỗi bên khi thực
hiện hợp đồng.

- Bảo vệ lợi ích của bên bị vi phạm.
- Khắc phục hậu quả do hành vi vi phạm
gây nên, bù đắp thiệt hại vật chất cho bên
bị vi phạm.


Mối quan
hệ giữa phạt - Trường hợp có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm có quyền
vi phạm và áp dụng cả chế tài phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại.

bồi thường
- Trường hợp không thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm chỉ có
thiệt hại
quyền u cầu bồi thường thiệt hại.

6. Theo Tịa án cấp phúc thẩm, thỏa thuận được nêu tại mục 4 phần Nhận
định của Tòa án trong Quyết định số 10 là thỏa thuận phạt vi phạm hợp đồng hay
thỏa thuận về mức bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng? Vì sao?
- Theo Tịa án cấp phúc thẩm, thỏa thuận được nêu tại mục 4 phần Nhận định của
Tòa án trong Quyết định số 10 là thỏa thuận về mức bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp
đồng vì trong Bản án phúc thẩm số 01/2017/KDTM-PT ngày 11/4/2017 của TAND tỉnh
Ninh Thuận có đoạn: “Khơng chấp nhận tồn bộ yêu cầu khởi kiện của công ty TNHH
Yến Sào Sài Gịn có nội dung: u cầu cơng ty cổ phần Yến Việt bồi thường khoản tiền
10.000.000.000 đồng do vi phạm Hợp đồng nguyên tắc số 02/HĐNT về việc phân phối
độc quyền phía Bắc…”
7. Theo Tịa giám đốc thẩm (Hội đồng thẩm phán), thỏa thuận được nêu tại
mục 4 phần Nhận định của Tòa án trong Quyết định số 10 là thỏa thuận phạt vi
phạm hợp đồng hay thỏa thuận về mức bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng?
Vì sao?
Theo Tịa án giám đốc thẩm (Hội đồng thẩm phán), thoả thuận được nêu tại mục 4
phần Nhận định của Toà án trong Quyết định số 10 là thoả thuận phạt vi phạm hợp đồng.
Cụ thể, tại phần Nhận thấy của Quyết định số 10 Tòa án đã nhận định: “Tại Điều 11 Hợp
đồng nguyên tắc số 02, hai bên thỏa thuận: “...nếu trong quá trình thực hiện Hợp đồng,
bên nào vi phạm các điều kiện đã cam kết trong Hợp đồng thì bên vi phạm phải chịu
trách nhiệm bồi thường cho bên kia số tiền là 10.000.000.000 đồng”. Theo các điều 300,
301, 302, 303, 304 Luật Thương mại năm 2005 thì phạt vi phạm là việc các bên thỏa
thuận bên vi phạm phải trả một khoản tiền phạt được xác định trước, nhưng không vượt
quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm; còn bồi thường thiệt hại là việc các
bên thỏa thuận bên vi phạm bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm hợp đồng gây



ra cho bên bị vi phạm, nhưng những tổn thất này chưa xác định được tại thời điểm thỏa
thuận. Các bên thỏa thuận bên vi phạm phải chịu trách nhiệm bồi thường cho bên bị vi
phạm 10.000.000.000 đồng, tức là các bên thỏa thuận về phạt vi phạm hợp đồng.”
8. Cho biết suy nghĩ của anh/chị về hướng xác định nêu trên của Hội đồng
thẩm phán.
- Hướng xác định nêu trên của Hội đồng thẩm phán là hoàn toàn hợp lý và đúng
pháp luật.
- Để xác định các bên có thỏa thuận về bồi thường thiệt hai hay khơng thì phải
làm rõ các căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại gồm đủ các yếu tố: có hành
vi vi phạm hợp đồng, có thiệt hại thực tế, hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực
tiếp gây ra thiệt hại và bên yêu cầu bồi thường thiệt hại phải chứng minh tổn thất, mức độ
tổn thất do hành vi vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được
hưởng nếu khơng có hành vi vi phạm. Bên cạnh đó Hội đồng thẩm phán đã căn cứ vào
các Điều 300, 301, 302, 303, 304 Luật Thương mại năm 2005 thì phạt vi phạm là việc các
bên thỏa thuận bên vi phạm phải trả một khoản tiền phạt được xác định trước, nhưng
không vượt quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm; còn bồi thường thiệt hại
là việc các bên thỏa thuận bên vi phạm bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm hợp
đồng cho bên bị vi phạm, nhưng những tổn thất này chưa xác định được tại thời điểm
thỏa thuận. Tại Điều 11 Hợp đồng nguyên tắc số 02 các bên thỏa thuận bên vi phạm phải
chịu trách nhiệm bồi thường cho bên bị vi phạm 10 tỷ, tức là các bên thỏa thuận về phạt
vi phạm hợp đồng. Tuy nhiên, thỏa thuận này đã vi phạm vi định tại Điều 301 Luật
Thương mại 2005 về mức phạt tối đa. Do đó, hướng xác định nêu trên của Hội đồng thẩm
phán là đúng pháp luật và hoàn toàn thuyết phục.

 Vấn đề 3: Sự kiện bất khả kháng
Tình huống sau: Anh Văn nhận chuyển hàng cho anh Bình bằng đường thủy. Anh
Văn có mua bảo hiểm trách nhiệm dân sự cho việc vận chuyển bằng tàu của mình. Trên
đường vận chuyển, tàu bị gió nhấn chìm và hàng bị hư hỏng tồn bộ.
1. Những điều kiện để một sự kiện được coi là bất khả kháng? Và cho biết các

bên có thỏa thuận với nhau về trường hợp có sự kiện bất khả kháng không? Nêu rõ
cơ sở khi trả lời.


- Theo quy định tại Khoản 1 Điều 156 BLDS 2015, một sự kiện được coi là bất
khả kháng thì cần đủ ba điều kiện: là sự kiện khách quan xảy ra ngồi ý trí của bên vi
phạm; bên vi phạm không thể lường trước được, bên vi phạm không thể khắc phục mặc
dù đã áp dụng biện pháp cần thiết và khả năng cho phép.
Thứ nhất, đây phải là “sự kiện xảy ra một cách khách quan”. Để được coi là sự
kiện xảy ra một cách khách quan thì sự kiện này phải vượt qua sự kiểm soát của bên phải
thực hiện hợp đồng và như vậy đây có thể là các hiểm họa thiên nhiên (động đất, sóng
thần, mưa lũ, sạt lở đất,...), các sự biến xã hội (đình cơng, bạo loạn, chiến tranh,...) và các
hiểm họa do cháy nổ tự nhiên.
Thứ hai, “sự kiện không thể lường trước được”. Việc khơng thể lường trước được
hiểu là hồn cảnh làm cho hợp đồng không thực hiện được, các bên khơng dự đốn được
tại thời điểm giao kết.
Thứ ba, “sự kiện xảy ra không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện
pháp cần thiết và khả năng cho phép”. Theo đó, bên có nghĩa vụ phải áp dụng mọi biện
pháp trong khả năng cho phép để thực hiện các cam kết và nghĩa vụ theo hợp đồng,
không trông chờ xảy ra một trở ngại khách quan để được miễn trách nhiệm thực hiện hợp
đồng.
- Căn cứ vào quy định tại Khoản 2 Điều 351 BLDS 2015:“Trường hợp bên có
nghĩa vụ khơng thực hiện đúng nghĩa vụ do sự kiện bất khả kháng thì khơng phải chịu
trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định
khác” và Khoản 2 Điều 548 BLDS 2015: "Người gây thiệt hại không phải chịu trách
nhiệm bồi thường thiệt hại trong trường hợp thiệt hại phát sinh là do sự kiện bất khả
kháng hoặc hoàn toàn do lỗi của bên bị thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác
hoặc luật có quy định khác."
2. Những hệ quả pháp lý trong trường hợp hợp đồng không thể thực hiện
được do sự kiện bất khả kháng trong BLDS và Luật Thương mại sửa đổi.

Thứ nhất, không phải chịu trách nhiệm dân sự
Căn cứ vào Khoản 2 Điều 351 BLDS năm 2015 và Khoản 1 Điều 294 Luật
Thương mại năm 2005, trường hợp bên có nghĩa vụ không thể thực hiện được nghĩa vụ


do sự kiện bất khả kháng thì khơng phải chịu trách nhiệm, trừ trường hợp có thỏa thuận
khác hoặc pháp luật có quy định khác.
Thứ hai, khơng phải bồi thường thiệt hại
Theo Khoản 3 Điều 541 BLDS năm 2015: “3. Trường hợp bất khả kháng dẫn
đến tài sản vận chuyển bị mất, hư hỏng hoặc bị hủy hoại trong quá trình vận chuyển thì
bên vận chuyển khơng phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa
thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”. Khoản 2 Điều 556 BLDS năm 2015 nếu
bên giữ tài sản làm mất mát, hư hỏng tài sản gửi giữ trong “trường hợp bất khả kháng”
thì bên gửi tài sản khơng có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại; Khoản 2 Điều 557 BLDS
năm 2015 bên giữ tài sản không phải bồi thường thiệt hại.
Thứ ba, được kéo dài thời hạn thực hiện hợp đồng nếu việc thực hiện hợp đồng
bị chậm trễ do sự kiện bất khả kháng, nhưng không áp dụng đối với hợp đồng mua bán
hàng hóa, cung ứng dịch vụ có thời hạn cố định về giao hàng hoặc hoàn thành dịch vụ
(căn cứ vào Khoản 1 và Khoản 4 Điều 296 Luật thương mại năm 2005).
Thứ tư, nếu sự kiện bất khả kháng kéo dài hoặc gây ra hậu quả nghiêm trọng dẫn
đến việc thực hiện hợp đồng sẽ khơng có lợi cho các bên thì các bên có thể thỏa thuận
chấm dứt việc thực hiện hợp đồng.

3. Số hàng trên có bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng khơng? Phân tích
các điều kiện hình thành sự kiện bất khả kháng với tình huống trên.
- Số hàng trên bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng. Theo quy định tại Khoản 1
Điều 156 BLDS 2015: “Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan
không thể lường trước được và không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện
pháp cần thiết và khả năng cho phép”.
- Phân tích:

+ Tàu bị gió nhấn chìm đến nỗi hỏng tồn bộ tài sản đây là một sự kiện xảy ra
một cách khách quan.


+ Là sự kiện khơng thể lường trước được, gió lớn dẫn đến chìm tàu là sự kiện
diễn ra ngồi ý chí chủ quan của anh Văn, các bên cũng khơng nhìn thấy được tại thời
điểm giao kết.
+ Tàu bị chìm làm hư hỏng tồn bộ nhưng có thể khắc phục được hay khơng thì
bản án nói khơng nêu rõ. Nếu có thể khắc phục được thì đây khơng phải là sự kiện bất
khả kháng; ngược lại, nếu số hàng khơng thể khắc phục được thì đây chính là sự kiện bất
khả kháng. Nếu biết rõ thiệt hại xảy ra có thể tránh được nhưng bên vận chuyển vẫn thực
hiện để có thiệt hại xảy ra là điều khơng hợp lý.
4. Nếu hàng bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng, anh Văn có phải bồi
thường cho anh Bình về việc hàng bị hỏng không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Căn cứ vào Khoản 2 Điều 351 BLDS 2015: “Trường hợp bên có nghĩa vụ khơng
thực hiện đúng nghĩa vụ do sự kiện bất khả kháng thì khơng phải chịu trách nhiệm dân
sự, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”
Căn cứ vào Khoản 3 Điều 541 BLDS năm 2015 quy định: “Trường hợp bất khả
kháng dẫn đến tài sản vận chuyển bị mất, hư hỏng hoặc bị hủy hoại trong q trình vận
chuyển thì bên vận chuyển khơng phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường
hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.”
Anh Văn khơng phải bồi thường cho anh Bình về việc hàng bị hỏng nếu do sự
kiện khách quan và giữa anh Văn và anh Bình khơng có thỏa thuận khác.
5. Nếu hàng bị hư hỏng nặng do sự kiện bất khả kháng và anh Văn bồi
thường cho anh Bình giá trị hàng hư hỏng thì anh Văn có được Cơng ty bảo hiểm
thanh tốn khoản tiền này khơng? Tìm câu trả lời từ góc độ văn bản và thực tiễn xét
xử.
Căn cứ vào Khoản 2 Điều 351 BLDS năm 2015 quy định: “Trường hợp bên có
nghĩa vụ khơng thực hiện đúng nghĩa vụ do sự kiện bất khả kháng thì khơng phải chịu
trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định

khác.”
Căn cứ vào Khoản 3 Điều 541 BLDS năm 2015 quy định: “Trường hợp bất khả
kháng dẫn đến tài sản vận chuyển bị mất, hư hỏng hoặc bị hủy hoại trong quá trình vận


chuyển thì bên vận chuyển khơng phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường
hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.”
Khi nhận vận chuyển hàng cho anh Bình bằng đường thủy anh Văn đã mua bảo
hiểm trách nhiệm dân sự cho việc vận chuyển bằng tàu của mình. Nên anh Văn sau khi
bồi thường sẽ được Cơng ty bảo hiểm thanh tốn lại khoản tiền này nếu làm đúng theo
thủ tục yêu cầu mà Công ty bảo hiểm đưa ra chấp hành đúng hợp đồng với Công ty bảo
hiểm và thiệt hại mà anh Văn bồi thường do sự kiện bất khả kháng.
- Thực tiễn xét xử:
Quyết định số 105/GDT-DS ngày 30/5/2003 của tòa án tối cao về việc Công ty bảo
hiểm Bảo Việt hồn trả số tiền mà ơng Khóm đã bồi thường cho ơng Điền và ơng Trinh.
Trong sự việc này Tịa án tối cao đã đưa ra hướng giải quyết như sau:" Về việc trả tiền
bảo hiểm quy định theo Điều 580 BLDS đối với trường hợp của ơng Khóm thì ông Khóm
không cố ý để xảy ra thiệt hại. Mặt khác theo thỏa thuận của các bên trong hợp đồng bảo
hiểm về những loại trừ trong bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ tàu thì khơng có thỏa
thuận nào về việc Bảo Việt An Giang từ chối trách nhiệm do tai nạn tàu chìm vì gió bão.
Do đó, thỏa thuận của ơng Khóm và ơng Trinh, ơng Điền là khơng trái pháp luật, có hiệu
lực và ràng buộc cả Bảo Việt An Giang"2

Vấn đề 4: Thực hiện hợp đồng khi hồn cảnh thay đổi cơ bản.
*Tóm tắt bản án số 133/2021/DS-PT ngày 8/7/2021 của Toà án nhân dân tỉnh
Cà Mau
- Nguyên đơn: anh Phan Văn T và chị Nguyễn Thị Hồng N
- Bị đơn: Công ty TNHH Đầu Tư và Phát triển Thanh M, đại diện là chị Trần Thị
Thúy A.
- Nội dung bản án:

Nguyên đơn và bị đơn đã ký hợp đồng vào ngày 01/8/2018 thuê nhà tại số 252, N,
Phường 9, thành hố C và được công chứng đúng quy định. Thời hạn thuê là 03 năm bắt
đầu từ ngày 01/10/2018 đến hết ngày 30/9/2021.

2 Đỗ Văn Đại (2001), Luật hợp đồng Việt Nam-Bản án và bình luận bản án, Nxb. CTQG, Bản án số 77,
tr. 376 - 379.


Vào ngày 07/02/2020 bị đơn gửi văn bản cho nguyên đơn thơng báo tình hình dịch
bệnh Covid 19; ngày 26/022020 bị đơn gửi thông báo chấm dứt hợp đồng thuê nhà,
nhưng nguyên đơn không đồng ý và yêu cầu bị đơn phải thanh toán tiền thuê nhà, đồng
thời bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng thuê nhà.
- Hướng giải quyết của Tòa án:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc chấm dứt hợp
đồng thuê nhà giữa anh Phan Văn T, chị Nguyễn Hồng N với chị Trần Thị Thúy A là chủ
sở hữu Công ty TNHH Đầu Tư và Phát triển Thanh M và buộc chị Trần Thị Thúy A thanh
toán tiền thuê nhà cho nguyên đơn số tiền 126.000.000 đồng.
Bác bỏ yêu cầu của nguyên đơn về việc yêu cầu bị đơn bồi thường 01 năm tiền
nhà theo giá năm thứ hai.
1. Điểm giống và khác nhau giữa sự kiện bất khả kháng và hoàn cảnh thay
đổi khi thực hiện hợp đồng (về sự tồn tại và hệ quả pháp lý của hai trường hợp này)
*Giống nhau:
- Sự kiện xảy ra do nguyên nhân khách quan.
- Vào thời điểm giao kết hợp đồng, các bên không thể dự liệu trước được sự kiện
đó sẽ xảy ra trong tương lai.
*Khác nhau:
Cơ sở
pháp lý

Điều kiện


Bất khả kháng
Khoản 1 Điều 156

Hoàn cảnh thay đổi
Điều 420 BLDS 2015

BLDS 2015
Khoản 2 Điều 584
BLDS 2015
- Các bên đã áp dụng

- Bên có lợi ích bị ảnh

mọi biện pháp cần thiết và khả hưởng đã áp dụng mọi biện pháp
năng cho phép nhưng không cần thiết trong khả năng cho
thể khắc phục được.

phép mà không thể ngăn chặn
hay giảm mức độ ảnh hưởng đến
lợi ích.

Hậu quả

- Các bên thỏa thuận

- Bên có lợi ích bị ảnh


kéo dài thời gian thực hiện hưởng có quyền yêu cầu bên kia

nghĩa vụ hợp đồng.
đàm phán lại hợp đồng trong
- Nếu các bên khơng có
một thời gian hợp lý.
thỏa thuận hoặc không thỏa
- Nếu các bên không thỏa
thuận được thì thời hạn thực thuận được, có thể u cầu Tịa
hiện nghĩa vụ hợp đồng được án:
tính thêm một thời gian bằng
thời gian xảy ra trường hợp bất
khả kháng cộng với thời gian

+ Chấm dứt hợp đồng tại
một thời điểm xác định
+ Sửa đổi hợp đồng để
cân bằng quyền và lợi ích của

hợp lý để khắc phục.
các bên do hồn cảnh thay đổi
- Người gây thiệt hại
cơ bản
không phải chịu trách nhiệm
bồi thường thiệt hại trong
trường hợp thiệt hại phát sinh
do sự kiện bất khả kháng.
2. Trong vụ việc nêu trên, theo Toà án, việc chấm dứt hợp đồng là do sự kiện
bất khả kháng hay do hoàn cảnh thay đổi cơ bản? Vì sao?
Trong vụ việc nêu trên, theo Tịa án, việc chấm dứt hợp đồng là do hồn cảnh
thay đổi. Cụ thể tại phần Nhận thấy của Bản án số 133, Tòa án đã nhận định: “Qua xem
xét toàn diện chứng cứ, Hội đồng xét xử nhận thấy, dịch Covid-19 xảy ra thì các đương

sự khơng lường trước được, trên thực tế dịch bệnh đã gây ra hậu quả hết sức nặng nề,
làm ảnh hưởng đến cuộc sống bình thường, ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh từ đó
dẫn đến ảnh hưởng đến thu nhập của mọi người là sự thật xảy ra mà cụ thể trong vụ án
này đã ảnh hưởng đến nguyên đơn, bị đơn. Hiện tại nhà của nguyên đơn vẫn chưa có
người thuê mà ngun đơn cịn phải đóng tiền vay Ngân hàng; về phía bị đơn, sau khi cả
nước thực hiện Chỉ thị 16 vào năm 2020 thì số học sinh đến lớp bị hạn chế dẫn đến
doanh thu thấp nhưng phải chi trả lương nhân viên và các chi phí khác...; Tại cấp phúc
thẩm, nguyên đơn cung cấp chứng cứ bị đơn vẫn tiếp tục kinh doanh sau khi chấm dứt
thuê nhà, đó là bị đơn vẫn nộp thuế hàng tháng, có phiếu thu tiền học phí, tuy vậy hồ sơ
khơng thể hiện thu nhập của bị đơn từ hoạt động kinh doanh. Trong trường hợp này, quá


trình thực hiện hợp đồng khi hồn cảnh thay đổi cơ bản thì các bên có thể Tơng lượng
với nhau, tại khoản 2 Điều 420 Bộ luật dân sự năm 2015…”
3. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết nêu trên của Toà án (đặc biệt là
liên quan đến hoàn cảnh thay đổi cơ bản).
- Tòa án đã tuyên bố chấm dứt hợp đồng của các bên và không bồi thường thiệt
hại là chưa hợp lý.
- Việc các bên chấm dứt hợp đồng thuê nhà là hệ quả của hoàn cảnh thay đổi cơ
bản do dịch Covid 19. Tại thời điểm tranh chấp xảy ra thì dịch Covid 19 đã xuất hiện tại
Việt Nam một khoảng thời gian dài nên không đủ điều kiện được xem là sự kiện bất khả
kháng mà chỉ được xem là do hoàn cảnh thay đổi cơ bản. Tuy nhiên, vụ việc trên chưa
thỏa mãn đầy đủ điều kiện của "hoàn cảnh thay đổi cơ bản" được quy định tại Điều 420
BLDS 2015. Tòa án chưa căn cứ vào việc bên có lợi ích bị ảnh hưởng đã áp dụng mọi
biện pháp cần thiết trong khả năng cho phép, phù hợp với tính chất của hợp đồng mà
không thể ngăn chặn hay giảm thiểu mức độ ảnh hưởng đến lợi ích. Vì vậy, việc Tịa án
đã dẫn quy định về hoàn cảnh thay đổi cơ bản để tuyên bố chấm dứt hợp đồng, không bồi
thường thiệt hại là chưa phù hợp.




×