Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

THẢO LUẬN dân sự 2 lần 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.21 KB, 29 trang )

KẾT QUẢ THẢO LUẬN MÔN:
PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG
VÀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG
NỘI DUNG:
BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NGHĨA VỤ


 VẤN ĐỀ 1:

Đối tượng dùng để bảo đảm và tính chất phụ của biện pháp bảo

đảm
* Tóm tắt Bản án số 208/2010/DS-PT ngày 09/03/2010 của Tòa án nhân dân
TP. HCM:
- Nguyên đơn: ông Phạm Bá Minh
- Bị đơn: bà Bùi Thị Khen, ông Bùi Khắc Thảo
Ngày 14/09/2007 bà Khen và ơng Thảo có thế chấp cho ơng Minh một giấy sử
dụng sạp D2-9 tại chợ Tân Hương để vay 60.000.000 đồng, thời hạn vay là 6 tháng, lãi
suất thỏa thuận là 3%/tháng. Khi hết hạn hợp đồng, do bà Khen và ơng Thảo khơng có
khả năng thanh tốn nên kéo dài số nợ trên cho đến nay. Ông Minh yêu cầu bà Khen và
ông Thảo trả tiền lãi và tiền nợ là 70.000.000 đồng, thời hạn trả là 1 tháng. Phía bà Khen
ơng Thảo đồng ý trả 70.000.000 đồng nhưng xin trả trong 12 tháng.
Quyết định của Tòa án:
- Tịa án sơ thẩm: Buộc bà Khen ơng Thảo thanh tốn 38.914.800 đồng cho ơng
Minh. Ơng Minh có trách nhiệm trả lại cho bị đơn giấy chứng nhận sạp D2-9.
- Tòa án phúc thẩm: Bác bỏ yêu cầu kháng cáo của ơng Minh và giữ ngun án sơ
thẩm.
* Tóm tắt Quyết định số 02/2014/QĐ-UBTP ngày 28/2/2014 của Tòa án nhân
dân tỉnh Tiền Giang.
- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Văn Ôn, bà Lê Thị Xanh.
- Bị đơn: Ông Nguyễn Văn Rành.


Vào năm 1995, ơng Ơn và bà Xanh có cầm cố cho ông Rành 3000m2 đất với giá 30
chỉ vàng 24k. Vợ chồng ông Rành đã giao đủ vàng, thỏa thuận 3 năm sẽ chuộc lại, nếu
khơng chuộc lại thì ơng Rành lấy phần đất trên với số vàng đã cầm cố. Hiện tại nguyên
đơn yêu cầu bị đơn trả lại 3000m 2 đất và sẽ trả lại 30 chỉ vàng 24k cho bị đơn. Phần đất
tranh chấp vợ chồng ông Rành đang canh tác và còn 2,5 tháng sẽ thu hoạch.
Quyết định của Tòa án:
+ Quyết định dân sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành: Chấp nhận
yêu cầu của nguyên đơn. Hủy hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất đối với phần đất
3.072,7m2, buộc ông Rành giao trả lại phần đất 3.072,7m 2 cho ơng Ơn, bà Xanh và u
cầu ơng Ơn, bà Xanh liên đới trả cho ông Rành hết 30 chỉ vàng 24k (loại vàng nhẫn).
+ Quyết định Giám đốc thẩm đã chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân tỉnh Tiền Giang và cho rằng: giao dịch giữa ơng Ơn, bà Xanh và ông Rành là
giao dịch tương tự như là giao dịch cầm cố tài sản phải áp dụng nguyên tắc tương tự là


các quy định về cầm cố tài sản để giải quyết, cũng như hủy bản án dân sự sơ thẩm của
Tòa án nhân dân huyện Châu Thành về việc “Tranh chấp hợp đồng cầm cố quyền sử dụng
đất”.

 Tóm tắt Quyết định số 27/2021/DS-GĐT ngày 02/6/2021 của Toà án nhân dân cấp

cao tại Tp. Hồ Chí Minh:
Nguyên đơn: Ngân hàng liên doanh V
Bị đơn: Công ty PT
Ngân hàng liên doanh V và Công ty PT đã ký kết hợp đồng tín dụng. Để đảm bảo
nghĩa vụ trả nợ cho ngân hàng, các bên bảo lãnh đã ký kết hợp đồng thế chấp. Trong đó
có hợp đồng thế chấp bất động sản của ông Trần T và bà Trần Thị H là bên bảo lãnh. Hợp
đồng này đã được tất toán với khoản vay tương ứng thế nhưng ngân hàng lại muốn xử lý
tài sản thế chấp cho khoản vay khác. Chính vì vậy Tồ đã quyết định: tun hợp đồng thế
chấp có hiệu lực pháp lý và ngân hàng V có quyền xử lý tài sản thế chấp. Bên cạnh đó,

Tồ án giữ ngun Bản án kinh doanh thương mại sơ thầm: tuyên bố hợp đồng thuế chấp
chấm dứt hiệu lực và ngân hàng phải trả lại cho ông Trần T và bà Trần Thị H bản chính
Giấy chứng nhận quyền sở hữu đất và quyền sở hữu nhà ở.
1. Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 liên quan đến tài sản có
thể dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.
- Thứ nhất, về số lượng điều Luật:
+ BLDS 2005 có 3 điều Luật liên quan đến tài sản có thể dùng để bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ là Điều 321, 322, 323.
+ Trong khi đó, BLDS 2015 chỉ có 1 điều Luật (Điều 295 về Tài sản bảo đảm)
Để đồng bộ với quy định về tài sản và nguyên tắc thực hiện, bảo vệ quyền dân sự
liên quan đến tài sản, quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản trong BLDS 2015 nên
Điều 295 đã không quy định như trong BLDS năm 2005 là theo hướng liệt kê sẽ dẫn đến
tình trạng quy định khơng đầy đủ và “dường như chỉ là sự lặp lại các loại tài sản theo
quy định tại Điều 163 của Bộ luật”. 1 mà tiếp cận theo hướng tài sản được quy định tại
Điều 105 BLDS 2015 đều có thể là đối tượng của biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ,
trừ trường hợp luật có quy định khác.
- Thứ hai, về vấn đề sở hữu tài sản bảo đảm:
+ Tại Khoản 1 Điều 295 BLDS 2015: “Tài sản bảo đảm phải thuộc quyền sở hữu
của bên bảo đảm”, quy định này thể hiện hai điểm mới: Một là, không yêu cầu điều kiện
1 Viên Thế Giang, Thực trạng pháp luật về tài sản bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự và hướng sửa đổi, Tạp chí Nhà

nước và pháp luật, số 04/2015, tr.36.


tài sản phải “được phép giao dịch” như quy định tại khoản 1 Điều 320 BLDS năm 2005.
Hai là, tài sản bảo đảm có thể là tài sản thuộc sở hữu của bên có nghĩa vụ được bảo đảm
(bên bảo đảm đồng thời là bên có nghĩa vụ được bảo đảm) hoặc của người thứ ba (bên
bảo đảm và bên có nghĩa vụ được bảo đảm là 02 chủ thể khác nhau). Theo đó, về nguyên
tắc, chủ sở hữu tài sản được quyền dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ của chính mình hoặc của người khác.

+ Tại Khoản 2 Điều 295 BLDS 2015: “Tài sản bảo đảm có thể được mơ tả chung,
nhưng phải xác định được”. Quy định như vậy nhằm hạn chế việc dùng tài sản hình thành
trong tương lai mà chưa được xác định để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự vì các bên
đứng trước nguy cơ hiệu lực của hợp đồng bị tác động bởi việc mô tả tài sản bảo đảm
chung chung và không xác định.
- Thứ ba, về biện pháp bảo đảm: BLDS 2005 có làm rõ yếu tố “tương lai” của tài
sản bảo đảm tại Khoản 2 Điều 320. Nhưng đến Điều 295 BLDS 2015 không quy định làm
rõ thế nào là tài sản hiện có, tài sản hình thành trong tương lai, vì điều này đã được quy
định rõ tại Khoản 1 và Khoản 2 Điều 108 BLDS 2015. Cách quy định như vậy là thuyết
phục vì làm cho BLDS khơng rườm rà mà vẫn đủ nội dung.
- Thứ tư, về giá trị của tài sản bảo đảm: BLDS 2015 đã bổ sung thêm quy định về
giá trị của tài sản tại Khoản 4 Điều 295, cụ thể như sau: “Giá trị của tài sản bảo đảm có
thể lớn hơn, bằng hoặc nhỏ hơn giá trị nghĩa vụ được bảo đảm”. Quy định này tránh
được tình trạng thực tế là đơi khi có người yêu cầu giá trị tài sản bảo đảm phải lớn hơn giá
trị nghĩa vụ được bảo đảm.
2. Đoạn nào của bản án số 208 cho thấy bên vay dùng giấy chứng nhận sạp để
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả tiền vay?
- Theo bản án số 208 cho thấy bên vay dùng giấy chứng nhận sạp để bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ trả tiền vay là trong phần “Nhận thấy” tại trang 1 ghi: “Ơng Phạm Bá Minh
trình bày : Ông là chủ doanh nghiệp cầm đồ Bá Minh. Vào ngày 14/9/2007 bà Bùi Thị
Khen và ông Nguyễn Khắc Thảo có thế chấp cho ơng một giấy sử dụng sạp D2-9 tại chợ
Tân Hương để vay 60.000.000đ, thời hạn vay là 6 tháng , lãi suất thỏa thuận là
3%/tháng”. Kết hợp lời khai của bị đơn: “Bị đơn bà Bùi Thị Khen và ông Nguyễn Khắc
Thảo xác nhận: Có thế chấp một giấy tờ sạp D2-9 tại chợ Tân Hương để vay 60.000.000đ
cho ông Phạm Bá Minh là chủ dịch vụ cầm đồ Bá Minh. Lãi suất là 3%/tháng.”
3. Giấy chứng nhận sạp có là tài sản khơng? Vì sao?
Giấy chứng nhận sạp khơng là tài sản.
Căn cứ vào Khoản 1 Điều 105, BLDS 2015 quy định về tài sản cụ thể như sau: “1.
Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản”.
- Vật được coi là tài sản phải là vật hữu hình, cảm nhận được bởi năm giác quan

của con người, chiếm giữ một phần trong không gian và đáp ứng được một nhu cầu nào


đó về vật chất và tinh thần của con người. 2 Giấy chứng nhận sạp tuy là vật hữu hình có
thể cầm, nắm, quản lý nhưng khơng đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần của con người.
- Tiền là một tài sản riêng biệt chỉ có ngân hàng nhà nước độc quyền phát hành
thực hiện chức năng thanh tốn đa năng tăng cường tích lũy của cải và cơng cụ định giá
các loại tài sản khác. Do đó, ta không thể coi giấy chứng nhận sạp là tiền.
- Giấy tờ có giá theo quy định tại Khoản 8 Điều 6 Luật ngân hàng nhà nước Việt
Nam năm 2010 là bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát hành giấy tờ có
giá với người sở hữu giấy tờ có giá trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các
điều kiện khác.
Ngoài ra tại Khoản 9 Điều 3 Nghị Định số 163/2006/NĐ-CP đã quy định: “9. Giấy
tờ có giá bao gồm cổ phiếu, trái phiếu, hối phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi, séc, giấy
tờ có giá khác theo quy định của pháp luật, trị giá được thành tiền và được phép giao
dịch.”
Qua đó, có thể thấy khơng thể xem giấy chứng nhận sạp là giấy tờ có giá.
- Quyền tài sản
Căn cứ vào Điều 115 BLDS 2015 quy định như sau: “Quyền tài sản là quyền trị
giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền
sử dụng đất và các quyền tài sản khác.”
Bà Khen chỉ được sử dụng sạp đó để bn bán các mặt hàng tại chợ Tân Hương,
khơng có đặc quyền khác đối với sạp vì nó khơng phải tài sản của bà và cũng không trị
giá được bằng tiền. Vì vậy, giấy chứng nhận sạp khơng được xem là quyền tài sản.
Vì các lẽ trên nên ta có thể xác định giấy chứng nhận sạp không thỏa mãn bất kỳ
dấu hiệu nào trong xác định loại tài sản là “vật, tiền, giấy tờ có giá hay quyền tài sản”.
4. Việc dùng giấy chứng nhận sạp để bảo đảm nghĩa vụ dân sự có được Tịa án
chấp nhận khơng? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
Việc dùng giấy chứng nhận sạp để bảo đảm nghĩa vụ dân sự khơng được Tịa án
chấp nhận.

Đoạn của bản án cho thấy câu trả lời nằm ở đoạn 6 phần “Xét thấy” của bản án:
“Xét sạp thịt heo do bà Khen đứng tên và cầm cố, nhưng giấy chứng nhận sạp D2-9 tại
chợ Tân Hương là giấy đăng ký sử dụng sạp, không phải quyền sở hữu, nên giấy chứng
nhận trên không đủ cơ sở pháp lý để bà Khen thi hành án trả tiền cho ông Minh”.
5. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết và cơ sở pháp lý của Tòa án đối
với việc dùng giấy chứng nhận sạp để bảo đảm nghĩa vụ.
2 Hồng Thế Liên (chủ biên), Bình luận khoa học Bộ luật dân sự 2005, Nxb.Chính trị Quốc gia – Sự thật 2013, Tập

I, trang 384


Hướng giải quyết và cơ sở pháp lý của Tòa án đối với việc dùng giấy chứng nhận
sạp để bảo đảm nghĩa vụ là hợp lý.
Căn cứ vào Khoản 1 Điều 295 BLDS 2015 quy định về tài sản cụ thể như sau: “1.
Tài sản bảo đảm phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm, trừ trường hợp cầm giữ tài
sản, bảo lưu quyền sở hữu.”
Giấy chứng nhận sạp D2–9 tại chợ Tân Hương là giấy đăng kí sử dụng sạp không
phải là tài sản nên giấy chứng nhận sạp trên không đáp ứng được quy định về tài sản bảo
đảm ở khoản 1 Điều 295 BLDS 2015 đó là tài sản bảo đảm phải thuộc quyền sở hữu của
bên bảo đảm, trừ trường hợp cầm giữ tài sản, bảo lưu quyền sở hữu. Nên trong vụ việc
này hướng giải quyết của Tịa khi cho rằng khơng đủ cơ sở pháp lý để bà Khen thi hành
án trả tiền cho ông Minh là hợp lý. Tài sản cầm cố đó nếu khơng thuộc quyền sở hữu của
bà Khen thì bà Khen có quyền sử dụng, khơng có quyền định đoạt nó trong giao dịch cầm
cố sạp để trả nợ.
6. Đoạn nào của quyết định số 02 cho thấy các bên đã dùng quyền sử dụng đất
để cầm cố?
Trong Quyết định số 02/2014/QĐ-UBTP ngày 28/02/2014 cho thấy các bên đã sử
dụng đất để cầm cố là:
Trong phần “Nhận thấy” có đoạn: “Vào ngày 30/08/1995 (âm lịch), ơng Ơn, bà
Xanh và ông Rảnh đã xác lập giao dịch “thục đất làm ruộng”. Theo thỏa thuận này thì ơng

Ơn, bà Xanh là người có tài sản là quyền sử dụng đất hợp pháp, ơng Rành có tài sản là 30
chỉ vàng. Thực hiện giao dịch ơng Ơn, bà Xanh giao quyền sử dụng đất cho ông Rành
canh tác, đổi lại ông Rành đưa cho ơng Ơn, bà Xanh 30 chỉ vàng 24k để sử dụng hai bên
thỏa thuận nếu quá 03 năm ông Ôn, bà Xanh không chuộc lại đất cũng bằng số vàng trên
thì ơng Rành có quyền canh tác số ruộng đất này vĩnh viễn.
Trong phần “Xét thấy” có đoạn: “Ngày 30/8/1995 vợ chồng ơng Võ Văn Ơn và Lê
Thị Xanh cùng ông Nguyễn Văn Rành thỏa thuận việc thục đất. Hai bên có lập “Giấy
thục đất làm ruộng” với nội dung giống như việc cầm cố tài sản.
7. Văn bản hiện hành có cho phép dùng quyền sử dụng đất để cầm cố không?
Nêu cơ sở văn bản khi trả lời?
Theo điều 309 BLDS 2015: “Cầm cố tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên
cầm cố) giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận
cầm cố) để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ”.
Theo đó đối tượng của cầm cố phải là tài sản thuộc quyền sở hữu của bên cầm cố,
mà tài sản theo như Điều 105 BLDS 2015 ghi nhận thì gồm 4 loại: tiền, vật, giấy tờ có giá
và quyền tài sản.
Quyền sử dụng đất là một quyền tài sản (Điều 115 BLDS 2015) nên được xem như
thỏa mãn được điều kiện của đối tượng cầm cố là tài sản. Vì quyền sử dụng đất được luật
thừa nhận là quyền tài sản, là bất động sản nên quyền sử dụng đất là tài sản thuộc sở hữu


của một chủ thể có quyền sử dụng đất đó. “Đây là quyền tài sản đặc biệt do quan điểm
của Nhà nước coi đất là loại tài nguyên đặc biệt của quốc gia, nguồn lực quan trọng phát
triển đất nước, tài nguyên khan hiếm, phân bổ hạn điền cho phù hợp với số dân, tránh
đầu cơ tích tụ đất.”3
Đồng thời trong Khoản 1 Điều 167 Luật đất đai 2013 quy định người sử dụng đất
“được” thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế,
tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai mà khơng
có quy định nào cấm dùng quyền sử dụng đất để cầm cố tài sản. Vì thế trong các văn bản
hiện hành cho phép dùng quyền sử dụng đất để cầm cố.

8. Trong Quyết định trên, Tịa án có chấp nhận cho phép dùng quyền sử dụng
đất để cầm cố không? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?
Đoạn của cho câu trả lời nằm tại phần “Xét thấy” của Quyết định số 02, cụ thể như
sau: “Xét việc giao dịch thực đất nên trên là tương tự với giao dịch cầm cố tài sản, do đó
phải áp dụng nguyên tắc tương tự để giải quyết. Về nội dung, thì giao dịch thực đất nên
trên phù hợp với quy định về cầm cố tài sản của Bộ luật dân sự (tại Điều 326, 327), do đó
cần áp dụng các quy định về cầm cố tài sản của Bộ luật dân sự để giải quyết mới bảo
đảm quyền lợi hợp pháp của các bên giao dịch”.
9. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án trong Quyết định
số 02.
Hướng giải quyết trên của Tịa án là hồn tồn thuyết phục, phù hợp với quy định
của pháp luật khi công nhận giao dịch thửa đất trên. Vì theo như đã trình bày ở trên thì
quyền sử dụng đất là một loại tài sản cụ thể đó là quyền tài sản, theo Điều 115 : “Quyền
tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền sở
hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác.”
Và trong Luật Đất đai 2013 cũng khơng tìm thấy quy định nào cấm dùng giấy
chứng nhận sử dụng đất để cầm cố. Và có 2 loại bất động sản quan trọng là nhà và quyền
sử dụng đất. Nếu như không cho phép cầm cố quyền sử dụng đất thì việc BLDS cho phép
cầm cố bất động sản khơng cịn ý nghĩa. Đồng thời giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
trên là thuộc sở hữu của ông Ôn và bà Xanh (bên cầm cố), việc cầm cố cũng được lập
thành văn bản nên việc đem đi cầm cố là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật về
cầm cố tại Điều 309: “Cầm cố tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên cầm cố) giao tài
sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên kia (sau đây gọi là bên cầm cố) để bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ.
10. Trong Quyết định số 27, thế chấp được sử dụng để bảo đảm cho nghĩa vụ
nào? Vì sao?

3 Nguyễn Thành Tới, “Cầm cố quyền sử dụng đất – Vướng mắc của Tòa án trong giải quyết tranh chấp”, Tạp chí Tịa

án nhân dân số 15 năm 2018, tr 32.



Khoản 1 Điều 317 BLDS 2015: “Thế chấp tài sản là việc một bên (sau đây gọi là
bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ và
không giao tài sản cho bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế chấp).”
Trong Quyết định số 27, thế chấp được sử dụng để bảo đảm đối với các khoản nợ
được giải ngân trên cơ sở chịu sự điều chỉnh và cho phép bởi Hợp đồng tín dụng hạn mức
số 60/2014/HĐTD ngày 14/4/2014 (tức 1.500.000.000 đồng). Vì trong hợp đồng thế chấp
của ngân hàng với cơng ty có ghi: “Hợp đồng này để đảm bảo thực hiện toàn bộ nghĩa vụ
đã, đang và sẽ hình thành trong tương lai theo tồn bộ các Hợp đồng tín dụng đã và sẽ ký
giữa Ngân hàng với Bên vay trong giới hạn số tiền tối đa bằng giá trị tài sản thế chấp...”.
11. Đoạn nào trong quyết định số 27 cho thấy Toà án xác định Hợp đồng thế
chấp đã chấm dứt?
Tại phần “Nội dung vụ án” trong Quyết định số 27: “Tuy nhiên, theo sự xác nhận
của phía Ngân hàng thì Cơng ty PT đã thanh tốn tất cả các khoản nợ theo các hợp đồng
tín dụng cụ thể nêu trên và phía Ngân hàng cũng đã tất toán các hợp đồng này vào ngày
cuối cùng là 25/11/2014. Do vậy, căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 357 Bộ luật dân
sự năm 2005 về việc thế chấp tài sản chấm dứt khi nghĩa vụ được bảo đảm bằng thế chấp
chấm dứt thì Hợp đồng thế chấp bất
động sản số 63/2014/HĐTC ngày 06/6/2014 đã chấm dứt, hết hiệu lực từ ngày
25/11/2014.”
12. Vì sao Tồ án xác định hợp đồng thế chấp nêu trên đã chấm dứt?
Vì trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn Ngân hàng Việt Nga thừa nhận
Cơng ty PT đã thích tất tốn các khoản vay từ hợp đồng tín dụng số 60/2014/HĐTD ngày
14/4/2014 lần lượt vào các thời điểm 15/10/2014, 25/10/2014 và 12/11/2014. Căn cứ theo
quy định tại Điều 357 BLDS 2005 và Khoản 1 Điều 327 BLDS 2015:"Thế chấp tài sản
chấm dứt trong trường hợp sau đây: 1. Nghĩa vụ được bảo đảm bằng thế chấp chấm
dứt.", việc Ngân hàng yêu cầu được xử lý tài sản với ông T và bà H để thu hồi nợ là
khơng có cơ sở rõ ràng. Bởi lẽ, hợp đồng thế chấp đã chấm dứt nên Ngân hàng có trách
nhiệm hồn trả lại bản chính giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu đất

cho ông T và bà H.
13. Việc Tòa án xác định hợp đồng thế chấp nêu trên đã chấm dứt có thuyết
phục khơng? Vì sao?
Tịa án xác định hợp đồng thế chấp nêu trên đã chấm dứt là thuyết phục vì:
Căn cứ vào Điều 317 BLDS năm 2015 quy định:
“1. Thế chấp tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản
thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ và không giao tài sản cho bên kia
(sau đây gọi là bên nhận thế chấp).”
Căn cứ vào Điều 327 BLDS năm 2015 quy định:


“Thế chấp tài sản chấm dứt trong trường hợp sau đây:
1. Nghĩa vụ được bảo đảm bằng thế chấp chấm dứt.”
Trong hợp đồng thế chấp của ngân hàng với công ty tại Khoản 2 Điều 1 có ghi:
“Hợp đồng này để đảm bảo thực hiện toàn bộ nghĩa vụ đã, đang và sẽ hình thành trong
tương lai theo tồn bộ các Hợp đồng tín dụng đã và sẽ ký giữa Ngân hàng với Bên vay
trong giới hạn số tiền tối đa bằng giá trị tài sản thế chấp”. Nhưng Công ty PT và Ngân
hàng có nâng hạn mức tín dụng từ 1,5 tỷ đồng là 10 tỷ đồng mà không thông qua ý kiến
của người thế chấp là ông T và bà H là không đúng theo quy định. Thế nên, hợp đồng thế
chấp giữa Công ty PT và Ngân hàng là không hợp lý; do vậy, hợp đồng bất động sản số
63/2014/HĐTC ngày 05/6/2014 chỉ đảm bảo khoản vay 1,5 tỷ đồng.
Ngân hàng Việt Nga cũng đã thừa nhận Cơng ty PT tất tốn các khoản vay của hợp
đồng tín dụng số 60/2014/HĐTC ngày 14/04/2014. Theo đó, việc thế chấp tài sản là để
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ chính, khi bên thế chấp thực hiện xong nghĩa vụ chính hoặc
các trường hợp chấm dứt theo pháp luật quy định thì từ đó việc thế chấp sẽ chấm dứt.
Ngồi ra việc chấm dứt thế chấp tài sản cũng có thể được thực hiện theo nghĩa vụ của các
bên.
Vì vậy, việc thế chấp tài sản của ông T và bà H đã chấm dứt theo quy định tại
Khoản 1 Điều 327 BLDS 2015 . Do đó, việc Ngân hàng yêu cầu xử lý tài sản thế chấp của
ông T và bà H để thu hồi nợ là khơng có cơ sở. Ví thế hướng giải quyết tịa án là hồn

tồn thuyết phục.
 Vấn đề 2: Đăng ký giao dịch bảo đảm

* Tóm tắt Bản án số 90/2019/KDTM-PT ngày 16/8/2019 của Tòa án nhân dân
TP. Hà Nội.
Nguyên đơn là Ngân hàng N
Bị đơn là Công ty TNHH Xây dựng và Thương mại V (cịn gọi là Cơng ty V).
Ngân hàng N và Cơng ty V đã ký hợp đồng tín dụng trung hạn và hợp đồng hạn
mức tín dụng. Tài sản đảm bảo là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất mang tên
ông Q, bà V và động sản hệ thống khoan cọc nhồi KH125-3; các tài sản trên đều được
công chứng và đăng ký giao dịch bảo đảm theo quy định. Do Công ty V vi phạm nghĩa vụ
nên Ngân hàng N yêu cầu Tòa án giải quyết. Tịa án đã cơng nhận hợp đồng thế chấp.
1. Điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về đăng ký giao dịch bảo đảm.
Về đối tượng của hoạt động đăng ký
BLDS năm 2005 tiếp cận đối tượng của hoạt động đăng ký là giao dịch bảo đảm
còn BLDS năm 2015 lại tiếp cận đối tượng của hoạt động đăng ký là biện pháp bảo
đảm. Giao dịch bảo đảm là giao dịch dân sự do các bên thoả thuận hoặc pháp luật quy
định về việc thực hiện biện pháp bảo đảm. Do đó, việc sử dụng thuật ngữ đăng kí biện
pháp đảm bảo sẽ phù hợp hơn.
Về giá trị pháp lý của đăng ký biện pháp bảo đảm


BLDS 2015 quy định việc đăng ký là điều kiện để giao dịch bảo đảm có hiệu lực
chỉ trong trường hợp luật có quy định. Việc sử dụng cụm từ “luật quy định” thay thế cho
cụm từ “pháp luật có quy định” đã thể hiện sự thay đổi trong tư duy lập pháp, phù hợp
với quy định của Hiến pháp và các quy định khác có liên quan. Bởi lẽ, chỉ khi luật có quy
định đăng kí là điều kiện có hiệu lực của biện pháp bảo đảm thì các bên mới phải tuân thủ
quy định đó.
Theo quy định của BLDS năm 2005, đăng ký giao dịch bảo đảm có ý nghĩa là điều
kiện, là căn cứ pháp lý để xác định giao dịch bảo đảm có giá trị pháp lý với người thứ ba

(khoản 3 Điều 323). Tuy nhiên, đến BLDS năm 2015, đăng ký được nhìn nhận dưới góc
độ là phương thức để biện pháp bảo đảm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba
(khoản 1 Điều 297). Cách tiếp cận của Bộ luật Dân sự năm 2015 về giá trị pháp lý của
đăng ký biện pháp bảo đảm so với Bộ luật Dân sự năm 2005 chính xác hơn và khoa học
hơn.
Các thỏa thuận dân sự, bao gồm cả thỏa thuận về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân
sự hợp pháp đều có giá trị pháp lý đối với người thứ ba và phải được các chủ thể khác tôn
trọng (Khoản 2 Điều 3 BLDS năm 2015), không phụ thuộc vào việc cam kết, thỏa thuận
đó được hay khơng được đăng ký. Theo đó, trường hợp có nhiều chủ thể cùng có lợi ích
“đối kháng” nhau trên cùng một tài sản bảo đảm thì đăng ký chính là căn cứ xác định lợi
ích của chủ thể nào được ưu tiên bảo vệ trước dựa trên các nguyên tắc quy định tại Điều
308 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Về cơ chế (phương thức) làm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba của
biện pháp bảo đảm
BLDS 2005 chưa quy định cụ thể về các phương thức làm phát sinh hiệu lực đối
kháng với người thứ ba của biện pháp bảo đảm. Tại Khoản 3 Điều 323 BLDS năm 2005
mới chỉ quy định: “Trường hợp giao dịch bảo đảm được đăng ký theo quy định của pháp
luật thì giao dịch bảo đảm đó có giá trị pháp lý đối với người thứ ba, kể từ thời điểm
đăng ký.”. BLDS năm 2015 đã hoàn thiện phương thức làm phát sinh hiệu lực đối kháng
với người thứ ba của biện pháp bảo đảm. Cụ thể, BLDS năm 2015 đã quy định một cách
minh thị về hai phương thức làm phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba của biện
pháp bảo đảm, đó là: nắm giữ (hoặc chiếm giữ) tài sản bảo đảm và đăng ký biện pháp bảo
đảm (Điều 297 BLDS năm 2015).
2. Hợp đồng thế chấp số 1013.2009/HĐTC ngày 07/9/2009 có thuộc trường hợp

phải đăng ký khơng? Vì sao?
Theo đó, hợp đồng thế chấp số 1013.2009/HĐTC ngày 07/9/2009 là hợp đồng thế
chấp tài sản (thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất) để đảm bảo cho các
khoản vay của Công ty V tại Ngân hàng với số tiền tối đa 06 tỷ đồng nên thuộc trường
hợp phải đăng kí, căn cứ theo Điểm c Khoản 1, Điều 2, Nghị định số 08/2000/NĐ-CP về

đăng kí giao dịch đảm bảo: “Việc cầm cố, thế chấp một tài sản để bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ;”


Bên cạnh đó, BLDS năm 2015 có quy định về đăng kí bảo đảm tại khoản 1 Điều
298: “Biện pháp bảo đảm được đăng kí theo thỏa thuận hoặc theo quy định của luật. Việc
đăng kí là điều kiện để giao dịch bảo đảm có hiệu lực chỉ trong trường hợp có luật định”.
Theo đó, biện pháp bảo đảm phải được đăng kí theo thỏa thuận hoặc theo quy định của
luật. Hợp đồng thế chấp tài sản ngày 7/9/2009 là biện pháp bảo đảm nghĩa vụ thế chấp tài
sản nên cần phải đăng kí nhằm để giao dịch bảo đảm có hiệu lực.
3. Hợp đồng thế chấp số 07/9/2009 đã được đăng ký phù hợp với quy định

không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
Hợp đồng thế chấp số 07/9/2009 đã được đăng kí phù hợp với quy định.
Tại phần “Nhận thấy” của Bản án đã cho câu trả lời, cụ thể như sau:
“Xét Đơn yêu cầu đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất đề
ngày 30/9/2009, có chữ ký của ơng Q, bà V. Tại Kết luận giám định số 118/C54-P5 ngày
28/5/2018, Viện khoa học hình sự tổng cục cảnh sát đã kết luận chữ ký và chữ viết ở phần
“Bên thế chấp” không phải là chữ ký và chữ viết của ông Q, bà V.
Như vậy, ông Q bà V đã xác nhận chữ ký của mình tại hợp đồng thế chấp quyền sử
dụng đất và tài sản gắn liền với đất của bên thứ ba ngày 07/9/2009. Tòa án sơ thẩm với
nhận định hợp đồng thế chấp các bên có ký nhưng đơn yêu cầu đăng ký thế chấp ngày
30/9/2009 thì khơng phải chữ ký của bên thế chấp nên chưa phát sinh hiệu lực là khơng
đúng. Bởi vì, tại thời điểm làm thủ tục đăng ký thế chấp ngày 30/9/2009 thì Thơng tư số
05/TTLB-BTP-BTNMT ngày 16/6/2005 đang có hiệu lực, tại Điều 4 về người yêu cầu
đăng ký có quy định “người yêu cầu đăng ký là một bên trong các bên hoặc các bên ký
hợp đồng thế chấp, Bảo lãnh" chỉ đến ngày 01/3/2010 thì mới có Thông tư số
06/2010/TTLT-BTP-BTNMT và tại Điều 1 mà Thông tư số 06 mới có quy định là khi đăng
ký thế chấp mới (lần đầu) thì các bên phải ký cịn đăng ký thay đổi, bổ sung thì chỉ cần
một bên. Như vậy, tại thời điểm ngày 30/9/2009 chỉ cần một bên là bên thế chấp hoặc bên

nhận thế chấp, bảo lãnh ký là được. Mà theo đơn yêu cầu đăng ký thế chấp ngày
30/9/2009 thì bên nhận thế chấp là Ngân hàng có ký đóng dấu vào đơn này nên Đơn
đăng ký vẫn đúng quy định và phát sinh hiệu lực.”
4. Theo Tồ án, nếu khơng được đăng ký, hợp đồng thế chấp số 07/9/2009 có

vơ hiệu khơng? Vì sao?
Tại phần “Nhận thấy” của bản án, Tòa án đã nhận định rằng: “Khi đăng ký hợp lệ
thì chỉ phát sinh quyền ưu tiên xử lý tài sản thế chấp chứ không phải sẽ vô hiệu hợp đồng
thế chấp do chưa đăng ký giao dịch đảm bảo như phía gia đình ông Q bà V đề nghị (Điều
323 Bộ luật dân sự năm 2005).”
Như vậy, Tòa án đã xác định việc phát sinh quyền ưu tiên xử lý tài sản chỉ khi việc
đăng kí biện pháp bảo đảm có hiệu lực theo pháp luật, tức là một khi biện pháp bảo đảm
khơng được đăng ký thì hợp đồng đó sẽ khơng có hiệu lực, đồng nghĩa với việc biện pháp
bảo đảm này sẽ khơng có giá trị pháp lý đối với các bên trong giao dịch bảo đảm.


Do đó, theo Tịa án, nếu khơng được đăng ký biện pháp đảm bảo thì hợp đồng thế
chấp số 07/9/2009 sẽ bị vơ hiệu.
5. Hướng của Tồ án như trong câu hỏi trên có thuyết phục khơng? Vì sao?

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 3 của Nghị định số 102/2017/NĐ-CP quy định:
“1. Đăng ký biện pháp bảo đảm là việc cơ quan đăng ký ghi vào sổ đăng ký hoặc
nhập vào cơ sở dữ liệu về việc bên bảo đảm dùng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
đối với bên nhận bảo đảm;”
Theo đó, thơng qua việc đăng ký biện pháp bảo đảm, Nhà nước sẽ công nhận một
tình trạng đã được bảo đảm những nghĩa vụ dân sự nhất định từ đó có thể xác định được
thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm đối với các chủ nợ có bảo đảm bằng
một tài sản.
Căn cứ vào Khoản 1 Điều 298 BLDS năm 2015 quy định:
“1. Biện pháp bảo đảm được đăng ký theo thỏa thuận hoặc theo quy định của luật.

Việc đăng ký là điều kiện để giao dịch bảo đảm có hiệu lực chỉ trong trường hợp
luật có quy định”.
Theo đó, do hợp đồng thế chấp số 1013.2009/HĐTC ngày 07/9/2009 thuộc loại
hợp đồng cần phải được đăng kí theo quy định tại Khoản 1, Điều 2, Nghị định số
08/2000/NĐ-CP về đăng kí giao dịch đảm bảo nên hợp đồng thế chấp trên chỉ có hiệu lực
khi được đăng kí biện pháp đảm bảo theo đúng quy định của pháp luật.
Hướng của Tịa án trong câu hỏi trên là hồn tồn thuyết phục vì đối với giao dịch
bảo đảm bắt buộc phải đăng ký như hợp đồng thế chấp số 1013.2009/HĐTC ngày
07/9/2009 thì việc đăng ký vừa là cơ sở để xác định các điều kiện có hiệu lực của giao
dịch vừa là căn cứ để xác định thứ tự ưu tiên thanh toán theo thứ tự đăng ký khi xử lý tài
sản bảo đảm. Ông Q, bà V tự nguyện dùng tài sản của mình cho khoản vay, thừa nhận chữ
kí trong hợp đồng. Sau ký kết hợp đồng được cơng chứng theo đầy đủ trình tự theo quy
định. Đảm bảo đúng trình tự và phù hợp với quy định của pháp luật. Nên hợp đồng có
hiệu lực pháp lý là phù hợp.
 Vấn đề 3: đặt cọc

*Tóm tắt Quyết định số 49/2018/KDTM-GĐT ngày 18/10/2018:
Quyết định số 49/2018/KDTM-GĐT giải quyết tranh chấp về giao dịch tiền đặt cọc
giữ nguyên đơn là Cơng ty Cổ phần TV-TM-DV Địa ốc Hồng Qn và bị đơn là Công ty
TNHH Thương mại và Xây dựng Sơn Long Thuận.
Diễn biến vụ việc: Ngày 20/02/2008, Công ty Cổ phần du lịch Ninh Thuận ký kết
biên bản bán cổ phiếu thuộc sở hữu của SCIC cho công ty Cổ phần TV-TM-DV Địa ốc
Hồng Qn. Cơng ty Cổ phần TV-TM-DV Địa ốc Hoàng Quân đã chuyển 1 tỷ đồng tiền
đặt cọc mua cổ phiếu và công ty Cổ phần du lịch Ninh Thuận tại Ngân hàng Thương mại
cổ phần Đầu tư và phát triển Việt Nam – chi nhánh tỉnh Ninh Thuận. Ngân hàng đã trích


tài khoản này để thu nợ vay của công ty Cổ phần du lịch Ninh Thuận. Thỏa thuận mua
bán không thành. Công ty Cổ phần du lịch Ninh Thuận đổi thành Công ty TNHH du lịch
Ninh Thuận và sáp nhập vào Công ty TNHH Thương mại và Xây dựng Sơn Long Thuận.

Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Công ty TNHH Thương mại và Xây dựng Sơn Long
Thuận hoặc Ngân hàng hồn trả 1 tỷ đồng, khơng u cầu lãi suất.
Hướng giải quyết: Tòa án sơ thẩm và phúc thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện và
buộc Ngân hàng phải trả 1 tỷ đồng. Quyết định của Tòa giám đốc thẩm: Giữ nguyên bản
án sơ thẩm và phúc thẩm.
*Tóm tắt bản án số 26/2019/DS-PT tranh chấp về hợp đồng đặt cọc của Tồ án
nhân dân tỉnh Quảng Ninh:
Ngun đơn: Ơng Vũ Đình P.
Bị đơn: Ơng Trần Xn I.
Ơng P và ơng I có mối quan hệ quen biết nhau. Do đó ông P biết ông I có người
thân ở Mỹ mua được xe ô tô nhập khẩu từ Mỹ về Việt Nam nên đã nhờ ông I mua hộ.
Ngày 24/8/2016, ông P và ông I đã ký văn bản thoả thuận đặt cọc tiền mua ô tô với nội
dung bao gồm thông tin về chiếc xe và số tiền đặt cọc là 450.000.000 đồng. Thoả thuận
quy định thời gian giao xe là trước tết dương lịch 2017. Nhưng sau đó do gặp trục trặc
nên ông I không thể giao xe đúng hạn cho ông I. Tháng 11/2017, hai ông tiếp tục ký biên
bản cam kết, gia hạn thời hạn bàn giao xe, sẽ làm thủ tục mua bán và bàn giao xe vào
ngày 08/01/2018. Theo lời khai của phía bị đơn, 03 ngày sau khi ký các giấy tờ trên thì
ơng I đã trả lại 450.000.000 đồng cho ông P và ông P đã nhận lại số tiền cọc này. Tuy
nhiên, sau đó ơng P lại khởi kiện địi số tiền phạt cọc 450.000.000 đồng từ ông I.
Hướng giải quyết của Toà sơ thẩm: Toà án nhân dân thành phố Hạ Long quyết
định tuyên bố không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ơng Trần Xn I.
Hướng giải quyết của Tồ phúc thẩm: Người đại diện theo uỷ quyền của nguyên
đơn và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn cho rằng Toà án cấp sơ
thẩm đã vi phạm nguyên trọng thủ tục tố tụng. Phía đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh
Quảng Ninh bày tỏ quan điểm về thủ tục tố tụng đã chấp hành đúng theo pháp luật, ngồi
ra cịn cho rằng giao dịch này bị vơ hiệu do cả hai bên đều có lỗi. Vì vậy, đơn kháng cáo
của ngun đơn khơng được chấp nhận, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Hướng giải quyết của Toà án nhân dân tối cao: Toà án nhân dân tối cao phân tích
thủ tục giải quyết vụ án không vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và xác định giao dịch
giữa ông P và ông I vô hiệu do hợp đồng đặt cọc không xem xét các quy định pháp luật về

điều kiện mua bán xe ô tơ nhập khẩu. Quyết định của Tồ án nhân dân tối cao là không
chấp nhận đơn kháng cáo của nguyên đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
*Tóm tắt Án lệ số 25/2018/AL:
Nguyên đơn: Ông Phan Thanh L.


Bị đơn: Bà Trương Hồng Ngọc H.
Ngày 12-5-2009, bà H thỏa thuận bán cho ông L căn nhà số 1222C (số mới là
25/2) đường 43, phường T, quận H, Thành phố Hồ Chí Minh. Sau khi thỏa thuận, ơng L
đặt cọc cho bà H 2.000.000.000 đồng. Trong hợp đồng đã nêu rõ thời hạn là 30 ngày sau
khi ký hợp đồng bà H phải hoàn tất các thủ tục liên quan đến việc bán căn nhà, nhưng đến
hạn ngày 12/6/2009 bà H lại không thể thực hiện đúng như thoả thuận. Ngày 01-7-2009,
bà H gửi thư yêu cầu ông L gia hạn 60 ngày. Ngày 07-7-2009, ông L gửi thư trả lời không
đồng ý cho bà H gia hạn và yêu cầu bà H trả lại tiền cọc cùng với tiền phạt cọc như đã
thỏa thuận. Sau 05 tháng vi phạm hợp đồng, bà H vẫn không thực hiện đúng cam kết, ông
L khởi kiện yêu cầu bà H phải hoàn trả tiền cọc và phạt cọc, tổng cộng 4.000.000.000
đồng
Hướng giải quyết của Toà sơ thẩm: Toà án nhân dân quận Phú Nhuận chấp nhận
yêu cầu khởi kiện của ông Trương Thanh L và buộc bà Trương Hồng Ngọc H trả cho ơng
L 4.000.000.000 đồng.
Hướng giải quyết của Tồ phúc thẩm: Giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Hướng giải quyết của Toà án nhân dân tối cao: Huỷ bản án phúc thẩm và bản án
sơ thẩm, giao hồ sơ cho Toà án nhân dân quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh xét
xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
1. Khác biệt cơ bản giữa đặt cọc và cầm cố, đặt cọc và thế chấp
* Đặt cọc và cầm cố:
Thứ nhất, tài sản dùng để đảm bảo trong đặt cọc theo Khoản 1 Điều 328 BLDS
2015 là “tiền hoặc kim quý, đá quý hoặc vật có giá trị khác”. Trong khi đó, tại Điều 309
BLDS 2015 về việc cầm cố, pháp luật không giới hạn về loại tài sản được sử dụng để đảm
bảo.

Thứ hai, cầm cố chỉ được sử dụng để “đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự”, trong
khi đó đặt cọc thường được sử dụng để “đảm bảo giao kết hoặc thực hiện hợp đồng dân
sự”.4
Thứ ba, việc xử lý tài sản đặt cọc không cần phải qua bán đấu giá, trong khi đó
việc xử lý tài sản cầm cố phải có tiến hành theo thủ tục bán đấu giá nếu khơng có thoả
thuận khác (khoản 2 Điều 303 BLDS 2015).
Thứ tư, đặt cọc bất cứ bên nào vi phạm đều bị phạt cọc, trong khi đó cầm cố thì
bên cầm cố bảo đảm trước bên nhận cầm cố.
* Đặt cọc và thế chấp:
Đặt cọc

Thế chấp

Tiêu chí
4 Đỗ Văn Đại, Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức, tr. 301.


Khái niệm

Chủ thể

Là việc một bên giao cho bên kia
một khoản tiền hoặc kim khí q,
đá q hoặc vật có giá trị khác
trong một thời hạn để đảm bảo
giao kết hoặc thực hiện hợp đồng
dân sự (Khoản 1 Điều 328 BLDS
2015).

Là việc một bên (bên thế chấp) dùng

tài sản thuộc sở hữu của mình để
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự
với bên kia (bên nhận thế chấp) và
không chuyển giao tài sản đó cho
bên nhận thế chấp (khoản 1 Điều
317 BLDS 2015).

Bên đặt cọc là bên dùng tiền hoặc
vật có tài sản khác của mình giao
cho bên kia giữ một thời gian Bên thế chấp, bên nhận thế chấp và
nhất định để đảm bảo giao kết và có thể có thêm bên thứ ba giữ tài sản
thực hiện hợp đồng và bên nhận thế chấp.
đặt cọc là bên nhận tiền hoặc tài
sản khác.

Động sản, bất động sản.
Tài sản được hình thành trong tương
lai.
Tài sản

Có thể là tiền hoặc kim khí quý, Tài sản đang cho thuê cũng như hoa
đá quý hoặc vật có giá trị khác lợi, lợi tức thu được từ việc cho thuê
(khoản 1 Điều 328 BLDS 2015). tài sản (nếu pháp luật có quy định và
các bên thỏa thuận).
Tài sản thế chấp được bảo hiểm thì
khoản tiền bảo hiểm cũng có thể
được thế chấp.
(Điều 318 BLDS 20115)

Hình thức


Khơng cần lập bằng văn bản Phải lập thành văn bản. trong trường
nhưng phải nêu rõ số tiền, vật hợp pháp luật quy định thì văn bản
giao cho bên nhận đặt cọc
bảo lãnh phải được công chứng,
chứng thực (đăng kí giao dịch bảo
đảm).


2. Thay đổi giữa BLDS 2015 và BLDS 2005 về đặt cọc.
Khoản 1 điều 358 BLDS 2005 quy định "Việc đặt cọc phải được lập thành văn
bản." Thỏa thuận đặt cọc có thể được thể hiện bằng một văn bản riêng nhưng cũng có thể
được thể hiện bằng một điều khoản trong hợp đồng chính thức. Đối với đặt cọc nhằm giao
kết hợp đồng thì việc đặt cọc phải được thể hiện bằng văn bản riêng vì tại thời điểm giao
kết thỏa thuận đặt cọc thì hợp đồng chưa được hình thành. Bên cạnh đó, pháp luật cũng
khơng quy định thỏa thuận đặt cọc bắt buộc phải công chứng, chứng thực mà tùy vào sự
thỏa thuận của các bên. Như vậy, nếu hai bên chủ thể thỏa thuận đặt cọc vào thời điểm Bộ
luật dân sự năm 2005 điều chỉnh thì thỏa thuận phải được lập thành văn bản, đối với thỏa
thuận bằng miệng thì sẽ khơng có giá trị pháp lý. Còn tại thời điểm BLDS 2015 điều
chỉnh đã bỏ đi phần quy định này thì thỏa thuận đặt cọc có thể xác lập bằng bất cứ hình
thức nào.
3. Theo BLDS, khi nào bên đặt cọc mất cọc, bên nhận cọc bị phạt cọc?
Căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 328 BLDS 2015:
Bên đặt cọc mất cọc "nếu bên đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì
tài sản đặt cọc thuộc về bên nhận đặt cọc" trừ trường hợp có thoả thuận khác.
Bên nhận cọc bị phạt cọc "nếu bên nhận đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện
hợp đồng thì phải trả cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc và một khoản tiền tương đương giá
trị tài sản đặt cọc" trừ trường hợp có thoả thuận khác.
4. Nếu hợp đồng được đặt cọc khơng được giao kết, thực hiện vì lý do khách
quan, bên nhận cọc có nghĩa vụ trả lại tài sản đặt cọc cho bên đặt cọc không? Vì

sao?
Căn cứ theo khoản 2 Điều 328 BLDS 2015 quy định "Trong trường hợp hợp đồng
dân sự được giao kết, thực hiện thì tài sản đặt cọc được trả lại cho bên đặt cọc hoặc được
trừ để thực hiện nghĩa vụ trả tiền; nếu bên đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp
đồng dân sự thì tài sản đặt cọc thuộc về bên nhận đặt cọc; nếu bên nhận đặt cọc từ chối
việc giao kết, thực hiện hợp đồng dân sự thì phải trả cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc và
một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc, trừ trường hợp có thoả thuận khác."
các cá nhân, pháp nhân phải chịu trách nhiệm về việc không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng nghĩa vụ dân sự. Tuy nhiên, trường hợp bên đặt cọc hoặc bên nhận đặt cọc vi
phạm do nguyên nhân bất khả kháng nào đó thì bên vi phạm khơng bị phạt cọc hay mất
cọc. Do vậy, nếu hợp đồng được đặt cọc khơng được giao kết, thực hiện vì lý do khách
quan, bên nhận cọc phải có nghĩa vụ trả lại tài sản đặt cọc cho bên đặt cọc.
* Đối với Quyết định số 49
5. Theo Quyết định được bình luận, bên đặt cọc đã chuyển tài sản đặt cọc cho

bên nhận cọc như thế nào?
Trong nhận định của Tòa án: Ngày 20/02/2008, giữa Công ty Cổ phần du lịch Ninh
Thuận (gọi tắt là Công ty Ninh Thuận) và Công ty Cổ phần TV-TM-DV Địa ốc Hoàng


Qn (gọi tắt là Cơng ty Hồng Qn) ký kết Biên bản thỏa thuận về việc Công ty Ninh
Thuận bán cho Cơng ty Hồng Qn cổ phần thuộc sở hữu của Tổng công ty Đầu tư và
Kinh doanh vốn Nhà nước (gọi tắt là SCIC) tại Công ty Ninh Thuận 39.192 cổ phần mệnh
giá 100.000 đồng/cổ phiếu, tổng giá trị 3.919.200.000 đồng. Cơng ty Hồng Qn đặt cọc
trước 1.000.000.000 đồng.
Ngày 22/02/2008, Cơng ty Hồng Qn đã chuyển số tiền đặt cọc vào tài khoản
của Công ty Ninh Thuận mở tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam chi
nhánh tỉnh Ninh Thuận theo ủy nhiệm chi ngày 22/02/2008.

6. Theo Tịa giám đốc thẩm trong Quyết định được bình luận, tài sản đặt cọc

còn thuộc sở hữu của bên đặt cọc khơng? Vì sao?
Theo Tịa giám đốc thẩm trong Quyết định được bình luận, tài sản đặt cọc thuộc sở
hữu của bên đặt cọc. Vì số tiền 1.000.000.000 đồng đặt cọc chưa thuộc quyền sở hữu của
công ty Ninh Thuận, q trình mua bán nợ giữa Cơng ty TNHH Thương mại - Xây dựng
Sơn Long Thuận với Công ty Ninh Thuận khơng có văn bản cho thấy bàn giao số tiền đặt
cọc 1.000.000.000 đồng mua bán cổ phần từ Cơng ty Hồng Qn theo quy định tại
khoản 1 Điều 328 BLDS 2015 về đặt cọc:
“1. Đặt cọc là việc một bên (sau đây gọi là bên đặt cọc) giao cho bên kia (sau đây
gọi là bên nhận đặt cọc) một khoản tiền hoặc kim khí quý, đá quý hoặc vật có giá trị khác
(sau đây gọi chung là tài sản đặt cọc) trong một thời hạn để bảo đảm giao kết hoặc thực
hiện hợp đồng.
2. Trường hợp hợp đồng được giao kết, thực hiện thì tài sản đặt cọc được trả lại

cho bên đặt cọc hoặc được trừ để thực hiện nghĩa vụ trả tiền; nếu bên đặt cọc từ chối
việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì tài sản đặt cọc thuộc về bên nhận đặt cọc; nếu bên
nhận đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng thì phải trả cho bên đặt cọc tài sản
đặt cọc và một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc, trừ trường hợp có thỏa
thuận khác.”

7. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm liên
quan đến quyền sở hữu tài sản đặt cọc
Hướng giải quyết của Tòa giám đốc thẩm liên quan đến quyền sở hữu tài sản đặt
cọc là hợp lý. Cơng ty Hồng Qn đã chuyển 1 tỷ đồng vào tài khoản Công ty Ninh
Thuận mở tại Ngân hàng. Ngân hàng đã trích tài khoản để cấn trừ vào số công nợ quá hạn
và lãi suất của Công ty Ninh Thuận. Số tiền 1 tỷ đồng đặt cọc cịn chưa thuộc quyền sở
hữu của Cơng ty Ninh Thuận theo quy định tại Khoản 1 Điều 328 BLDS 2015 tức là tài
sản vẫn thuộc sở hữu của bên đặt cọc. Việc Ngân hàng trích số tiền đặt cọc để thu nợ vay
là khơng có căn cứ pháp luật. Mặt khác, q trình mua bán giữa Cơng ty TNHH Thương
mại - Xây dựng Sơn Long Thuận với Công ty Ninh Thuận khơng có văn bản nào bàn giao



số tiền đặt cọc 1 tỷ đồng mua bán cổ phần từ Cơng ty Hồng Qn. Tài sản đặt cọc được
giao cho bên nhận cọc (Công ty Ninh Thuận) chỉ để đảm bảo cho việc thực hiện hợp đồng
mua bán cổ phần thuộc sở hữu của Tổng Công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước
giữa Cơng ty Hồng Quân và Công ty Ninh Thuận nên số tiền cọc 1.000.000.000 đồng
vẫn thuộc sở hữu của bên đặt cọc (Công ty Hồng Qn). Tịa án u cầu Ngân hàng phải
hồn trả 1 tỷ đồng cho Cơng ty Hồng Qn là đúng quy định pháp luật.
* Đối với Án lệ số 25/2018/AL
8. Đoạn nào cho thấy Toà án đã áp dụng Án lệ số 25/2018/AL?
Phần “Nhận định” của Tồ án:
“Vì ơng I khơng có xe ơ tơ để bán và cũng khơng có đủ điều kiện nhập khẩu xe để
bán cho ông P; ông P biết rõ điều này và không có tài liệu, chứng cứ gì chứng minh rằng
ơng I có khả năng bán xe ơ tơ cho ơng P, nhưng cố tình từ chối thực hiện. Do đó, việc ông
I không thực hiện được thỏa thuận là do yếu tố khách quan.
Căn cứ theo Án lệ số 25/2018/AL được Hội đồng Thẩm phán Tịa án nhân dân tối
cao thơng qua ngày 17 tháng 10 năm 2018 và được công bố theo Quyết định số 269/QĐCA ngày 06 tháng 11 năm 2018 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao: “Trường hợp
bên nhận đặt cọc không thể thực hiện đúng cam kết là do yếu tố khách quan và bên nhận
đặt cọc khơng phải chịu phạt cọc”.
9. Việc Tồ án áp dụng Án lệ số 25/2018/AL vào hoàn cảnh trong vụ việc này
có thuyết phục khơng? Vì sao?
Căn cứ theo Án lệ số 25/2018/AL:“Trường hợp bên nhận đặt cọc không thể thực
hiện đúng cam kết là do yếu tố khách quan và bên nhận đặt cọc không phải chịu phạt
cọc”.
Đối với trường hợp trong Bản án số 26, thực tế ông I cũng đã từng nhờ em gái mua
được ô tô nhập khẩu từ Mỹ về Việt Nam để sử dụng (có thể dưới dạng quà tặng, quà
biếu), nên ông mới đồng ý mua hộ ông P. Tuy nhiên việc mua xe lại hồn tồn phụ thuộc
vào chính sách quản lý của Nhà nước ở từng thời điểm và người thân bên Mỹ cũng như
Đại lý nhập khẩu. Ngoài ra, ơng I khơng có xe ơ tơ để bán và cũng khơng có đủ điều kiện
nhập khẩu xe để bán cho ông P, ông P biết rõ điều này nhưng cố tình từ chối thực hiện. Do
đó, việc ơng I không thực hiện được thỏa thuận là do yếu tố khách quan. Và vì trường hợp

trên thuộc trường hợp bên nhận đặt cọc không thể thực hiện đúng cam kết là do yếu tố
khách quan phù hợp với Án lệ số 25/2018/AL nên việc Toà án áp dụng Án lệ số
25/2018/AL vào hoàn cảnh trong vụ việc này là hồn tồn thuyết phục.
10. Việc Tồ án “khơng chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông P, về việc yêu
cầu ông I phải trả số tiền phạt cọc là 450.000.000đ” có phù hợp với Án lệ số
25/2018/AL khơng? Vì sao?
Việc Tồ án “khơng chấp nhận u cầu khởi kiện của ông P về việc yêu cầu ông I
phải trả số tiền phạt cọc là 450.000.000đ” là phù hợp với Án lệ số 25/2018/AL. Bản án số


26 thuộc trường hợp bên nhận đặt cọc không thể thực hiện đúng cam kết là do yếu tố
khách quan nên cần xác định bên nhận đặt cọc (ông I) khơng phải chịu phạt cọc. Xét đến
khía cạnh khác ngồi việc xác định đây là giao dịch vô hiệu, ta thấy tình tiết của cả hai vụ
việc có phần giống nhau. Phía nguyên đơn đều khởi kiện yêu cầu phía bị đơn trả lại tiền
phạt cọc vì khơng thực hiện đúng hợp đồng, nhưng lý do của phía bị đơn đều vì những lý
do khách quan nên khơng thể làm đúng như thoả thuận. Xuất phát từ khái niệm và giá trị
pháp lý của án lệ nhằm tạo ra các nguyên tắc và làm nền tảng giải quyết các vụ việc tương
tự xảy ra trong tương lai nên việc Toà án áp dụng Án lệ số 25/2018/AL để giải quyết tranh
chấp giữa ông I và ông P là hợp lý.

 Vấn đề 4: Bảo lãnh

* Tóm tắt quyết định số 02/2013/KDTM-GĐT ngày 08/1/2013 của Hội đồng
thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
Nội dung vụ án:
Ngày 26/9/2006, Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương ký Hợp đồng tín dụng cho
Doanh nghiệp tư nhân Đại Lộc Tỉnh (do bà Tỉnh làm chủ) vay 900.000.000 đồng; với tài
sản bảo đảm cho khoản vay là quyền sử dụng đất do vợ chồng ông Miễn và bà Cà đem
thế chấp cho Quỹ tín dụng. Hợp đồng này thông qua bà Trang để thực hiện và ơng Miễn
bà Cà đều nói rằng khơng quen biết với bà Tĩnh cũng như doanh nghiệp tư nhân Đại Lộc.

Sau khi vay tiền, bà Tỉnh chỉ mới trả được 270.000.000 đồng tiền gốc. Ngày 27/11/2007,
Quỹ tín dụng khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc bà Tỉnh phải trả tiền gốc lẫn lãi, nếu khơng
trả được thì buộc người bảo lãnh có trách nhiệm với số nợ. Cả ơng Miễn và bà Cà đều
không đồng ý với quyết định này.
Hướng giải quyết của tịa án:
+ Tịa sơ thẩm:
• Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Quỹ tín dụng. Buộc bà Tỉnh có trách nhiệm thanh tốn

cho Quỹ tín dụng số tiền là 832.785.000 đồng. Trong đó số tiền nợ gốc là 630.000.000
đồng, lãi là 202.875.500 đồng.
• Số tiền này được đảm bảo bằng giấy chứng nhận quyến sử dụng đất do ơng Trần Văn Miễn
đứng tên.
• Kể từ ngày có đơn thi hành án của Quỹ tín dụng thì bà Tỉnh còn phải chịu lãi suất theo mức
lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước tương ứng với thời gian và số tiền chưa thi hành
án.
+ Tòa phúc thẩm: giữ nguyên bản án sơ thẩm.


+ Tòa giám đốc thẩm: Hủy bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm và sơ thẩm.
Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy
định pháp luật.
*Tóm tắt Quyết định số 968/2011/DS-GĐT ngày 27/12/2011 của tòa án nhân
dân tối cao
Nội dung vụ án: Tranh chấp hợp đồng bảo lãnh giữa nguyên đơn là bà Vũ Thị
Hồng Nhung và bị đơn là bà Nguyễn Thị Thắng.
Diễn biến vụ việc: Ngày 30/11/2005, bà Vũ Thị Hồng Nhung cho bà Nguyễn Thị
Mát vay 500.000.000 đồng, với lãi suất 1,2% tháng. Các bên thảo thuận trả lãi hàng
tháng còn tiền gốc sẽ trả vào tháng 10 năm 2005 và lập giấy chứng nhận có sự bảo lãnh
của vợ chồng bà Nguyễn Thị Thắng. Sau khi vay tiền, bà Mát trả được 8 tháng tiền lãi sau
đó bà Mát khơng trả cả gốc và lãi nên ngày 02/04/2007 bà Nhung khởi kiện yêu cầu bà

Mát phải trả tiền cho bà.
Hướng giải quyết của Tòa án:
+ Tòa sơ thẩm (lần 1): Quyết định cho bà Mát và bà Thắng cùng liên đới chịu
trách nhiệm trả tiền cho bà Nhung.
+ Tòa phúc thẩm (lần 1): Hủy bản án sơ thẩm và nhận xét rằng quan hệ vay tiền
và quan hệ bảo lãnh là hai quan hệ độc lập nên bà Nhung có quyền khởi kiện bà Mát trả
tiền hoặc bà Thắng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh trả nợ thay cho bà Mát.
+ Tòa sơ thẩm và tòa phúc thẩm (lần 2) buộc bà Thắng phải thực hiện nghĩa vụ
thay cho bà Mát.
+ Tòa giám đốc thẩm: Quyết định hủy cả bán án sơ thẩm và phúc thẩm, cho rằng
trước hết cần xác định bà Mát là người thực hiện nghĩa vụ dân sự của mình với bà Nhung,
nếu bà Mát khơng có khả năng thực hiện nghĩa vụ dân sự hoặc chỉ thực hiện được một
phần thì phần khơng thực hiện được bà Thắng và ơng Ân mới có trách nhiện thực hiện
thay.
1. Những đặc trưng của bảo lãnh
- Điều kiện làm phát sinh nghĩa vụ của các bên bảo lãnh theo Điều 335 BLDS 2015 như sau:

+ Khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc
thực hiện không đúng nghĩa vụ.
+ Bên được bảo lãnh khơng có khả năng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.
Phạm vi bảo lãnh: “Bên bảo lãnh có thể cam kết bảo lãnh một phần hoặc toàn bộ
nghĩa vụ cho bên được bảo lãnh” - Khoản 1 Điều 335 BLDS năm 2015.
- Mối quan hệ với nghĩa vụ chính:


+ Bảo lãnh là biện pháp bổ trợ cho một nghĩa vụ chính. Vì thế, khi ta chưa chứng
minh rõ ràng là nghĩa vụ chính khơng được thực hiện đầy đủ thì bên bảo lãnh chưa phải
thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.
- Quan hệ giữa bên bảo lãnh và bên nhận bảo lãnh (Điều 339 BLDS 2015):


+ Bên nhận bảo lãnh có quyền yêu cầu bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo
lãnh trong trường hợp bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng
nghĩa vụ của mình.
+ Bên nhận bảo lãnh khơng được u cầu bên bảo lãnh thực hiện thay nghĩa vụ cho
bên được bảo lãnh khi nghĩa vụ đó chưa đến hạn
+ Bên bảo lãnh sẽ không cần thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh trong trường hợp bên
nhận bảo lãnh có thể bù trừ nghĩa vụ với bên được bảo lãnh.
- Quan hệ giữa bên bảo lãnh và bên được bảo lãnh căn cứ theo Điều 337 và Điều 340 BLDS

2015 thì:
+ Bên bảo lãnh được hưởng thù lao nếu như bên bảo lãnh và bên được bảo lãnh có
thỏa thuận với nhau.
+ Bên bảo lãnh có quyền yêu cầu bên được bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ đối với
mình trong phạm vi nghĩa vụ bảo lãnh thực hiện, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
- Chấm dứt việc bảo lãnh theo quy định tại Điều 343 BLDS 2015

“1. Nghĩa vụ được bảo lãnh chấm dứt;
2. Việc bảo lãnh được hủy bỏ hoặc được thay thế bằng biện pháp bảo đảm khác;
3. Bên bảo lãnh đã thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh;
4. Theo thỏa thuận của các bên.”

2. Những thay đổi của BLDS 2005 với BLDS 2015 về bảo lãnh
- Thứ nhất, về khái niệm bảo lãnh
+ BLDS 2005 quy định về bảo lãnh ở Điều 361 như sau:
“Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có
quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ
(sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ. Các bên cũng có thể thoả thuận về việc
bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh khơng có khả năng thực
hiện nghĩa vụ của mình.”

+ Điều 335 BLDS 2015 quy định về bảo lãnh:
“1. Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có
quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ


(sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên được
bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.
2. Các bên có thể thỏa thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ thay
cho bên được bảo lãnh trong trường hợp bên được bảo lãnh khơng có khả năng thực hiện
nghĩa vụ bảo lãnh.”
Ta có thể thấy được quy định về bảo lãnh trong BLDS 2015 được chia thành hai
điều khoản thể hiện rõ ràng vấn đề hơn, cịn ở BLDS 2005 được gơm lại thành một điều
duy nhất. Tại khoản 1 Điều 335 BLDS 2015 cụm từ mới được thêm vào là “thực hiện
nghĩa vụ” vào phía sau cụm từ “nếu khi đến thời hạn”, mục đích của việc thêm vào làm
sáng tỏ nội dung của luật, tạo ra nhiều thuận lợi trong việc xét xử, hạn chế tối đa những
trường hợp hiểu sai và áp dụng không đúng. Tuy nhiên việc thay đổi này chỉ mang tính kỹ
thuật và khơng dẫn đến những thay đổi về mặt nội dung5.
- Thứ hai, về hình thức bảo lãnh
+ Điều 362 BLDS 2005 quy định về hình thức bảo lãnh:
“Đối với Việc bảo lãnh phải được lập thành văn bản, có thể lập thành văn bản
riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính. Trong trường hợp pháp luật có quy định thì văn bản
bảo lãnh phải được công chứng hoặc chứng thực.”
+ Ở BLDS 2015 bỏ quy định này, với mong muốn giúp cho các bên có sự linh hoạt
hơn, chủ động hơn trong việc thiết lập quan hệ bảo lãnh. Các bên có thể tự do lựa chọn
hình thức là văn bản, bằng lời nói, bằng hành vi cụ thể, trừ trường hợp pháp luật bắt buộc
phải được thể hiện bằng văn bản có cơng chứng, chứng thực, đăng ký thì phải tn theo
quy định đó. Đây là điểm mới rất tích cực của BLDS 2015 so với BLDS 2005.
- Thứ ba, về phạm vi bảo lãnh
+ Điều 363 BLDS 2005 về phạm vi bảo lãnh:
“Bên bảo lãnh có thể cam kết bảo lãnh một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ cho bên

được bảo lãnh.
Nghĩa vụ bảo lãnh bao gồm cả tiền lãi trên nợ gốc, tiền phạt, tiền bồi thường thiệt
hại, trừ trường hợp có thoả thuận khác.”
+ Điều 336 BLDS 2015 quy định về phạm vi bảo lãnh như sau:
“1. Bên bảo lãnh có thể cam kết bảo lãnh một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ cho bên
được bảo lãnh.
2. Nghĩa vụ bảo lãnh bao gồm cả tiền lãi trên nợ gốc, tiền phạt, tiền bồi thường
thiệt hại, lãi trên số tiền chậm trả, trừ trường hợp có thoả thuận khác.

5 Đỗ Văn Đại, “Bình luận khoa học những điểm mới của BLDS 2015”, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam (xuất bản lần thứ
hai), tr.337.


3. Các bên có thể thỏa thuận sử dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản để bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.
4. Trường hợp nghĩa vụ được bảo lãnh là nghĩa vụ phát sinh trong tương lai thì
phạm vi bảo lãnh không bao gồm nghĩa vụ phát sinh sau khi người bảo lãnh chết hoặc
pháp nhân bảo lãnh chấm dứt tồn tại.”
Tại khoản 2 Điều 336 BLDS 2015 có mở rộng phạm vi bảo lãnh hơn đó là bao
gồm “cả tiền lãi trên số tiền chậm trả”, những nghĩa vụ bảo lãnh cịn lại thì quy được quy
định giống với BLDS 2005. Qua đó ta có thể thấy được quy định trong BLDS 2015 gần
như hoàn thiện tốt hơn trong việc bảo vệ quyền cũng như lợi ích của bên nhận bảo lãnh.
Khoản 3, 4 ở Điều 336 là những điểm mới được bổ sung trong BLDS 2015. Điển
hình Khoản 3 giữa các bên có thể thỏa thuận với nhau về biện pháp bảo đảm bằng tài sản
trong việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Đây là điểm mới với nhiều ưu điểm nhất định, tạo
cho các bên được tự do lựa chọn, đưa ra quyết định chung, khơng có ràng buộc từ một
phía. Với quy định tại khoản 4 giúp khắc phục đối với những tranh chấp khó giải quyết
đối với trường hợp nghĩa vụ phát sinh trong tương lại.
- Thứ tư, quyền yêu cầu của bên bảo lãnh
+ Điều 367 BLDS 2005 quy định về quyền yêu cầu của bên bảo lãnh: “Khi bên

bảo lãnh đã hồn thành nghĩa vụ thì có quyền u cầu bên được bảo lãnh thực hiện nghĩa
vụ đối với mình trong phạm vi bảo lãnh, nếu khơng có thoả thuận khác”.
+ Điều 340 BLDS 2015: “Bên bảo lãnh có quyền yêu cầu bên được bảo lãnh thực
hiện nghĩa vụ đối với mình trong phạm vi nghĩa vụ bảo lãnh đã thực hiện, trừ trường hợp
có thỏa thuận khác”.
Điều 340 BLDS 2015 nói rằng bên bảo lãnh có quyền yêu cầu bên được bảo lãnh
thực hiện nghĩa vụ đối với mình trong phạm vi nghĩa vụ bảo lãnh đã thực hiện (nghĩa là
thực hiện tới đâu có quyền u cầu hồn trả tới đó), trừ trường hợp có thỏa thuận khác. So
với quy định của luật hiện hành, trước đây bên bảo lãnh chỉ được yêu cầu bên được bảo
lãnh thực hiện nghĩa vụ đối với mình trong phạm vi bảo lãnh, khi bên bảo lãnh đã hoàn
thành nghĩa vụ tại Điều 367 BLDS 2005. Ta có thể thấy thời điểm bên bảo lãnh có quyền
yêu cầu theo quy định của BLDS 2015 là sớm hơn so với quy định, bên bảo lãnh chỉ được
quyền yêu cầu bên được bảo lãnh hoàn trả lại nghĩa vụ mà họ đã thực hiện thay khi họ đã
hoàn thành nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh đối với bên nhận bảo lãnh.
- Thứ năm, miễn thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh:
+ Điều 368 BLDS 2005:
“1. Trong trường hợp bên nhận bảo lãnh miễn việc thực hiện nghĩa vụ cho bên
bảo lãnh thì bên được bảo lãnh vẫn phải thực hiện nghĩa vụ đối với bên nhận bảo lãnh,
trừ trường hợp có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định phải liên đới thực hiện nghĩa vụ
bảo lãnh.


2. Trong trường hợp chỉ một người trong số nhiều người cùng nhận bảo lãnh liên
đới được miễn việc thực hiện phần nghĩa vụ bảo lãnh của mình thì những người khác vẫn
phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của họ”.
+ Điều 341 BLDS 2015 quy định như sau:
“1. Trường hợp bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh mà bên nhận bảo
lãnh miễn việc thực hiện nghĩa vụ cho bên bảo lãnh thì bên được bảo lãnh không phải
thực hiện nghĩa vụ đối với bên nhận bảo lãnh, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc pháp
luật có quy định khác.

2. Trường hợp chỉ một trong số nhiều người cùng bảo lãnh liên đới được miễn việc
thực hiện phần nghĩa vụ bảo lãnh của mình thì những người khác vẫn phải thực hiện
nghĩa vụ bảo lãnh của họ.
3. Trường hợp một trong số những người nhận bảo lãnh liên đới miễn cho bên bảo
lãnh không phải thực hiện phần nghĩa vụ đối với mình thì bên bảo lãnh vẫn phải thực
hiện phần nghĩa vụ còn lại đối với những người nhận bảo lãnh liên đới còn lại”.
Khoản 1 của BLDS hiện hành so với BLDS cũ trước đây thì có những sự thay đổi
đầy mới mẻ khi quy định rằng, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định
khác, nếu bên nhận bảo lãnh đã miễn việc thực hiện nghĩa vụ cho bên bảo lãnh thì bên
được bảo lãnh cũng khơng cịn phải thực hiện nghĩa vụ đối với bên nhận bảo lãnh nữa.
Qua những quy định đó ta thấy được sự hợp lý, phù hợp trong giao kết hợp đồng bảo lãnh
đồng thời thể hiện sự tôn trọng quyền quyết định của các bên nhận bảo lãnh.
Việc bổ sung thêm Khoản 3 trong Điều 341 giúp cụ thể hóa và hồn thiện hơn về
trường hợp nhiều người tham gia trong quan hệ bảo lãnh, ngồi những trường hợp trên ra
thì cịn có những trường hợp nhiều người nhận được bảo lãnh, thực tế thì trường hợp sau
dễ đưa đến tranh chấp nhiều hơn nên việc pháp luật quy định thêm khoản 3 giúp cho việc
giải quyết vấn đề trở nên dễ dàng hơn.
- Thứ sáu, trách nhiệm dân sự của bên bảo lãnh
+ Điều 369 BLDS 2005 quy định về xử lý tài sản của bên bảo lãnh: “Trong trường
hợp đã đến hạn thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh, mà bên bảo lãnh không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì bên bảo lãnh phải đưa tài sản thuộc sở
hữu của mình để thanh tốn cho bên nhận bảo lãnh”.
+ BLDS 2015 quy định về trách nhiệm dân sự của bên bảo lãnh tại Điều 342 như
sau:
“1. Trường hợp bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện khơng đúng
nghĩa vụ thì bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ đó.
2. Trường hợp bên bảo lãnh khơng thực hiện đúng nghĩa vụ bảo lãnh thì bên nhận
bảo lãnh có quyền u cầu bên bảo lãnh thanh tốn giá trị nghĩa vụ vi phạm và bồi
thường thiệt hại”.



- Điều 342 BLDS 2015 là điều mới hoàn toàn được các nhà lập pháp bổ sung thêm
vào làm đầy đủ các chế định về bảo lãnh và thay thế cho Điều 369 của BLDS 2005. Qua
đó, pháp luật có nhiều bước chuyển đổi mới mẻ hơn, bên cạnh đó nhằm tăng cường trách
nhiệm của bên bảo lãnh cũng như bảo vệ, bảo đảm quyền, lợi ích của bên nhận bảo lãnh
khi bên bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ bảo lãnh, thông
qua việc trao cho họ quyền được yêu cầu bên bảo lãnh thanh toán giá trị nghĩa vụ và buộc
bên bảo lãnh phải bồi thường thiệt hại (nếu có xảy ra) do hành vi vi phạm nghĩa vụ đó gây
ra.
*Quyết định số 02
3. Đoạn nào cho thấy Tòa án xác định quan hệ giữa ơng Miễn, bà Cà với Quỹ

tín dụng là quan hệ bảo lãnh?
Đoạn cho thấy Tòa án xác định quan hệ giữa ơng Miễn, bà Cà với Quỹ tín dụng là
quan hệ bảo lãnh:
“Việc Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: “Số tiền trên được ưu
tiên đảm bảo thanh toán bằng giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do ông Trần Văn Miễn
đứng tên diện tích là 20.408 m2, theo Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất của người
thứ ba…” là không đúng. Trong trường hợp xác định Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng
đất của người thứ ba số 01534 ngày 22/9/2006 giữa các bên có hiệu lực thì phải tn theo
đúng quy định tại khoản 1 Điều 5 và khoản 1 Điều 7 của Hợp đồng thế chấp; Điều 361 Bộ
luật dân sự là khi Chủ Doanh nghiệp tư nhân Đại Lộc Tân khơng trả nợ hoặc trả khơng đủ
thì ơng Miễn, bà Cà phải trả thay; nếu ông Miễn, bà Cà khơng trả nợ hoặc trả khơng đủ
thì mới xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ”.
4. Suy nghĩ của anh/chị về việc xác định trên của Hội đồng thẩm phán.

Việc xác định trên của Hội đồng thẩm phán là hợp lý và thuyết phục với quy định
của pháp luật. Căn cứ theo Khoản 3 Điều 336 BLDS 2015 “3. Các bên có thể thỏa thuận
sử dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh”, các
bên có thể sử dụng các biện pháp thế chấp điển hình trong vụ án là thế chấp về quyền sử

dụng đất để đảm bảo cho việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Theo Khoản 1 Điều 167 Luật
đất đai 2013 “Người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng,
cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất theo quy
định của Luật này.”, qua đó ta có thể thấy Ơng Miễn và bà Cà là những người chủ mảnh
đất và họ có quyền được đem mảnh đất của mình đi thế chấp, ở đây đem đi thế chấp cho
Quỹ tín dụng để có thể đảm bảo được nghĩa vụ trả nợ cho Chủ Doanh nghiệp tư nhân Đại
Lộc Tân là bà Đỗ Thị Tỉnh. Nên khi doanh nghiệp tư nhân không trả hoặc trả khơng đủ thì
ơng Miễn, bà Cà trả thay và nếu ông Miễn và bà Cà không trả hoặc trả không đủ thì mới
xử lí thế chấp để thu hồi nợ.


×