KẾT QUẢ THẢO LUẬN MÔN:
PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG
VÀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG
NỘI DUNG:
VẤN ĐỀ CHUNG CỦA HỢP ĐỒNG (tt)
Vấn đề 1: Hợp đồng vi phạm quy định về hình thức
Tóm tắt Quyết định số 171/2020/DS-GĐT
Ngun đơn là ông Phan Quý, bà Lê Thị Bích Thủy
Bị đơn là ông Lê Văn Dư, ông Lê Sĩ Thắng, ông Khâu Văn Sĩ .
Vợ chồng ông Quý, bà Thủy nhận chuyển nhượng bằng giấy viết tay của ông Huỳnh
Hữu Lợi 3.500 đất trồng. Ngày 03/02/2002, ông Quý, bà Thủy lập hợp đồng bằng giấy viết
tay chuyển nhượng cho ông Khâu Văn Sĩ 500 đất nêu trên với giá 500 triệu đồng. Ông Quý,
bà Thủy đã nhận đủ tiền và đã giao đất cho ông Sĩ quản lý, sử dụng. Ngày 18/4/2009, ông
Quý, bà Thủy ký 02 hợp đồng bằng giấy viết tay chuyển nhượng cho ông Dư và ông Thắng
mỗi người 87 đất. Ngày 18/9/2013, ông Dư và ông Thắng lập hợp đồng bằng giấy viết tay
chuyển nhượng 174 đất (cộng 02 phần đất trên) cho ơng Sĩ. Sau đó, ngày 03/11/2015, ông
Sĩ lập hợp đồng bằng giấy viết tay chuyển nhượng cho ông Dư 674 đất (cộng 02 phần đất
trên và phần đất 500 ông Sĩ nhận chuyển nhượng của ông Quý, bà Thủy vào năm 2002).
Ông Quý và bà Thủy khởi kiện yêu cầu tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất với ông Sĩ, ông Dư, ông Thắng chưa có hiệu lực và đình chỉ hợp đồng chuyển nhượng.
Hướng giải quyết: Các bên đã hoàn thành xong q trình chuyển nhượng, Tịa án
cơng nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất hợp lệ và có hiệu lực pháp lí căn cứ
theo quy định BLDS 2015.
Tóm tắt Quyết định số 93/2018/DS-GĐT
Nguyên đơn là ông Võ Sĩ Mến, bà Phùng Thị Nhiễm
Bị đơn là ơng Đồn Cưu và bà Trần Thị Lắm.
Diễn biến vụ việc: Tại Giấy chuyển nhượng đất thổ cư lập ngày 10/8/2009 thể hiện
vợ chồng ông Cưu, bà Lắm và con trai là Đoàn Tấn Linh thống nhất thỏa thuận chuyển
nhượng cho vợ chồng ông Mến, bà Nhiễm một lô B (tự chọn) khi được Nhà nước giao đất,
với giá chuyển nhượng là 90.000.000 đồng, diện tích là 5m x 20m. Sau khi viết giấy chuyển
nhượng, ông Mến và bà Nhiễm giao đủ số tiền theo thỏa thuận ban đầu, sau đó vì khơng có
lơ B nên hai bên thống nhất ông Mến, bà Nhiễm giao thêm 30.000.000 đồng nữa để lấy lơ
khu A. Ơng Mến, bà Nhiễm tiếp tục giao thêm 20.000.000 đồng cho gia đình bị đơn (ơng
Cưu, bà Lắm và anh Linh đã nhận số tiền 110.000.000 đồng). Ngày 17/10/2016, ông Cưu,
bà Lắm được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với 03 lô đất được cấp; ngày
23/02/2017, bị đơn đã giao Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CC 260823 đối với thửa
đất số 877, tờ bản đồ số 24 tại xã Phổ Thạnh, huyện Đức Phổ cho ông Mến, bà Nhiễm, việc
giao này có lập giấy xác nhận (bút lục 25). Ngày 18/4/2017, ông Mến và bà Nhiễm khởi
kiện yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa hai bên lập vào
ngày 10/8/2009. Trước yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, ông Cưu, bà Lắm có đơn phản tố
yêu cầu Tòa án tuyên hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất lập ngày 10/8/2009
vì cho rằng tại thời điểm chuyển nhượng chưa có đất và hợp đồng khơng được cơng chứng,
chứng thực.
Hướng giải quyết: Tịa án cơng nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
(Giấy chuyển nhượng đất thổ cư) lập ngày 10/8/2009 giữa vợ chồng ông Mến, bà Nhiễm với
vợ chồng ông Cưu, bà Lắm; công nhận cho ông Mến, bà Nhiễm được quyền sử dụng thửa
đất số 877, tờ bản đồ số 24 tại xã Phổ Thạnh, huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi; đồng thời
tuyên ông Mến, bà Nhiễm được quyền liên hệ với các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để
làm thủ tục sang tên thửa đất mới đúng và đảm bảo cho việc thi hành án. Ngồi ra, buộc ơng
Mến, bà Nhiễm tiếp tục giao số tiền 10.000.000 đồng còn thiếu cho ông Cưu, bà Lắm.
1. Đoạn nào trong Quyết định số 171 cho thấy hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất được xác lập trước ngày BLDS năm 2015 có hiệu lực và chưa được công
chứng, chứng thực?
Trong Quyết định số 171 cho thấy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất được
xác lập trước ngày BLDS năm 2015 có hiệu lực: “Ngày 03/02/2002, ký chuyển nhượng cho
ông Khâu Văn Sĩ 500 đất với giá 500.000.000 đồng; ngày 18/4/2009, ký chuyển nhượng cho
ông Lê Sĩ Thắng 87 đất với giá 435.000.000 đồng; ngày 18/4/2009, ký chuyển nhượng cho
ông Lê Văn Dư 87 đất với giá 435.000.000 đồng.”
Hợp đồng chuyển nhượng chưa công chức, chứng thực: “Các hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất được ký kết vào năm 2002 và năm 2009 đều vi phạm điều cấm
của pháp luật, cụ thể là: người sử dụng đất chưa có quyền sử dụng đất hợp pháp; diện tích
đất chuyển nhượng cho ơng Dư, ông Thắng không đảm bảo điều kiện tách thửa; thủ tục
chuyển nhượng bằng giấy viết tay, khơng có cơng chứng, chứng thực của cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền. Theo quy định tại Khoản 3 Điều 132 BLDS 2015 thì thời hiệu u
cầu Tịa án tun bố giao dịch dân sự vô hiệu trong trường hợp này không bị hạn chế”.
2. Đoạn nào trong Quyết định số 171 cho thấy Toà án đã áp dụng Điều 129
BLDS 2015 cho hợp đồng chuyển nhượng dù hợp đồng được xác lập trước ngày BLDS
năm 2015 có hiệu lực?
Tại phần nhận định của Tịa án, đoạn cho thấy Tồ án đã áp dụng Điều 129 BLDS
2015 cho hợp đồng chuyển nhượng dù hợp đồng được xác lập trước ngày BLDS năm 2015
có hiệu lực là: “Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 688 Bộ luật dân sự năm 2015 quy
định về điều khoản chuyển tiếp:
“Giao dịch dân sự chưa được thực hiện hoặc đang được thực hiện mà có nội dung
và hình thức phù hợp với quy định của Bộ luật này thì áp dụng quy định của Bộ luật này.
Sau khi chuyển nhượng, ông Quý, bà Thủy được cấp quyền sử dụng đất nên điều kiện về
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã được khắc phục. Tuy nhiên, giao dịch chuyển
nhượng quyền sử dụng đất này đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm bắt buộc về
công chứng, chứng thực.”
[...] Theo quy định tại khoản 2 Điều 129 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “Giao
dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt buộc về công
chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba nghĩa vụ
trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tịa án ra quyết định cơng nhận
hiệu lực của giao dịch đó”
Trong trường hợp khơng phát sinh thêm tài liệu, chứng cứ nào khác thì phải xem xét
để cơng nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo u cầu phản tố của ơng
Dư.”
3. Việc Tồ án áp dụng Điều 129 BLDS 2015 trong trường hợp như trên có
thuyết phục khơng? Vì sao?
Việc tịa án áp dụng Điều 129 BLDS 2015 là hồn tồn thuyết phục.
Tịa án đã viện dẫn Điểm b Khoản 1 Điều 688 BLDS 2015 quy định về điều khoản
chuyển tiếp:
“1. Đối với giao dịch dân sự được xác lập trước ngày Bộ luật này có hiệu lực thì
việc áp dụng pháp luật được quy định như sau:
b) Giao dịch dân sự chưa được thực hiện hoặc đang được thực hiện mà có nội dung
và hình thức phù hợp với quy định của Bộ luật này thì áp dụng quy định của Bộ luật này.”
Ơng Lê Văn Dư, ông Lê Sĩ Thắng và ông Khâu Văn Sĩ đã thực hiện đầy đủ phần
nghĩa vụ của mình, giao đủ số tiền cho ơng Q và bà Thuỷ nhận đất để sử dụng, và bên
nhận chuyển nhượng cũng đã xây dựng nhà. Điều đó đáp ứng được trường hợp quy định tại
Khoản 2 Điều 129 BLDS 2015: “Giao dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi
phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện
ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo u cầu của một bên hoặc các bên,
Tịa án ra quyết định công nhận hiệu lực của giao dịch đó. Trong trường hợp này, các bên
khơng phải thực hiện việc cơng chứng, chứng thực.”
Bên cạnh đó, “....hợp đồng sinh ra không để bị tuyên bố vô hiệu mà là để được thực
hiện nhằm đem lại lợi ích cho các bên mong muốn. Do đó, cần hạn chế tối đa việc tuyên bố
hợp đồng vô hiệu, nhất là khi hợp đồng chỉ vi phạm về hình thức.”1
Vì thế, việc áp dụng Điều 129 BLDS 2015 là hợp lí, đảm bảo cho hợp đồng duy trì
hiệu lực, quyền và nghĩa vụ của các bên được đáp ứng.
4. Đoạn nào trong Quyết định số 93 cho thấy hợp đồng chuyển nhượng quyền
sử dụng đất ngày 10/8/2009 chưa được công chứng, chứng thực?
“[5] Về hình thức của hợp đồng: Đối với các giao dịch dân sự được xác lập trước
ngày 01/01/2017, thời hiệu được áp dụng theo qui định của Bộ luật Dân sự năm 2015 (điểm
d khoản 1 Điều 688 Bộ luật Dân sự 2015). Giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất
ngày 10/8/2009 giữa vợ chồng ông Cửu, bà Lắm với ông Mến, bà Nhiễm không công
chứng, chứng thực là vi phạm hình thức...”
1 Đỗ Văn Đại, Luật Hợp đồng Việt Nam - Bản án và bình luận bản án (Tập 1), NXB Đại học Quốc Gia TP. Hồ Chí
Minh, trg.932.
5. Theo BLDS 2015, hệ quả pháp lý của việc hết thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên
bố hợp đồng vơ hiệu về hình thức.
Hết thời hiệu u cầu Tịa Án tun bố hợp đồng vơ hiệu về hình thức thì hợp
đồng sẽ phát sinh hiệu lực căn cứ vào Điểm đ Khoản 1 và Khoản 2 Điều 132 BLDS năm
2015 quy định:
“1. Thời hiệu yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu quy định tại các
Điều 125, 126, 127, 128 và 129 của Bộ luật này là 02 năm, kể từ ngày:
đ) Giao dịch dân sự được xác lập trong trường hợp giao dịch dân sự khơng tn thủ
quy định về hình thức.
2. Hết thời hiệu quy định tại khoản 1 Điều này mà không có u cầu tun bố giao
dịch dân sự vơ hiệu thì giao dịch dân sự có hiệu lực.”
Hợp đồng cũng là một hình thức của giao dịch dân sự, vì thế khi hết thời hiệu u
cầu vơ hiệu về hình thức thì hợp đồng sẽ phát sinh hiệu lực.
6. Đoạn nào trong Quyết định số 93 cho thấy Toà án đã áp dụng quy định về
thời hiệu tại Điều 132 BLDS 2015 để công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử
dụng đất ngày 10/8/2009 dù chưa được công chứng, chứng thực?
Đoạn [9] phần nhận định của Tòa án: “Đối với các giao dịch dân sự được xác lập
trước ngày 01/01/2017, thời hiệu được áp dụng theo qui định của Bộ luật Dân sự năm 2015
(điểm d khoản 1 Điều 688 Bộ luật Dân sự năm 2015). Giao dịch chuyển nhượng quyền sử
dụng đất lập ngày 10/8/2009 giữa vợ chồng ông Cưu, bà Lắm với vợ chồng ông Mến, bà
Nhiễm không được cơng chứng, chứng thực là vi phạm về hình thức. Tuy nhiên, từ khi xác
lập hợp đồng đến ngày nguyên đơn khởi kiện 18/4/2017, đã quá thời hạn hai năm, bị đơn
không yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu theo quy định tại khoản 1 Điều 132 Bộ luật Dân
sự 2015. Do đó, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên có hiệu lực theo Khoản 2
Điều 132 Bộ luật Dân sự 2015.”
7. Trong quyết định số 93, việc Tồ án cơng nhận hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất ngày 10/8/2009 dù chưa được công chứng, chứng thực có thuyết
phục khơng? Vì sao?
Tịa án cơng nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 10/08/2009 dù
chưa được cơng chứng, chứng thực hồn tồn thuyết phục.
Căn cứ vào Điểm d Khoản 1 Điều 688 BLDS năm 2015 quy định về điều khoản
chuyển tiếp:
“1. Đối với giao dịch dân sự được xác lập trước ngày Bộ luật này có hiệu lực thì
việc áp dụng pháp luật được quy định như sau:
d) Thời hiệu được áp dụng theo quy định của Bộ luật này.”
Theo đó, mặc dù hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên được xác lập
trước ngày BLDS có hiệu lực (ngày 10/8/2009) nhưng vẫn sẽ áp dụng thời hiệu của BLDS
năm 2015.
Căn cứ theo Khoản 2 Điều 132 BLDS 2015 quy định về thời hiệu yêu cầu Tòa án
tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu: "Hết thời hiệu quy định tại khoản 1 Điều này mà không
có u cầu tun bố giao dịch dân sự vơ hiệu thì giao dịch dân sự có hiệu lực." , thì khi quá
thời hiệu yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vơ hiệu và khơng có u cầu tun bố hợp đồng
vô hiệu đối với hợp đồng vi phạm về hình thức sẽ khơng bị vơ hiệu và hợp đồng đó vẫn có
hiệu lực.Với trường hợp trong quyết định số 93, trong hai năm kể từ ngày giao dịch dân sự
được xác lập nhưng ông Cựu, bà Lắm không có u cầu tun bố hợp đồng vơ hiệu.
Hơn nữa, ông Mến, bà Nhiễm đã nhận đất và thanh toán với số tiền 90.000.000 đồng,
và ông Cựu, bà Lắm đã giao đất và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Mến, bà
Nhiễm. Điều này cho thấy giao dịch chuyển quyền sử dụng đất giữa ông Cựu, bà Lăm và
ông Mến, bà Nhiễm đã thực hiện xong nghĩa vụ chuyển nhượng quyền sử dụng đất với nhau
nên theo Khoản 2 Điều 129 BLDS 2015 quy định về Giao dịch dân sự vô hiệu do không
tuân thủ quy định về hình thức: " Giao dịch dân sự đã được xác lập bằng văn bản nhưng vi
phạm quy định bắt buộc về công chứng, chứng thực mà một bên hoặc các bên đã thực hiện
ít nhất hai phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên,
Tịa án ra quyết định cơng nhận hiệu lực của giao dịch đó. Trong trường hợp này, các bên
không phải thực hiện việc công chứng, chứng thực", khi các bên đã thực hiện ít nhất hai
phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tịa án ra quyết
định cơng nhận hiệu lực của giao dịch đó.
Vấn đề 2: Đơn phương chấm dứt, hủy bỏ do không thực hiện đúng hợp đồng
Tình huống: Ơng Minh ký hợp đồng chuyển nhượng cho ông Cường quyền sử dụng
một mảnh đất. Hợp đồng được giao kết hợp pháp và ông Minh đã giao đất cho ông Cường
nhưng ông Cường không trả tiền cho ông Minh mặc dù ông Minh đã nhiều lần nhắc nhở.
Nay ơng Minh u cầu Tịa án hủy bỏ hợp đồng chuyển nhượng để nhận lại đất.
1. Điểm giống nhau và khác nhau giữa hợp đồng vô hiệu và hủy bỏ hợp đồng do
có vi phạm.
Giống nhau:
Về hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu và huỷ bỏ hợp đồng:
- Các bên phải hoàn trả lại cho nhau những gì đã nhận. Trong trường hợp khơng thể
hồn trả bằng hiện vật thì trị giá thành tiền để hồn trả.
- Bên có lỗi gây thiệt hại thì phải bồi thường cho bên bị thiệt hại.
Khác nhau:
HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU
HUỶ BỎ HỢP ĐỒNG
Từ Điều 123 đến Điều 133, Từ Điều 423 đến Điều 428 BLDS 2015.
Cơ
sở
Điều 407, Điều 408 BLDS
pháp lý
2015.
Điều kiện
Vơ hiệu do khơng có một trong
các điều kiện quy định tại Điều
117 của BLDS 2015, trừ trường
hợp Bộ luật này có quy định
khác.
+ Về năng lực: chủ thể phải có
đủ năng lực pháp luật dân sự và
năng lực hành vi dân sự.
+ Về ý chí: sự tự nguyện của
các bên tham gia.
+ Đảm bảo các điều kiện về nội
dung, hình thức và mục đích
hợp đồng.
Do vi phạm điều cấm của luật,
trái đạo đức xã hội.
Do giả tạo.
Do người chưa thành niên,
người mất năng lực hành vi
dân sự, người hạn chế năng lực
hành vi dân sự xác lập, thực
hiện.
Do nhầm lẫn.
Do bị lừa dối, đe dọa, cưỡng
ép.
Do người xác lập khơng nhận
thức và làm chủ hành vi của
mình.
Do khơng tn thủ quy định về
hình thức.
Do có đối tượng khơng thể
thực hiện được.
(CSPL: Điều 122, Điều 407,
Một bên có quyền huỷ bỏ hợp đồng và
không phải bồi thường thiệt hại trong các
trường hợp được quy định tại Khoản 1
Điều 423 BLDS 2015.
- Một bên vi phạm hợp đồng là điều
kiện huỷ bỏ mà các bên đã thoả
thuận.
- Một bên vi phạm nghiêm trọng
nghĩa vụ của hợp đồng.
- Trường hợp khác do luật quy định.
Điều 408 BLDS 2015)
Tính chất
Khơng có hiệu lực tại thời điểm Hợp đồng này có hiệu lực tại thời điểm
giao kết
giao kết nhưng vì phát sinh yếu tố dẫn
đến hủy hợp đồng nên hiệu lực này không
được công nhận.
Thẩm
Hợp đồng phải được Tồ án Tịa án hoặc Trọng Tài
quyền
hoặc Trọng tài tun bố là vơ
quyết định hiệu khi có u cầu.
2. Theo Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Long, hợp đồng vơ hiệu hay bị huỷ bỏ?
Theo Tồ án nhân dân tỉnh Vĩnh Long, hợp đồng bị vô hiệu.
Tại phần “Nhận định” của Toà án: “Xét hợp đồng mua bán xe ngày 26/5/2012 nêu
trên là vô hiệu theo qui định tại các điều 122 của Bộ Luật dân sự nên khơng có căn cứ tun
huỷ hợp đồng cũng khơng xét yêu cầu phạt vi phạm hợp đồng của cả nguyên và bị đơn vì
hợp đồng vơ hiệu khơng làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên ngay từ thời điểm
giao kết, không ràng buộc trách nhiệm các bên đã giao kết trong hợp đồng mà phải tuyên
hợp đồng vô hiệu và xử lý hậu quả theo điều 131 của Bộ Luật dân sự…”.
Và tại phần “Quyết định”: “Vô hiệu hợp đồng mua bán xe ô tô ngày 26/5/2012 giao
kết giữa công ty TNHH MTV Đông Phong Cần Thơ với ông Trương Văn Liêm”.
3. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh
Long (về huỷ bỏ hay vô hiệu hợp đồng).
Hướng giải quyết trên của Toà án nhân dân tỉnh Vĩnh Long về vô hiệu hợp đồng là
thuyết phục.
Căn cứ vào Điểm a Khoản 1 Điều 117 BLDS năm 2015 quy định:
“1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao
dịch dân sự được xác lập;”
Theo như hướng giải quyết của Tồ thì bà Nguyễn Thị Dệt khơng phải là người đại
diện cho Trang trí nội thất Thành Thảo mà thực chất ơng Trương Hồng Thành mới là Giám
đốc đại diện của Công ty TNHH-SX-TM Thành Thảo. Mặt khác, trên hợp đồng ghi đại diện
bên mua là bà Dệt nhưng người đứng ra giao dịch ký kết lại là ông Trương Văn Liêm. Điều
này là không đúng với quy định của pháp luật và dẫn tới hợp đồng vô hiệu, từ đó ta thấy
hướng giải quyết của Tồ án nhân dân tỉnh Vĩnh Long là hoàn toàn hợp lý.
4. Nếu hợp đồng bị vơ hiệu thì có áp dụng phạt vi phạm hợp đồng khơng? Vì
sao?
Căn cứ vào Khoản 1 Điều 131 BLDS năm 2015 quy định: “1. Giao dịch dân sự vô
hiệu không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời
điểm giao dịch được xác lập.”
Căn cứ vào Khoản 1 Điều 418 BLDS năm 2015 quy định: “1. Phạt vi phạm là sự
thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng, theo đó bên vi phạm nghĩa vụ phải nộp một khoản
tiền cho bên bị vi phạm.” Theo đó thì phạt vi phạm hợp đồng là một trong những hình thức
chế tài do vi phạm hợp đồng, theo đó bên vi phạm hợp đồng phải trả cho bên bị vi phạm
hợp đồng một khoản tiền nhất định do pháp luật quy định hoặc do các bên thỏa thuận
Đối với hợp đồng vơ hiệu, thì đã khơng làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền,
nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập. Hợp đồng vơ hiệu thì
vốn dĩ quyền và nghĩa vụ các bên giao kết trong hợp đồng khơng mang tính ràng buộc
nhau,và các bên không nhất thiết phải ứng xử theo hợp đồng. Như vậy không thể áp dụng vi
phạm hợp đồng do chế định phạt vi phạm hợp đồng chỉ xảy ra khi hợp đồng có hiệu lực
pháp luật.
5. Hướng giải quyết của tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long đối với câu hỏi trên
như thế nào và suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết này của tòa án nhân dân tỉnh
Vĩnh Long.
Căn cứ vào đoạn 2 của phần “Nhận định” trong bản án có ghi : “Xét hợp đồng mua
bán xe ngày 26/5/2012 nêu trên là vô hiệu theo qui định tại các điều 122 của Bộ Luật dân
sự nên khơng có căn cứ tun hủy hợp đồng cũng không xét yêu cầu vi phạm hợp đồng của
cả nguyên đơn và bị đơn vì hợp đồng vơ hiệu khơng làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của
các bên này từ thời điểm giao kết”. Vậy nên, Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long cho rằng hợp
đồng vơ hiệu thì không áp dụng phạt vi phạm hợp đồng.
Hướng giải quyết trên của tịa án là hồn tồn hợp lý vì khi hợp đồng đã bị tun là
vơ hiệu thì đương nhiên không ràng buộc trách nhiệm của các bên giao kết căn cứ vào
Khoản 1 Điều 131 BLDS 2015:“Giao dịch dân sự vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi
chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm xác lập”. Hợp đồng dân sự vô
hiệu thì quyền và nghĩa vụ của các bên khơng được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Vì vậy,
vấn đề phạt vi phạm của các bên không được xét đến.
6. Điểm giống nhau và khác nhau giữa đơn phương chấm dứt hợp đồng và hủy
bỏ hợp đồng do có vi phạm.
Giống nhau:
- Đều có hậu quả là kết thúc việc thực hiện hợp đồng.
- Do một bên thực hiện.
- Chỉ không phải bồi thường khi một bên vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trong hợp
đồng. Đây cũng là điều kiện để áp dụng việc hủy bỏ hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng.
- Phải thông báo ngay cho bên kia biết về việc chấm dứt hoặc hủy bỏ, nếu khơng
thơng báo mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.
Khác nhau:
ST
T
TIÊU CHÍ
1
Cơ sở pháp lý
ĐƠN PHƯƠNG CHẤM
DỨT
HỢP ĐỒNG
Điều 428 BLDS 2015
- Khi một bên vi phạm
nghiêm trọng nghĩa vụ trong
hợp đồng.
2
Các trường hợp
- Do hai bên thỏa thuận.
HỦY BỎ HỢP ĐỒNG
Điều 423 BLDS 2015
- Do chậm thực hiện nghĩa vụ.
- Do khơng có khả năng làm.
- Do tài sản bị hư hại, bị hỏng, bị
mất.
- Do pháp luật quy định.
3
Điều
dụng
kiện
4
Hậu quả
Khơng bắt buộc phải có sự
áp vi phạm hợp đồng bởi hai
bên có thể thỏa thuận hoặc
do pháp luật quy định.
- Hợp đồng chấm dứt kể từ
thời điểm bên kia nhận được
thơng báo chấm dứt.
Phải có sự vi phạm hợp đồng và
đây cũng là điều kiện để hủy bỏ
hợp đồng.
- Hợp đồng khơng có hiệu lực từ
thời điểm giao kết, các bên
không phải thực hiện nghĩa vụ
- Các bên không phải tiếp đã thỏa thuận.
- Hoàn trả cho nhau những gì đã
tục thực hiện nghĩa vụ nữa.
nhận sau khi trừ đi chi phí hợp
- Bên thực hiện nghĩa vụ có lý.
quyền yêu cầu bên kia thanh (Điều 427 BLDS 2015)
toán phần nghĩa vụ đã thực
hiện.
(Khoản 3 Điều 428 BLDS
2015)
7. Ông Minh có được quyền hủy bỏ hợp đồng chuyển nhượng nêu trên khơng?
Vì sao? Nếu có, nêu rõ văn bản cho phép hủy bỏ.
Căn cứ vào Khoản 1 Điều 424 BLDS năm 2015 quy định: “1. Trường hợp bên có nghĩa
vụ khơng thực hiện đúng nghĩa vụ mà bên có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ trong một
thời hạn hợp lý nhưng bên có nghĩa vụ khơng thực hiện thì bên có quyền có thể hủy bỏ hợp
đồng.”
Căn cứ vào Khoản 1 Điều 423 BLDS năm 2015 quy định:
“1. Một bên có quyền hủy bỏ hợp đồng và không phải bồi thường thiệt hại trong trường
hợp sau đây:
a) Bên kia vi phạm hợp đồng là điều kiện hủy bỏ mà các bên đã thỏa thuận;
b) Bên kia vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ hợp đồng;
c) Trường hợp khác do luật quy định.”
Ơng Minh có quyền hủy bỏ hợp đồng chuyển nhượng nêu trên. Tuy nhiên, ông Minh
phải thông báo ngay cho ông Cường biết về việc hủy bỏ, nếu khơng thơng báo mà gây thiệt
hại thì ơng Minh phải bồi thường. Vì trong hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất của
ơng Minh cho ơng Cường, tình huống trên hợp đồng được giao kết hợp pháp tức có nêu rõ
thời hạn thanh tốn, do đó khi ơng Cường khơng thực hiện việc thanh tốn tiền cho ơng
Minh theo đúng thời hạn trong hợp đồng dù được ông Minh nhắc nhở nhiều lần vì thế ơng
Cường đã vi phạm nghiêm trọng điều khoản được nêu trong hợp đồng.
Như vậy, căn cứ vào Điểm b Khoản 1 Điều 423 BLDS 2015 thì ơng Minh hồn tồn
có quyền u cầu hủy bỏ hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông Cường.
Vấn đề 3: Đứng tên giùm mua bất động sản
Tóm tắt Quyết định số 19/2015/DS-GĐT
Nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Tuệ.
Bị đơn là ơng Nguyễn Văn Bình, bà Nguyễn Thị Vân
Diễn biến vụ việc: Bà Tuệ sống ở Nhật Bản có nguyện vọng mua nhà tại Việt Nam, bà
đã nhờ ơng Nguyễn Văn Bình mua giúp. Cuối năm 1992, ông Bình đã tìm và mua được nhà
đất với giá 320 chỉ vàng. Do nhà mua khơng có điện nước, nên phải ký thêm hợp đồng dịch
vụ để thuê làm điện nước hết 36 chỉ vàng, tổng cộng mua nhà hết 356 chỉ vàng, nhưng ông
Bình nói là mua nhà hết 360 chỉ vàng và bà Tuệ đã đưa đủ vàng cho ơng Bình, khơng viết
giấy biên nhận. Thời điểm ơng Bình mua nhà đất trên đã nhờ bà Nguyễn Thị Vân có hộ
khẩu tại Hà Nội cùng đứng tên trong Hợp đồng mua nhà. Ơng Bình ở để trơng nhà. Bà Tuệ
u cầu ơng Bình sang tên nhà đất cho bà. Tháng 9/2010, ơng Bình đồng ý trả nhà đất
nhưng với điều kiện bà Tuệ phải cắt dọc nhà chia cho ơng Bình 1/2 nhà phía ngồi đường
nhưng bà Tuệ khơng đồng ý. Ơng Bình tiếp tục địi bà Tuệ phải trả 03 đến 04 tỷ đồng hoặc
trả cho ơng Bình 01 căn nhà khác tại Hà Nội coi như là cơng ơng Bình trông nhà hộ cho bà
Tuệ. Bà Tuệ cũng đã mua nhà ở Yên Bái, đất và nhà ở Phú Thọ cho ơng Bình. Q trình ở
tại nhà đất nêu trên, ơng Bình có cơi nới 02 phịng nhỏ phía trên để cho sinh viên thuê, việc
này bà Tuệ không biết. Bà Tuệ u cầu ơng Bình trả nhà đất nhưng ơng Bình khơng trả. Do
đó, bà Tuệ khởi kiện u cầu ơng Bình và bà Vân phải trả căn nhà số 16-B20 cho bà.
Hướng giải quyết: Tịa án cơng nhận cho Tuệ quyền sở hữu nhà 16-B20 và xem xét đến
cơng sức quản lí, giữ gìn nhà cho gia đình ông Bình trên cơ sở xác định giá nhà đất theo giá
thị trường ở thời điểm xét xử sơ thẩm, trừ đi số tiền mua nhà đất do bà Tuệ bỏ ra, phần giá
trị cịn lại chia đơi cho ơng Bình và bà Tuệ.
1. Việc Tịa án nhân dân tối cao xác định nhà có tranh chấp do bà Tuệ bỏ tiền ra
mua và nhờ ơng Bình, bà Vân đứng tên hộ có thuyết phục khơng? Vì sao?
Việc Tịa án nhân dân tối cao xác định nhà có tranh chấp do bà Tuệ bỏ tiền ra mua và
nhờ ơng Bình, bà Vân đứng tên hộ là hồn tồn thuyết phục.
Vì dựa vào căn cứ “Giấy cam đoan xác định tài sản nhà ở” lập ngày 07/6/2001 có nội
dung xác nhận căn nhà số 16-B20 do bà Tuệ bỏ tiền ra mua và nhờ ơng Bình, bà Vân đứng
tên hộ. Giấy cam đoan này có chữ ký của ơng Bình và bà Vân. Thứ hai là “giấy khai nhận
tài sản” ngày 09/8/2001 của bà Tuệ cũng có nội dung năm 1993 bà Tuệ mua căn nhà 16-B20
của Công ty xây dựng nhà ở dân dụng và được Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở ngày 25/5/2001, do bà Tuệ là người
Việt Nam định cư ở nước ngoài không được đứng tên mua nhà tại Việt Nam, nên bà Tuệ có
nhờ ơng Bình và bà Vân đứng tên hộ, giấy này có chữ ký của bà Tuệ, bà Vân và ơng Bình
ký tên dưới mục người đứng tên hộ.
2. Ở thời điểm mua nhà trên, bà Tuệ có được đứng tên khơng? Vì sao?
Ở thời điểm mua nhà trên, bà Tuệ khơng được đứng tên. Vì tại thời điểm đó, Luật số
34/2009/QH12 ngày 18/6/2009 của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung Điều 126 Luật Nhà ở vẫn
chưa được ban hành.
Điều 126 Luật Nhà 2005 ở quy định quyền sở hữu nhà ở tại Việt Nam của người Việt
Nam định cư ở nước ngoài: “1. Người Việt Nam định cư ở nước ngoài về đầu tư lâu dài tại
Việt Nam, người có cơng đóng góp với đất nước, nhà hoạt động văn hố, nhà khoa học có
nhu cầu về hoạt động thường xuyên tại Việt Nam nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng đất
nước, người được phép về sống ổn định tại Việt Nam và các đối tượng khác do Uỷ ban
thường vụ Quốc hội quy định được sở hữu nhà ở tại Việt Nam. 2. Người Việt Nam định cư ở
nước ngồi khơng thuộc diện quy định tại khoản 1 Điều này đã về Việt Nam cư trú với thời
hạn được phép từ sáu tháng trở lên được sở hữu một nhà ở riêng lẻ hoặc một căn hộ.”
Từ quy định trên có thể thấy bà Tuệ sống tại Nhật Bản, chỉ về Việt Nam để thăm gia
đình và khơng được cư trú tại Việt Nam với thời hạn được phép từ sáu tháng trở lên, như
vậy bà Tuệ không thuộc một trong các đối tượng quy định tại Điều 126 Luật nhà ở nên bà
Tuệ không được đứng tên nhà đất
3. Ở thời điểm hiện nay, bà Tuệ có được đứng tên mua nhà ở tại Việt Nam
không?
Ở thời điểm hiện nay, bà Tuệ được đứng tên mua nhà ở tại Việt Nam. Vì:
Bà Tuệ theo Khoản 3 Điều 3 Luật quốc tịch Việt Nam 2008: “Người Việt Nam định
cư ở nước ngồi là cơng dân Việt Nam và người gốc Việt Nam cư trú, sinh sống lâu dài ở
nước ngoài.”
Về quyền sở hữu nhà ở của người Việt Nam định cư tại nước ngoài như trường hợp
của bà Tuệ căn cứ vào Khoản 2 Điều 7 Luật Nhà ở 2014 là thuộc đối tượng được sở hữu nhà
tại Việt Nam.
Theo Khoản 1 và Điểm b Khoản 2 Điều 8 Luật Nhà ở 2014:
Điều 8. Điều kiện được công nhận quyền sở hữu nhà ở
1. Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trong nước; đối với người Việt Nam định cư ở nước
ngồi thì phải được phép nhập cảnh vào Việt Nam; đối với tổ chức, cá nhân nước ngồi thì
phải có đủ điều kiện quy định tại Điều 160 của Luật này.
2. Có nhà ở hợp pháp thơng qua các hình thức sau đây:
b) Đối với người Việt Nam định cư ở nước ngồi thì thơng qua hình thức mua, thuê
mua nhà ở thương mại của doanh nghiệp, hợp tác xã kinh doanh bất động sản (sau đây gọi
chung là doanh nghiệp kinh doanh bất động sản); mua, nhận tặng cho, nhận đổi, nhận thừa
kế nhà ở của hộ gia đình, cá nhân; nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở trong dự án
đầu tư xây dựng nhà ở thương mại được phép bán nền để tự tổ chức xây dựng nhà ở theo
quy định của pháp luật;
Khoản 2 Điều 5 Nghị định số 99/2015/NĐ-CP ngày 20/10/2015 quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Nhà ở, giấy tờ chứng minh đối tượng được sở hữu
nhà ở đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài được quy định như sau:
a) Trường hợp mang hộ chiếu Việt Nam thì phải cịn giá trị và có đóng dấu kiểm
chứng nhập cảnh của cơ quan quản lý xuất, nhập cảnh Việt Nam vào hộ chiếu;
b) Trường hợp mang hộ chiếu nước ngồi thì phải cịn giá trị có đóng dấu kiểm
chứng nhập cảnh của cơ quan quản lý xuất, nhập cảnh Việt Nam vào hộ chiếu và kèm theo
giấy tờ chứng minh còn quốc tịch Việt Nam hoặc giấy tờ xác nhận là người gốc Việt Nam do
Sở Tư pháp các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, cơ quan đại diện Việt Nam ở nước
ngoài, cơ quan quản lý về người Việt Nam ở nước ngoài cấp hoặc giấy tờ khác theo quy
định của pháp luật Việt Nam.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 9 Luật Nhà ở 2014, nếu người Việt Nam định cư ở
nước ngoài đáp ứng đủ các điều kiện như nêu trên thì được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền
với đất đối với nhà ở đó. Nhà ở được cấp Giấy chứng nhận phải là nhà ở có sẵn.
=> Các quy định nêu trên không quy định hộ khẩu thường trú là điều kiện để được sở
hữu nhà ở.
Mặt khác, theo “Giấy chứng nhận” ngày 12/06/2009 của Tổng lãnh sự quán nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại Nhật Bản thì bà Tuệ vẫn có quốc tịch Việt Nam và
ngày 18/06/2009 bà Tuệ còn được cấp “Giấy miễn thị thực” để bà Tuệ nhập cảnh Việt Nam
nhiều lần đến ngày 18/06/2014, mỗi lần nhập cảnh tạm trú không quá 90 ngày.
Như vậy, vì thuộc trường hợp người Việt Nam định cư tại nước ngồi đáp ứng đủ các
điều kiện nêu trên, khơng phụ thuộc vào hộ khẩu thường trú tại Việt Nam nên bà Tuệ được
quyền sở hữu nhà ở tại Việt Nam thơng qua các hình thức mua, nhận tặng cho hoặc thơng
qua các hình thức hợp pháp khác.
4. Ngày nay, theo Tòa án nhân dân tối cao, bà Tuệ được công nhận quyền sở hữu
nhà trên không? Hướng giải quyết này của Tịa án nhân dân tối cao đã có tiền lệ chưa?
Ngày nay, theo Toà án nhân dân tối cao, bà Tuệ được công nhận quyền sở hữu nhà ở
vì theo đoạn 5 và 6 phần Xét thấy của Quyết định giám đốc thẩm số 17/2015/DS-GĐT ngày
19/05/2015: “Theo “giấy chứng nhận” ngày 12/06/2009 của Tổng lãnh sự quán nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại Nhật Bản thì bà Tuệ vẫn có quốc tịch Việt Nam. Ngày
18/6/2009, bà Tuệ vẫn được cấp “giấy miễn thị thực” để bà Tuệ nhập cảnh vào Việt Nam
nhiều lần đến ngày 18/6/2014, mỗi lần nhập cảnh không quá 90 ngày. Theo quy định tại
Điều 1 Luật số 34/2009/QH12 ngày 18/6/2009 của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung Điều 126
Luật Nhà ở và Điều 121 của Luật Đất đai. Vì vậy, trong trường hợp này phải công nhận cho
bà Tuệ được quyền sở hữu nhà 16-B20 …”
Hướng giải quyết này của Tịa án nhân dân tối cao đã có tiền lệ, cụ thể là Bản án dân sự
số 1201/DS-ST ngày 13/9/2017.
Tóm tắt vụ việc:
Ngày 16/02/1998, bà N.T.S (nguyên đơn) và bà N.T.H (bị đơn) ký Giấy mua bán nhà ký
tại UBND phường X để mua nhà diện tích 40,8m2 trên 688,32m2 đất của ông L.T.D giá 230
lượng vàng, các bên đã thực hiện và làm Giấy biên nhận vàng, Biên bản giao nhà và khuôn
viên ngày 17/02/1998; đồng thời, nguyên đơn cịn bồi thường 15 lượng vàng cho ơng HVĐ
là người đang thuê nhà để giao nhà lại cho ông LTD. Ngày 24/3/1998, bị đơn và ông LTD
ký lại Hợp đồng mua bán nhà đất số 2059/HĐ-MBN tại Phịng cơng chứng, giá 30 triệu
đồng (khơng ghi diện tích). Vì là Việt kiều nên vợ chồng nguyên đơn nhờ bị đơn đứng tên
giúp trên giấy tờ mua bán nhà – đất. Ngày 25/5/1999, bị đơn đã ký “Giấy xác nhận quyền sở
hữu về bất động sản” thừa nhận tiền mua nhà của vợ chồng nguyên đơn đầu tư trường VA
và bị đơn đứng tên giùm trên giấy mua bán. Nguyên đơn yêu cầu Tịa án cơng nhận QSH
nhà, đất nêu trên là của nguyên đơn.
Hướng giải quyết của Tòa
Vợ chồng nguyên đơn là Việt kiều, là người đang đầu tư tại Việt Nam; do vậy, căn cứ
khoản 2 Điều 5, khoản 1 điểm b khoản 2 Điều 8 Luật Nhà ở năm 2014, Điều 3 Luật Quốc
tịch năm 2008 thì nguyên đơn đủ điều kiện được sở hữu nhà ở tại Việt Nam đối với người
Việt Nam định cư tại nước ngoài về sinh sống, đầu tư tại Việt Nam, từ đó tun xử: Xác
định tồn bộ nhà - đất thuộc quyền sở hữu của nguyên đơn.
5. Theo Tòa án nhân dân tối cao, phần giá trị chênh lệch giữa số tiền bà Tuệ bỏ
ra và giá trị hiện tại của nhà đất có tranh chấp được xử lý như thế nào?
Hướng xử lý của Tòa án nhân dân tối cao: Xem xét đến công sức quản lý, giữ gìn nhà
cho gia đình ơng Bình trên cơ sở xác định giá trị nhà đất theo giá thị trường ở thời điểm xét
xử sơ thẩm, trừ đi số tiền mua nhà đất do bà Tuệ bỏ ra, phần giá trị cịn lại chia đơi cho bà
Tuệ và ơng Bình.
Cơ sở: Đoạn 6 phần Xét thấy của Quyết định giám đốc thẩm số 17/2015/DS-GĐT
ngày 19/05/2015.
6. Hướng giải quyết trên của Tịa án nhân dân tối cao đã có Án lệ chưa? Nếu có,
nêu Án lệ đó.
Hướng giải quyết trên của Tịa án nhân dân tối cao đã có Án lệ, cụ thể là Án lệ số
02/2016/AL
Tóm tắt Án lệ:
Nguyên đơn là bà Nguyễn Thị Thảnh
Bị đơn là ông Nguyễn Văn Tám;
Bà Thảnh là Việt kiều Hà Lan có nhận chuyển nhượng diện tích 7.595,7m 2 đất ruộng
với giá 21,99 chỉ vàng và giao cho em bà ông Nguyễn Văn Tám đứng tên hộ, cho phép ông
Tám sử dụng và canh tác trên mảnh đất đó. Tuy nhiên sau một thời gian quản lí, sử dụng;
ơng Tám đã chuyển nhượng tồn bộ diện tích đất cho Cơng ty TNHH Minh Châu để nhận
1.260.000.000 đồng mà chưa có sự đồng ý của bà.
Tịa án cấp sơ thẩm: Buộc vợ chồng ơng Nguyễn Văn Tám, bà Nguyễn Thị m phải
có trách nhiệm hồn trả cho bà Nguyễn Thị Thảnh 630.000.000 đồng.
Tòa án cấp phúc thẩm: Buộc ông Nguyễn Văn Tám, bà Nguyễn Thị m có trách
nhiệm hồn trả cho bà Nguyễn Thị Thảnh số tiền 27.047.700 đồng tương đương 21,99 chỉ
vàng 24k.
Buộc vợ chồng ông Nguyễn Văn Tám và bà Nguyễn Thị Yêm phải nộp lại số tiền
1.232.266.860 đồng để sung công quỹ Nhà nước.
Tòa án Nhân dân tối cao: Trả lại tiền gốc cho bà Thảnh tương đương 21,99 chỉ vàng.
Phần giá trị chênh lệch sẽ phải xét tới công sức quản lí, tơn tạo của ơng Tám để xác định
một khoản phù hợp với công sức của ông; Trường hợp không xác định được chính xác cơng
sức của ơng Tám thì phải xác định bà Thảnh, ơng Tám có cơng sức ngang nhau để chia.
7. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án nhân dân tối cao.
Hướng giải quyết trên của Tòa án nhân dân tối cao là hợp lí. Bởi lẽ giải pháp cơng
bằng là phải chia đều giá trị gia tăng thêm cho các bên, xem xét đến cơng sức quản lí, trơng
coi, bỏ ra các chi phí phục vụ cho việc quản lí, gìn giữ. Cách xử lý chia đơi như vậy có thể
bảo vệ được quyền lợi chính đáng của cả bên bỏ tiền mua bất động sản và bên đứng tên
giùm mua bất động sản.
Vấn đề 4: Tìm kiếm tài liệu
Yêu cầu 1: Liệt kê những bài viết liên quan đến pháp luật hợp đồng được công bố
trên các Tạp chí chuyên ngành Luật từ đầu năm 2018 đến nay .
1. Trần Thị Thuận Giang - Lê Tấn Phát, “Hiệu lực của Hợp đồng theo Công Ước
Liên Hợp Quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế: “khoảng xám” cho xu hướng quay
về áp dụng pháp luật quốc gia", Tạp chí khoa học pháp lý, số 05/2019, tr.90 - 102.
2. Lê Thị Bích Thủy, “Pháp luật áp dụng đối với hợp đồng thương mại quốc tế theo
quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành", Tạp chí Luật học, số 5/2019, tr.81 - 92.
3. Phùng Bích Ngọc, “Thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo Công Ước
Viên năm 1980 – So sánh với pháp luật Việt Nam”, Tạp chí Luật học, số 06/2019, tr.49 - 60.
4. Trần Quỳnh Anh - Vũ Thị Hòa Như, “Hoàn thiện pháp luật về giao kết hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế - Bài học kinh nghiệm từ Cơng ước viên 1980”, Tạp chí Luật
học, số 12/2018, tr.3 - 12.
5. Lê Thị Giang, “Hợp đồng vô hiệu do lợi thế khơng cơng bằng hoặc lợi ích thái q
theo Bộ Nguyên tắc chung về luật hợp đồng Châu Âu”, Tạp chí Khoa học Kiểm sát, số
02/2019, tr.48 - 54.
6. Nguyễn Đức Kiên, “Hoàn thiện quy định của pháp luật về hợp đồng thương mại ở
Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 23/2018, tr.38 - 45.
7. Tưởng Duy Lượng, “Bình luận án lệ số 11/2017/AL về cơng nhận hợp đồng thế
chấp quyền sử dụng đất mà trên đất có tài sản khơng thuộc sở hữu của bên thế chấp”, Tạp
chí Tịa án Nhân dân, số 01/2020, tr.14 - 20.
8. Phạm Văn Lưỡng, “Pháp luật về hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất của hộ gia
đình tại các tổ chức tín dụng", Tạp chí Tịa án Nhân dân, số 15/2019, tr.16 - 22.
9. Đỗ Hải Yến, “Quy định của pháp luật hiện hành về chủ thể hợp đồng thể chấp
quyền sử dụng đất và giải pháp hoàn thiện”, Tạp chí Tịa án Nhân dân, số 12/2019, tr.11 19.
10. Lê Văn Đức, “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người lao động khi đơn
phương chấm dứt hợp đồng", Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 16/2019, tr.23 - 27.
11. Đoàn Thị Phương Diệp, "Pháp luật hợp đồng Việt Nam nhìn ở góc độ so sánh với
luật Cộng hồ Pháp", Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 11/2019, tr 56 - 64.
12. Nguyễn Duy Phương - Nguyễn Duy Thanh, "Hợp đồng thương mại điện tử: thực
trạng và hướng hoàn thiện", Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 8/2019, t 44 - 55.
13. Trần Kiên - Nguyễn Khắc Thu, “Khái niệm hợp đồng và những nguyên tắc cơ
bản của hệ thống pháp luật hợp đồng Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 23/2019, tr.45 - 55.
14. Hồ Thị Vân Anh, “Một số bất cập trong quy định về chấm dứt hợp đồng theo
pháp luật dân sự Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 2-3/2019, tr.106 - 111.
15. Trương Nhật Quang - Lê Trần Quỳnh Thi, “Nguyên tắc giải quyết xung đột pháp
luật về hợp đồng”, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 17/2020, tr.13 - 21.
16. Đỗ Giang Nam - Đào Trọng Khơi, “Nhận diện khía cạnh pháp lí của “hợp đồng
thơng minh” dưới góc nhìn của pháp luật hợp đồng Việt Nam”, Tạp chí Luật học, số 8/2021,
tr.47 - 61.
17. Đặng Thị Hồng Tuyến, “Chấm dứt hợp đồng do hoàn thành hợp đồng theo pháp
luật Đức, Trung Quốc dưới góc nhìn so sánh với pháp luật Việt Nam”, Tạp chí Luật học, số
6/2021, tr.77.
18. Nguyễn Hữu Chí, “Đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động của người lao động
theo Bộ luật Lao động năm 2019”, Tạp chí Luật học, số 5/2021, tr.3 -10.
19. Nguyễn Thị Mỹ Hạnh - Liên Đăng Phước Hải, “Hợp đồng chung sống theo quy
định của pháp luật Cộng hòa Pháp, Úc và những gợi mở cho Việt Nam”, Tạp chí Luật học,
số 4/2021, tr.64 - 74.
20. Nguyễn Thị Hoa, “Ban xử lí tranh chấp - Áp dụng mẫu hợp đồng FIDIC và kinh
nghiệm cho Việt Nam”, Tạp chí Khoa học Pháp lý Việt Nam, số 2/2021, tr.86 - 95.
Yêu cầu 2: Cho biết làm thế nào để biết được những bài viết trên.
Tìm hiểu trên các nguồn:
Thư viện trường Đại học luật Thành phố Hồ Chí Minh
Tạp chí dân chủ và pháp luật
Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp
Viện hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam – Viện Nhà nước và pháp luật
Tạp chí khoa học pháp lý của trường Đại học Luật Thành Phố Hồ Chí Minh
Tạp chí Luật học của Đại học Luật Hà Nội
Tạp chí Khoa học Kiểm sát của Đại học Kiểm Sát
/>