Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

THẢO LUẬN dân sự 2 lần 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.84 KB, 19 trang )

KẾT QUẢ THẢO LUẬN MÔN:
PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG
VÀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG
NỘI DUNG:
NGHĨA VỤ

1


MỤC LỤC


VẤN ĐỀ 1: THỰC HIỆN CƠNG VIỆC KHƠNG CĨ ỦY QUYỀN......3
1. Thế nào là thực hiện công việc không có ủy quyền?...........................3
2. Vì sao thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền là căn cứ phát sinh
nghĩa vụ?.................................................................................................3
3. Cho biết điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về chế định
“thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền”...............................................3
4. Các điều kiện để áp dụng chế định “thực hiện cơng việc khơng có ủy
quyền” theo BLDS 2015? Phân tích từng điều kiện.................................4
5. Trong tình huống trên, sau khi xây dựng xong cơng trình, nhà thầu C
có thể u cầu chủ đầu tư A thực hiện những nghĩa vụ trên cơ sở các
quy định của chế định “thực hiện công việc khơng có ủy quyền” trong
BLDS 2015 khơng? Vì sao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.........................5



VẤN ĐỀ 2: THỰC HIỆN NGHĨA VỤ (THANH TỐN MỘT KHOẢN TIỀN)
6
1. Thơng tư trên cho phép tính lại giá trị khoản tiền phải thanh toán như
thế nào? Qua trung gian là tài sản gì?.....................................................6


2. Đối với tình huống thứ nhất, thực tế ông Quới sẽ phải trả cho bà Cô
khoản tiền cụ thể là bao nhiêu? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.............7
3. Thơng tư trên có điều chỉnh việc thanh toán tiền trong hợp đồng
chuyển nhượng bất động sản như trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT
khơng? Vì sao?.........................................................................................7
4. Đối với tình huống trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT, nếu giá trị
nhà đất được xác định là 1.697.760.000đ như Tòa án cấp sơ thẩm đã
làm thì, theo Tịa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội, khoản tiền bà Hương
phải thanh toán cho cụ Bảng cụ thể là bao nhiêu? Vì sao?.....................8
5. Hướng như trên của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội có tiền lệ
chưa? Nêu một tiền lệ (nếu có)?..............................................................8



VẤN ĐỀ 3: CHUYỂN GIAO NGHĨA VỤ THEO THỎA THUẬN.....10
1. Điểm giống và khác nhau cơ bản giữa chuyển giao quyền yêu cầu và
chuyển giao nghĩa vụ theo thỏa thuận..................................................10
2. Thông tin nào của bản án cho thấy bà Phượng có nghĩa vụ thanh
tốn cho bà Tú ?.....................................................................................11
3. Đoạn nào của bản án cho thấy nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đã
được chuyển giao cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh ?......................11
4. Suy nghĩ của anh chị về đánh giá trên của tòa án?...........................12

2


5. Nhìn từ góc độ văn bản, người có nghĩa vụ ban đầu có cịn trách
nhiệm đối với người có quyền không khi người thế nghĩa vụ không thực
hiện nghĩa vụ được chuyển giao? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.............12
6. Nhìn từ góc độ quan điểm các tác giả, người có nghĩa vụ ban đầu có

cịn trách nhiệm đối với người có quyền khơng khi người thế nghĩa vụ
không thực hiện nghĩa vụ được chuyển giao? Nêu rõ quan điểm của các
tác giả mà anh/chị biết..........................................................................13
7. Đoạn nào của bản án cho thấy Tòa án theo hướng người có nghĩa vụ
ban đầu khơng cịn trách nhiệm đối với người có quyền?.....................13
8. Kinh nghiệm của pháp luật nước ngồi đối với quan hệ giữa người có
nghĩa vụ ban đầu và người có quyền.....................................................14
9. Suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết trên của Tòa án...............14
10. Trong trường hợp nghĩa vụ của bà Phượng đối với bà Tú có biện pháp
bảo lãnh của người thứ ba thì khi nghĩa vụ được chuyển giao, biện
pháp bảo lãnh có chấm dứt không? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.....15

3


4


 VẤN ĐỀ 1: THỰC HIỆN CƠNG VIỆC KHƠNG CĨ ỦY QUYỀN.
Tình huống: Chủ đầu tư A lập Ban quản lý dự án B để tiến hành
xây dựng một công trình cơng cộng. Khi triển khai, B đã ký hợp đồng với
nhà thầu C mà không nêu rõ trong hợp đồng B đại diện A và cũng khơng
có ủy quyền của A trong khi đó, theo quy định, B khơng được tự ký hợp
đồng với C vì đây là cơng việc của chủ đầu tư A (thực tế Ban quản lý dự
án B khơng có nhiều tài sản để thanh tốn cho C).
1. Thế nào là thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền?
Căn cứ Điều 574 BLDS 2015 quy định về thực hiện khơng có uỷ quyền: “Thực hiện
cơng việc khơng có uỷ quyền là việc một người khơng có nghĩa vụ thực hiện cơng việc
nhưng đã tự nguyện thực hiện cơng việc đó vì lợi ích của người có cơng việc được thực hiện
khi người này khơng biết hoặc biết mà không phản đối”.

VD: Ngày 10/12/2011, A cho B vay số tiền 2.000.000 đồng và B hẹn hai ngày sau sẽ
trả lại cho A. Nhưng hai ngày sau B vẫn chưa có tiền để trả cho A, C thấy vậy, đã thay B trả
lại 2.000.000 đồng cho A. Như vậy, C là người thực hiện công việc không có ủy quyền cịn
B là người có cơng việc được thực hiện.
2. Vì sao thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền là căn cứ
phát sinh nghĩa vụ?
Căn cứ phát sinh nghĩa vụ là những sự kiện xảy ra trong thực tế, đã được pháp luật
dự liệu trước, thừa nhận có giá trị pháp lý và làm phát sinh quan hệ nghĩa vụ dân sự. Tại
Khoản 3 Điều 275 BLDS 2015 đã quy định thực hiện cơng việc khơng có uỷ quyền là một
trong những căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ.
Bởi lẽ thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền làm phát sinh quan hệ nghĩa vụ dân sự
vì đây đều là những hành động bắt nguồn từ sự giúp đỡ, tương trợ lẫn nhau trong cuộc sống,
một người khơng có nghĩa vụ thực hiện cơng việc của người khác nhưng họ tự nguyện thực
hiện cơng việc đó thì đương nhiên sẽ phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa người có cơng việc
được thực hiện và người thực hiện cơng việc. Pháp luật dân sự đã có những quy định rõ về
điều kiện, nội dung thay đổi và chấm dứt thực hiện cơng việc khơng có uỷ quyền từ Điều
574 đến Điều 578 BLDS 2015. Việc quy định chế định này tạo sự ràng buộc pháp lý giữa
người thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền và người có cơng việc được thực hiện; qua đó
nâng cao tinh thần trách nhiệm, đảm bảo quyền và nghĩa vụ cho các bên liên quan.
3. Cho biết điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về
chế định “thực hiện công việc khơng có ủy quyền”
* Về khái niệm:
- Điều 594 BLDS 2005 quy định: “Thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền là việc
một người khơng có nghĩa vụ thực hiện cơng việc nhưng đã tự nguyện thực hiện cơng việc
đó, hồn tồn vì lợi ích của người có cơng việc được thực hiện khi người này không biết
hoặc biết mà không phản đối”. Tuy nhiên, Điều 574 BLDS 2015 đã bỏ đi chữ “hoàn toàn”.
5


 Thay đổi trên là hồn tồn hợp lí vì trong thực tế, có nhiều trường hợp một người

thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền khơng chỉ hồn tồn vì lợi ích của người có cơng
việc được thực hiện mà cịn để đảm bảo cho lợi ích của bản thân.
VD: A nợ B một khoản tiền nhưng đến hạn khơng trả, B đã đến nhà tìm A để địi nợ
nhưng không thành nên đã xảy ra xung đột, mâu thuẫn, C là bố của A vì khơng muốn sự
việc trở phức tạp hơn và ảnh hưởng tới gia đình nên đã đứng ra trả nợ cho A.
* Về nghĩa vụ thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền:
- Khoản 3 Điều 575 BLDS 2015 quy định các trường hợp người thực hiện cơng việc
khơng có ủy quyền khơng cần phải báo cho người có cơng việc được thực hiện về q trình
và kết quả thực hiện cơng việc nếu không biết “nơi cư trú” và không biết “trụ sở” của người
có cơng việc được thực hiện. Cịn Khoản 3 Điều 595 BLDS 2005 thì chỉ quy định về khơng
biết “nơi cư trú”.
 Sự bổ sung trên là hoàn toàn hợp lí vì chủ thể của luật dân sự ngồi cá nhân thì
cịn có pháp nhân. Theo đó, với một pháp nhân thì lại khơng tồn tại khái niệm “nơi cư trú”
mà lại là khái niệm “trụ sở”, tức nơi đặt cơ quan điều hành của pháp nhân đó.
- Khoản 4 Điều 575 BLDS 2015 quy định rõ ràng về trường hợp người có cơng việc
được thực hiện chết, nếu là cá nhân hoặc chấm dứt tồn tại, nếu là pháp nhân thì người thực
hiện cơng việc khơng có ủy quyền phải tiếp tục thực hiện công việc cho đến khi người thừa
kế hoặc người đại diện của người có công việc được thực hiện đã tiếp nhận. Trong khi đó, ở
khoản 4 Điều 595 BLDS 2005 thì lại khơng quy định đối với pháp nhân.
 Sự bổ sung trên là hồn tồn hợp lí vì chủ thể của luật dân sự khơng chỉ có cá
nhân mà cịn bao gồm pháp nhân. Mà đối với pháp nhân, khái niệm “chết” khơng tồn tại mà
thay vào đó là “chấm dứt tồn tại”.
*Về chấm dứt thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền:
- Khoản 4 Điều 578 BLDS 2015 quy định rõ ràng một trong các trường hợp chấm dứt
thực hiện công việc khơng có ủy quyền là “người thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền
chết, nếu là cá nhân hoặc chấm dứt tồn tại, nếu là pháp nhân” trong khi Khoản 4 Điều 598
BLDS 2005 chỉ quy định: “người thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền chết”.
 Sự thay đổi này hồn tồn hợp lí vì có bổ sung thêm quy định đối với pháp nhân.
Theo đó, đối với một pháp nhân thì khơng có khái niệm “chết” mà chỉ có “chấm dứt tồn
tại”.

4. Các điều kiện để áp dụng chế định “thực hiện cơng việc
khơng có ủy quyền” theo BLDS 2015? Phân tích từng điều kiện.
Căn cứ Điều 574 BLDS 2015 quy định về thực hiện khơng có uỷ quyền: “Thực hiện
cơng việc khơng có uỷ quyền là việc một người khơng có nghĩa vụ thực hiện cơng việc
nhưng đã tự nguyện thực hiện cơng việc đó vì lợi ích của người có cơng việc được thực hiện
khi người này không biết hoặc biết mà không phản đối”. Do đó, để áp dụng chế định “thực
hiện cơng việc khơng có ủy quyền”, cần phải thỏa mãn các điều kiện sau:

6


- Thứ nhất, người thực hiện cơng việc hồn tồn tự nguyện khi thực hiện công
việc.Việc thực hiện công việc đó khơng phải là nghĩa vụ bắt buộc của người thực hiện cơng
việc. Về hậu quả pháp lý, họ có thực hiện hay khơng thực hiện cơng việc đó thì cũng không
phải gánh chịu bất cứ chế tài nào. Bởi vì, giữa người có cơng việc và người thực hiện cơng
việc khơng có bất cứ thỏa thuận nào, đồng thời pháp luật cũng khơng có bất cứ quy định nào
buộc một người phải thực hiện một công việc cho người khác.
- Thứ hai, người thực hiện công việc không ủy quyền thực hiện cơng việc vì lợi ích
của người có công việc. Người thực hiện công việc không ủy nếu đã thực hiện công việc
phải tận tâm, tận lực, cố gắng hồn thành cơng việc một cách tốt nhất, khơng cố ý làm trì
trệ, làm sai mục đích cơng việc gây bất lợi cho người có cơng việc.
- Thứ ba, người có cơng việc được thực hiện khơng biết hoặc biết mà khơng phản
đối. Việc người có cơng việc biết mà khơng phản đối thì xem như đã đồng ý cho người khác
thực hiện cơng việc của mình; việc người thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền khơng có
sự thỏa thuận trước với người có cơng việc được thực hiện, nếu người có cơng việc phản đối
thì người kia phải dừng lại, nếu vẫn tiếp tục thực hiện thì được xem như là vi phạm về mặt
pháp lý và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.
- Thứ tư, khi có cơng việc cần thiết, cấp bách mà theo đó, các công việc này cần phải
thực hiện ngay. Nếu không được thực hiện thì người có cơng việc cần được thực hiện hoặc
những người xung quanh sẽ phải chịu hậu quả bất lợi hơn.

5. Trong tình huống trên, sau khi xây dựng xong cơng trình,
nhà thầu C có thể u cầu chủ đầu tư A thực hiện những nghĩa vụ
trên cơ sở các quy định của chế định “thực hiện cơng việc khơng
có ủy quyền” trong BLDS 2015 khơng? Vì sao? Nêu cơ sở pháp lý
khi trả lời.
Trong tình huống trên, sau khi xây dựng xong cơng trình, nhà thầu C không thể yêu
cầu chủ đầu tư A thực hiện những nghĩa vụ trên cơ sở các quy định của chế định “thực hiện
cơng việc khơng có ủy quyền”. Vì căn cứ theo điều 574 BLDS 2015 quy định về thực hiện
khơng có uỷ quyền: “Thực hiện cơng việc khơng có uỷ quyền là việc một người khơng có
nghĩa vụ thực hiện công việc nhưng đã tự nguyện thực hiện cơng việc đó vì lợi ích của
người có cơng việc được thực hiện khi người này không biết hoặc biết mà không phản đối”.
Như vậy, việc xây dựng của nhà thầu C đã không thỏa mãn các điều kiện xác định
thực hiện cơng việc khơng có ủy quyền:
- Nhà thầu C không phải tự nguyện thực hiện việc xây dựng cơng trình mà thơng qua
hợp đồng đã thỏa thuận với B để thực hiện.
- Hơn nữa, nhà thầu C thực hiện xây dựng cơng trình khơng đơn thuần chỉ vì lợi ích
của chủ đầu tư A mà có thể do lợi nhuận đã thỏa thuận với B trong hợp đồng đã ký kết.

7


 VẤN ĐỀ 2: THỰC HIỆN NGHĨA VỤ (THANH TOÁN MỘT KHOẢN
TIỀN)
Tình huống: Ngày 15/11/1973, ơng Quới cho bà Cơ thuê nhà và
nhận tiền thế chân của bà Cô 50.000đ. Nay, ông Quới yêu cầu bà Cô trả
nhà. Bà Cô đồng ý trả nhà và u cầu ơng Quới hồn trả tiền thế chân
(Lưu ý: giá gạo trung bình vào năm 1973 là 137đ/kg và giá gạo trung
bình hiện nay theo Sở tài chính Tp.HCM là 15.000đ/kg).
* Tóm tắt Quyết định số 15/2018/DS-GĐT:
Tranh chấp nghĩa vụ trả tiền trong hợp đồng chuyển nhượng nhà và

quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn là cụ Ngô Quang Bảng và bị đơn là
bà Mai Thị Hương.
Diễn biến vụ việc: Ngày 14/3/1963, cụ Ngô Quang Phúc được cấp
“Giấy chứng nhận quyền sở hữu diện tích 1.010 m 2 tại số 49A phố Trần
Hưng Đạo, thị trấn Quảng Yên, huyện Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh. Sau khi
cụ Phúc chết, ông Ngô Quang Phục được hưởng thừa kế diện tích đất
trên. Ngày 20/10/1982, ơng Phục đã chuyển nhượng thửa đất trên cho vợ
chồng cụ Ngô Quang Bảng. Ngày 26/11/1991, cụ Bảng chuyển nhượng
nhà, đất trên cho vợ chồng bà Mai Hương, nhưng bà Hương chưa thanh
toán hết tiền nhận chuyển nhượng nhà, đất cho cụ Bảng. Ngày
28/6/1996, bà Hương đã chuyển nhượng toàn bộ nhà, đất trên cho vợ
chồng ơng Hồng Văn Chinh, bà Phạm Thị Sáu. Theo nội dung “Giấy biên
nhận tiền” ngày 26/11/1991 thì cụ Bảng thỏa thuận chuyển nhượng nhà,
đất cho vợ chồng bà Hương với số tiền là 5.000.000 đồng. Bà Hương chỉ
mới thanh toán cho cụ Bảng được 4.000.000 đồng trong tổng số
5.000.000 đồng giá trị chuyển nhượng nhà, đất; còn nợ 1.000.000 đồng
tiền nhận chuyển nhượng đất.
Hướng giải quyết của Tòa án:
Tòa án sơ thẩm: Buộc bà Mai Hương phải trả cho cụ Ngô Quang
Bảng tổng số tiền 2.710.000 đồng, trong đó: tiền nợ gốc 1.000.000 đồng,
tiền lãi 1.710.000 đồng.
Tịa án phúc thẩm: giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Tòa án giám đốc thẩm: Căn cứ vào các giấy biên nhận nêu trên thì
bà Hương chỉ mới thanh tốn được 4/5 giá trị chuyển nhượng đất cho cụ
Bảng, số tiền còn nợ tương đương 1/5 giá trị nhà, đất. Do đó, bà Hương
8


phải thanh tốn cho cụ Bảng số tiền cịn nợ tương đương 1/5 giá trị nhà,
đất theo định giá tại thời điểm xét xử sơ thẩm mới đúng với hướng dẫn

tại điểm b2, tiểu mục 2.1, mục 2, phần II Nghị Quyết số 02/2004/NQHĐTP ngày 10/8/2004 của Hội đồng thẩm phán Tịa án nhân dân tối cao.
1. Thơng tư trên cho phép tính lại giá trị khoản tiền phải
thanh tốn như thế nào? Qua trung gian là tài sản gì?
- Thơng tư trên cho phép tính lại giá trị khoản tiền phải thanh toán như sau:
I. Trường hợp đối tượng của nghĩa vụ về tài sản là các khoản tiền, vàng:
1. Đối với nghĩa vụ là các khoản tiền bồi thường, tiền hồn trả, tiền cơng, tiền lương,
tiền chia tài sản, tiền đền bù công sức, tiền cấp dưỡng, tiền vay khơng có lãi, tiền truy thu
thuế, tiền truy thu do thu lợi bất chính thì giải quyết như sau:
a) Nếu việc gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ dân sự xảy ra trước ngày 1-7-1996
và trong thời gian từ thời điểm gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ đến thời điểm xét xử sơ
thẩm mà giá gạo tăng từ 20% trở lên, thì Tồ án quy đổi các khoản tiền đó ra gạo theo giá
gạo loại trung bình ở địa phương (từ đây trở đi gọi tắt là "giá gạo") tại thời điểm gây thiệt
hại hoặc phát sinh nghĩa vụ, rồi tính số lượng gạo đó thành tiền theo giá gạo tại thời điểm
xét xử sơ thẩm để buộc bên có nghĩa vụ về tài sản phải thanh tốn và chịu án phí theo số
tiền đó.
b) Nếu việc gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ xảy ra sau ngày 1-7-1996 hoặc tuy
xảy ra trước ngày 1-7-1996, nhưng trong khoảng thời gian từ thời điểm gây thiệt hại hoặc
phát sinh nghĩa vụ đến thời điểm xét xử sơ thẩm mà giá gạo khơng tăng hay tuy có tăng
nhưng ở mức dưới 20%, thì Tồ án chỉ xác định các khoản tiền đó để buộc bên có nghĩa vụ
phải thanh tốn bằng tiền. Trong trường hợp người có nghĩa vụ có lỗi thì ngồi khoản tiền
nói trên cịn phải trả lãi đối với số tiền chậm trả theo lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng Nhà
nước quy định tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm xét xử sơ thẩm theo quy định
tại Khoản 2 Điều 313 BLDS, trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc pháp luật có quy định
khác.
- Qua đó ta có thể thấy rằng tài sản qua trung gian được dùng để tính lại giá trị khoản
tiền phải thanh tốn chính là gạo trung bình ở địa phương ở thời điểm gây thiệt hại hoặc
phát sinh nghĩa vụ.
2. Đối với tình huống thứ nhất, thực tế ông Quới sẽ phải trả
cho bà Cô khoản tiền cụ thể là bao nhiêu? Nêu rõ cơ sở pháp lý
khi trả lời.

- Đối với tình huống thứ nhất, thực tế ông Quới sẽ phải trả cho bà Cô khoản tiền cụ
thể là 5.475.000 đồng.
- Căn cứ theo Điểm a Điều 1 Mục I trường hợp đối tượng của nghĩa vụ về tài sản là
các khoản tiền, vàng của Thơng tư 01/TTLT ngày 19/6/1997 của Tịa án nhân dân tối cao,

9


Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính hướng dẫn việc xét xử và thi
hành án về tài sản và các quy định liên quan khác.
- Trong tình huống thứ nhất đã nêu, ngày phát sinh nghĩa vụ dân sự giữa ông Quới và
bà Cô là ngày 15/11/1973 tức trước ngày 1/7/1996 và thời điểm từ lúc phát sinh nghĩa vụ
dân sự đến thời điểm xét xử sơ thẩm giá gạo đã tăng hơn 20% (từ 137 đồng đến 15.000
đồng).
+ Lúc này ta quy đổi số tiền 50.000 đồng bà Cô thế chân ra số gạo tại thời điểm phát
sinh nghĩa vụ dân sự. Giá gạo trung bình vào năm 1973 là 137đ/kg nên số lượng gạo tương
ứng là: 50.000 đồng/137 đồng xấp xỉ bằng 365 kg.
+ Sau đó tính 365kg gạo quy ra thành tiền theo giá gạo tại thời điểm bà Cô yêu cầu
ơng Quới hồn trả tiền thế chân. Giá gạo trung bình hiện nay là 15.000 đồng/kg nên số tiền
ơng Quới cần trả là: 15.000 đồng x 365 kg= 5.475.000 đồng. Vậy ông Quới phải trả cho bà
Cô là 5.475.000 đồng.
3. Thơng tư trên có điều chỉnh việc thanh tốn tiền trong
hợp đồng chuyển nhượng bất động sản như trong Quyết định số
15/2018/DS-GĐT khơng? Vì sao?
- Thơng tư trên khơng có điều chỉnh việc thanh toán tiền trong hợp đồng chuyển
nhượng bất động sản như trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT vì thơng tư này điều chỉnh
việc thanh tốn tiền trong 2 trường hợp:
+ Đối tượng của nghĩa vụ về tài sản là các khoản tiền, vàng.
Áp dụng cho khoản tiền bồi thường, tiền hồn trả, tiền cơng, tiền lương, tiền chia tài
sản, tiền đền bù công sức, tiền cấp dưỡng, tiền vay khơng có lãi, tiền truy thu thuế, tiền truy

thu do thu lợi bất chính.
+ Đối tượng của nghĩa vụ về tài sản hiện vật.
4. Đối với tình huống trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT,
nếu giá trị nhà đất được xác định là 1.697.760.000 đồng như Tòa
án cấp sơ thẩm đã làm thì, theo Tịa án nhân dân cấp cao tại Hà
Nội, khoản tiền bà Hương phải thanh toán cho cụ Bảng cụ thể là
bao nhiêu? Vì sao?
- Đối với tình huống trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT, nếu giá trị nhà đất xác
định là 1.697.760.000 đồng của Tòa án cấp sơ thẩm, theo Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà
Nội, khoản tiền bà Hương phải thanh toán cho cụ Bảng cụ thể là: 339.552.000 đồng.
- Vì. Trong bản án có nêu rõ “[3] Căn cứ vào các giấy biên nhận nêu trên thì bà
Hương mới chỉ thanh tốn cho cụ Bằng được 4.000.000 đồng trong tổng số 5.000.000 đồng
giá trị chuyển nhượng nhà, đất; còn nợ 1.000.000 đồng tiền nhận chuyển nhượng đất. Như
vậy, bà Hương mới thanh toán được 4/5 giá trị chuyển nhượng đất cho cụ Bảng, số tiền còn
nợ tương đương 1/5 giá trị nhà, đất. Do đó, bà Hương phải thanh tốn cho cụ Bảng số tiền
còn nợ tương đương 1/5 giá trị nhà, đất theo định giá tại thời điểm xét xử sơ thẩm mới đúng
10


với hướng dẫn tại Điểm b2, tiểu mục 2.1, mục 2, phần II Nghị Quyết số 02/2004/NQ-HĐTP
ngày 10/08/2004 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.
- Giá trị nhà đất được xác định như Tòa án cấp sơ thẩm là: 1.697.760.000 đồng. Vậy
bà Hương phải thanh toán cho cụ Bảng khoản tiền là: 1/5 x 1.697.760.000 đồng=
339.552.000 đồng.
5. Hướng như trên của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội
có tiền lệ chưa? Nêu một tiền lệ (nếu có)?
- Hướng như trên của Tịa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội có tiền lệ.
QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM SỐ 09/HĐTP-DS NGÀY 24/02/2005 VỀ
“VỤ ÁN TRANH CHẤP NHÀ ĐẤT VÀ ĐỊI NỢ”1
* Tóm tắt bản án

- Nguyên đơn: Bà Bùi Thị Lai
- Bị đơn: Ông Phạm Thanh Xuân
- Người có quyền và nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Trần Thị Minh là vợ ông Phạm Thanh Xuân
2. Ông Hoàng Minh Khoa là chồng bà Bùi Thị Lai

* Nội dung vụ án:
Năm 1994 ông Phạm Thanh Xuân vay của bà Bùi Thị Lai 11.500.000 đồng (có giấy
vay nợ, không ghi ngày tháng năm, nhưng theo lời khai của hai bên thì xác định được thời
gian là năm 1994).
Ngày 12-2-1996 ông Phạm Thanh Xuân vay tiếp của bà Lai 128.954.000 đồng.
Ngày 8-8-1996 bà Bùi Thị Lai thống nhất với ông Phạm Thanh Xuân tổng số nợ gốc
và lãi là 188.600.000 đồng và hai bên lập giấy nhượng nhà với nội dung vợ chồng ông Phạm
Thanh Xuân chuyển nhượng nhà 19 Chu Văn An, phường Hồ Lạc, thị xã Móng Cái, tỉnh
Quảng Ninh cho bà Bùi Thị Lai.
Đến ngày 5-8-1997 vợ chồng ông Phạm Thanh Xuân, bà Trần Thị Minh với vợ
chồng bà Bùi Thị Lai, ơng Hồng Minh Khoa lại chốt nợ gốc và lãi của số tiền 188.600.000
đồng lên thành 250.000.000 đồng, đồng thời vợ chồng ông Phạm Thanh Xuân, bà Trần Thị
Minh với vợ chồng bà Bùi Thị Lai, ơng Hồng Minh Khoa lại thoả thuận viết đơn xin
chuyển nhượng quyền sử dụng đất và lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với
giá 250.000.000 đồng.
Sau khi lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vào ngày 5-8-1997, vợ
chồng bà Lai vẫn tính lãi số tiền 250.000.000 đồng trong thời gian 2 tháng thành 6.000.000
1 />11


đồng để cộng vào số tiền 44.000.000 đồng vợ chồng ông Phạm Thanh Xuân vay vào ngày
6-11-1997 thành 50.000.000 đồng.
* Hướng giải quyết của tòa án:
Vụ án này phải giải quyết cả quan hệ vay nợ và quan hệ mua bán nhà, đất mới đúng,

nhưng bản án dân sự sơ thẩm số 02 ngày 10-5-2000 của Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh
và bản án dân sự phúc thẩm số 199 ngày 25-12-2001 của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân
tối cao tại Hà Nội chỉ tập trung xem xét tính hợp pháp của quan hệ mua bán nhà, chuyển
nhượng quyền sử dụng đất mà chưa xem xét giải quyết quan hệ vay nợ theo quy định của
pháp luật là chưa đúng. Do đó, phải huỷ bản án dân sự phúc thẩm số 199 ngày 25-12-2001
của Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao tại Hà Nội và bản án dân sự sơ thẩm số 02
ngày 10-5-2000 của Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh để giải quyết lại khoản vay nợ, tính
lại lãi suất của số tiền gốc mà bà Bùi Thị Lai đã cho vợ chồng ông Phạm Thanh Xuân vay
theo đúng quy định pháp luật. Đồng thời xác minh, thu thập chứng cứ về quá trình làm thủ
tục giấy tờ mua bán nhà, chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa các bên có được tiến hành
theo đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định khơng. Trong trường hợp có đủ căn cứ xác
định việc mua bán chuyển nhượng nhà và quyền sử dụng đất là hợp pháp và công nhận hợp
đồng mua bán nhà đất giữa các bên thì phải lấy giá nhà, đất thoả thuận trong hợp đồng trừ đi
số tiền nợ gốc và lãi; trường hợp còn thiếu bên mua chưa trả đủ thì phần cịn thiếu (tính theo
tỷ lệ % giá trị nhà đất) bên mua phải thanh toán cho bên bán theo giá thị trường tại địa
phương ở thời điểm xét xử sơ thẩm lại. Đây chính là nội dung của tiền lệ cho hướng giải
quyết của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội trong Quyết định số 15/2018/DS-GĐT.
 VẤN ĐỀ 3: CHUYỂN GIAO NGHĨA VỤ THEO THỎA THUẬN
Tóm tắt Bản án số 148/2007/DSST:
Bản án số 148/2007/DSST ngày 26/09/2007 về vụ việc tranh chấp
hợp đồng vay tài sản. Vụ việc như sau: Bà Tú và bà Phượng thỏa thuận
vay tiền với tổng số tiền vay là 615.000.000 đồng, có trả lãi hàng tháng.
Đến tháng 5/2005, bên vay là bà Phượng ngưng trả lãi. Sau đó, bà Tú đã
lập hợp đồng vay với bà Ngọc số tiền 465.000.000 đồng và vợ chồng bà
Loan, ông Thạnh với số tiền 150.000.000 đồng. Bà Tú yêu cầu bên vay trả
lại tài sản cho mình.
Hướng xét xử:
Tịa án xét thấy, phía bà Phượng phải có trách nhiệm thực hiện
nghĩa vụ, tuy nhiên kể từ thời điểm bà Tú xác lập hợp đồng vay với bà
Ngọc, bà Loan và ơng Thạnh thì nghĩa vụ trả nợ vay của bà Phượng với

bà Tú chấm dứt, làm phát sinh nghĩa vụ của bên thế nghĩa vụ theo hợp
đồng vay tiền đã ký. Xác định việc bà Tú u cầu bà Phượng có trách
nhiệm thanh tốn nợ cho bà là khơng có căn cứ chấp nhận.
12


1. Điểm giống và khác nhau cơ bản giữa chuyển giao quyền
yêu cầu và chuyển giao nghĩa vụ theo thỏa thuận.
* Giống nhau:
+ Đều có xuất hiện của người thứ ba.
+ Không chuyển giao các quyền và nghĩa vụ gắn với nhân thân.
+ Hậu quả pháp lý: làm chấm dứt tư cách chủ thể của người
chuyển giao quyền yêu cầu hoặc người chuyển giao nghĩa vụ dân sự ở
người được chuyển giao.
* Khác nhau:
Chuyển giao quyền Chuyển giao nghĩa vụ
yêu cầu
dân sự
Cơ sở pháp Điều 365-369 BLDS 2015
Điều 370-371 BLDS 2015

- Chuyển giao quyền yêu - Chuyển giao nghĩa vụ dân
cầu là sự thỏa thuận giữa sự là sự thỏa thuận giữa
người có quyền trong quan người có nghĩa vụ trong
hệ nghĩa vụ dân sự với quan hệ nghĩa vụ dân sự với
người thứ ba nhằm chuyển người thứ ba trên cơ sở có
giao quyền yêu cầu cho sự đồng ý của người có
người thứ ba đó. Người thứ quyền nhằm chuyển nghĩa
Khái
ba đó trong trường hợp này vụ cho người thứ ba đó.

niệm
gọi là người thế quyền, trở Người thứ ba gọi là người
thành người có quyền, thế nghĩa vụ trở thành người
được quyền yêu cầu người có nghĩa vụ mới phải thực
có nghĩa vụ phải thực hiện hiện nghĩa vụ theo yêu cầu
nghĩa vụ theo phạm vi của người có quyền trong
quyền
yêu
cầu
được phạm vi nghĩa vụ đã được
chuyển giao.
xác định.
Đối tượng - Bên có quyền là người có - Đối với chuyển giao nghĩa

quyền quyền chuyển giao
vụ dân sự thì bên có nghĩa
chuyển
vụ là người có quyền
giao
chuyển giao.
Ngun
- u cầu khơng cần có sự - Buộc phải có sự đồng ý
tắc chuyển đồng ý của người có nghĩa của bên có quyền. Quy định
giao
vụ vì trong mọi trường hợp này rất phù hợp vì trong
người có nghĩa vụ đều phải quan hệ nghĩa vụ, quyền
thực hiện đúng nội dung của một bên có được đảm
của nghĩa vụ đã được xác bảo hay khơng hồn tồn
định. Tuy nhiên người phụ thuộc vào việc thực
chuyển quyền phải thông hiện nghĩa vụ của bên kia.

báo cho người có nghĩa vụ Người thực hiện nghĩa vụ khi
biết về việc chuyển giao chuyển giao nghĩa vụ phải
quyền yêu cầu.
đảm bảo cho người kế thừa
13


Hiệu
của
pháp
đảm

- Nếu chuyển giao quyền
yêu cầu mà quyền yêu cầu
lực có biện pháp bảo đảm thực
biện hiện nghĩa vụ kèm theo thì
bảo biện pháp bảo đảm được
chuyển giao sang người
thế quyền.

nghĩa vụ đó có khả năng
thực hiện nghĩa vụ. Khi
người có quyền đồng ý, việc
chuyển giao mới có thể
được thực hiện. Người
chuyển giao nghĩa vụ không
cần thông báo cho người có
quyền.
- Đối với chuyển giao nghĩa
vụ theo thỏa thuận, nếu

nghĩa vụ thực hiện có biện
pháp bảo đảm được chuyển
giao thì biện pháp bảo đảm
đó đương nhiên chấm dứt
(trừ trường hợp các bên
khơng có thỏa thuận khác).

2. Thơng tin nào của bản án cho thấy bà Phượng có nghĩa vụ
thanh tốn cho bà Tú ?
Đoạn 2 trang 3 của bản án có ghi:
“Theo các biên nhận tiền do phía bà Tú cung cấp thì chính bà Phượng là người trực
tiếp nhận tiền của bà Tú vào năm 2003 với tổng số tiền là 555.000.000 đồng và theo biên
bản nhận ngày 24/4/2004 thể hiện bà Phượng nhận của bà Lê Thị Nhàn số tiền 615.000.000
đồng. Phía bà Phượng khơng cung cấp được chứng cứ xác định bà Ngọc thỏa thuận vay tiền
bà Tú. Cũng theo lời khai của bà Phượng tháng 4/2014 do bà Loan, ơng Thạnh, bà Ngọc
khơng có tiền trả cho bà Tú để trả Ngân hàng nên bà Phượng cùng bà Tú vay nóng bên
ngồi để trả nợ Ngân hàng. Xác định bà Phượng là người xác lập quan hệ vay tiền với bà
Tú.”.
3. Đoạn nào của bản án cho thấy nghĩa vụ trả nợ của bà
Phượng đã được chuyển giao cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh
?
Đoạn 4 trang 3 của bản án có ghi:
“Xét thấy hợp đồng vay tiền giữa bà Phượng và bà Tú, Phía bà Phượng đã vi phạm
thanh tốn nợ vay khơng trả vốn, lãi cho bà Tú, lẽ ra phía bà Phượng phải có trách nhiệm
thực hiện. Tuy nhiên, phía bà Tú đã chấp nhận cho bà Phượng chuyển giao nghĩa vụ cho bà
Ngọc, bà Loan và ông Thạnh thể hiện qua việc bà Tú đã lập hợp đồng cho bà Ngọc vay với
số tiền 465.000.000 đồng và hợp đồng cho bà Loan, ông Thạch vay số tiền 150.000.000
đồng vào ngày 12/05/2005. Như vậy, kể từ thời điểm bà Tú xác lập hợp đồng vay với bà
Ngọc, bà Loan và ông Thạch thì nghĩa vụ trả nợ vay của bà Phượng với bà Tú đã chấm dứt,
làm phát sinh nghĩa vụ của bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh đối với bà Tú theo hợp đồng đã


14


ký. Việc bà Tú yêu cầu bà Phượng thanh toán nợ cho bà là điều khơng có căn cứ chấp
nhận”.
4. Suy nghĩ của anh chị về đánh giá trên của tịa án?
Đánh giá trên của tịa án là hồn tồn hợp lý. Tòa án đã xác định
nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đã được chuyển giao sang cho bà Ngọc,
bà Loan và ơng Thạnh là có căn cứ. Theo Điều 315 BLDS 2015 bên có
nghĩa vụ có thể chuyển giao nghĩa vụ dân sự cho người thế nghĩa vụ thực
hiện nếu được bên có quyền đồng ý và người thế nghĩa vụ sẽ trở thành
bên có nghĩa vụ, trong trường hợp này, bà Tú đã chấp nhận cho bà
Phượng chuyển giao nghĩa vụ cho bà Ngọc bà Loan và ông Thạnh thể
hiện qua việc bà Tú xác lập hợp đồng cho bà Ngọc vay 465.000.000 đồng
và hợp đồng cho bà Loan, ông Thạnh vay số tiền 150.000.000 đồng vào
ngày 12/05/2005. Điều đó được thể hiện người có quyền là bà Tú đã đồng
ý với việc chuyển giao này. Khi chuyển giao nghĩa vụ, theo thỏa thuận
người có nghĩa vụ ban đầu là bà Phượng sẽ không phải chịu trách nhiệm
liên đới nữa mà thay vào đó là bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh sẽ trở
thành người thay thế nghĩa vụ có trách nhiệm trả số nợ cịn thiếu lại cho
bà Tú.
5. Nhìn từ góc độ văn bản, người có nghĩa vụ ban đầu có cịn
trách nhiệm đối với người có quyền khơng khi người thế nghĩa vụ
khơng thực hiện nghĩa vụ được chuyển giao? Nêu cơ sở pháp lý
khi trả lời.
Căn cứ tại Điều 367 BLDS 2015: “Người chuyển giao quyền yêu cầu không phải
chịu trách nhiệm về khả năng thực hiện nghĩa vụ sau khi chuyển giao yêu cầu, trừ trường
hợp có thỏa thuận khác” và Khoản 2 Điều 370 BLDS 2015: “Khi được chuyển giao nghĩa
vụ thì người thế nghĩa vụ trở thành bên có nghĩa vụ”.

+ Ta thấy rằng nghĩa vụ khi được chuyển giao từ chủ thể này sang chủ thể khác thông
qua sự thỏa thuận giữa người có nghĩa vụ và người thế nghĩa vụ cùng với sự đồng ý của
người có quyền với việc thay thế người mới để thực hiện nghĩa vụ thì người có nghĩa vụ ban
đầu sẽ chấm dứt mọi nghĩa vụ đối với người có quyền, trừ trường hợp các bên có những
thỏa thuận khác, và nghĩa vụ sẽ đó được chuyển giao cho người thế nghĩa vụ.
+ Tại Khoản 1 Điều 370 BLDS 2015: “Bên có nghĩa vụ có thể chuyển giao nghĩa vụ
cho người thế nghĩa vụ nếu được bên có quyền đồng ý, trừ trường hợp nghĩa vụ gắn liền với
nhân thân của bên có nghĩa vụ hoặc pháp luật có quy định khơng được chuyển giao nghĩa
vụ” có nghĩa là bên có nghĩa vụ chuyển giao nghĩa vụ cho người thế quyền thì các bên
thống nhất ý chí và cần có sự đồng ý của bên có quyền bởi vì khả năng thực hiện nghĩa vụ lệ
thuộc vào người có nghĩa vụ, cụ thể người có nghĩa có thể thực hiện được nghĩa vụ nhưng
chưa chắc người thế nghĩa vụ thực hiện được nghĩa vụ. Cụ thể, trong bản án “Bà Phượng
cho biết đã cho 2 người chị của Phượng vay lại gồm: Phùng Thị Bích Ngọc vay
15


465.000.000đ và Phùng Thị Bích Loan cùng chồng là Trần Phú Thạnh vay 150.000.000đ.
Bà Tú đã lập hợp đồng vay với bà Ngọc và vợ chồng bà Loan, ông Thạnh” qua đó bà Tú đã
có sự đồng ý cho việc chuyển nghĩa vụ từ bà Phượng sang bà Ngọc, bà Loan và ơng Thạnh.
+ Ngồi ra, nếu giữa người có quyền và người có nghĩa vụ ban đầu thỏa thuận với
nhau, người có nghĩa vụ ban đầu sẽ phải thực hiện nghĩa vụ nếu người thế nghĩa vụ thực
hiện không đúng, khơng đủ nghĩa vụ của mình.
6. Nhìn từ góc độ quan điểm các tác giả, người có nghĩa vụ
ban đầu có cịn trách nhiệm đối với người có quyền không khi
người thế nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ được chuyển giao?
Nêu rõ quan điểm của các tác giả mà anh/chị biết.
Nhìn từ góc độ quan điểm các tác giả, người có nghĩa vụ ban đầu khơng cịn trách
nhiệm đối với người có quyền khi người thế nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ được
chuyển giao.
- Quan điểm của tác giả Chế Mỹ Phương Đài: “Trên cơ sở thỏa thuận, với sự đồng ý

của bên có quyền, người thứ ba thay thế người có nghĩa vụ trước đó trở thành người có
nghĩa vụ mới hay cịn gọi là người thế nghĩa vụ. Người có nghĩa vụ chấm dứt tồn bộ mối
quan hệ nghĩa vụ với bên có quyền. Sau khi việc chuyển giao nghĩa vụ có hiệu lực, người có
quyền chỉ được phép yêu cầu người thế nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ nên người đã chuyển
giao nghĩa vụ không phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa
vụ”2.
- Quan điểm của PGS.TS Đỗ Văn Đại “Nếu cho rằng người có nghĩa vụ ban đầu vẫn
có trách nhiệm đối với người có quyền thì chúng ta không thấy sự khác nhau giữa chuyển
giao nghĩa vụ với thực hiện nghĩa vụ dân sự thông qua người thứ ba” 3. Do vậy, để chuyển
giao nghĩa vụ là một chế định độc lập với chế định thực hiện nghĩa vụ dân sự thông qua
người thứ ba, cần xác định rõ chuyển giao nghĩa vụ giải phóng người có nghĩa vụ ban đầu,
trừ khi có bên có thoả thuận khác.
7. Đoạn nào của bản án cho thấy Tòa án theo hướng người
có nghĩa vụ ban đầu khơng cịn trách nhiệm đối với người có
quyền?
Đoạn của bản án cho thấy Tịa án theo hướng người có nghĩa vụ ban đầu khơng cịn
trách nhiệm đối với người có quyền:
“Như vậy, kể từ thời điểm bà Tú xác lập hợp đồng vay với bà Ngọc, bà Loan và ơng
Thạnh thì nghĩa vụ trả nợ vay của bà Phượng và bà Tú đã chấm dứt, làm phát sinh nghĩa vụ
của bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh đối với bà Tú theo hợp đồng vay tiền đã ký. Việc bà Tú
yêu cầu bà Phượng có trách nhiệm thanh tốn cho bà là khơng có căn cứ chấp nhận”.

2 Giáo trình về Pháp luật hợp đồng và Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
3 Đỗ Văn Đại (2017), tlđd (1), tr.642.
16


“Đối với hợp đồng vay giữa bà Ngọc và bà Tú, phía bà Ngọc đã vi phạm nghĩa vụ
khơng trả lãi và vốn kể từ ngày ký hợp đồng (12/5/2005). Bà Tú khởi kiện địi nợ là có căn
cứ, phù hợp quy định tại Điều 474 BLDS 2005”.

“Việc bà Tú giữ giấy chứng minh Hải quan của bà Phượng theo thỏa thuận. Phía bà
Phượng khơng có nghĩa vụ trả nợ cho bà Tú, buộc bà Tú hoàn trả lại cho bà Phượng giấy
chứng minh Hải quan”.
8. Kinh nghiệm của pháp luật nước ngồi đối với quan hệ
giữa người có nghĩa vụ ban đầu và người có quyền.
- Xét về điều kiện để chuyển giao nghĩa vụ có giá trị pháp lý.
Sự đồng ý của bên có quyền là điều kiện cần thiết để chuyển giao nghĩa vụ theo thoả
thuận có giá trị pháp lý, cũng như để bảo đảm quyền lợi của bên có quyền. Khơng chỉ pháp
luật Việt Nam mà pháp luật nước ngoài cũng xây dựng chế định tương tự để quy định về
vấn đề này.
Ví dụ: Điều 9.2.3 Bộ nguyên tắc Unidroit quy định: “Việc chuyển giao nghĩa vụ theo
thoả thuận giữa người có nghĩa vụ ban đầu và người có nghĩa vụ mới phải có sự đồng ý của
người có quyền”.
Khoản 1 Điều 12.101 Bộ nguyên tắc Châu Âu về hợp đồng quy định: “Với sự đồng ý
của người có quyền và người có nghĩa vụ, người thứ ba có thể cam kết thay thế người có
nghĩa vụ”.
- Xét về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể liên quan.
“Thực tế cho thấy, quy định trong các hệ thống luật tương đối khác nhau. Ở châu Âu,
một số nước quy định người có nghĩa vụ ban đầu được giải phóng hồn tồn nhưng một số
nước lại quy định ngược lại theo hướng người thứ ba là người có nghĩa vụ bổ sung.
Theo Bộ nguyên tắc Unidroit (Điều 9.2.5): “Người có quyền có thể giải phóng nghĩa
vụ cho người có nghĩa vụ ban đầu”. Như vậy, người có quyền có thể giải phóng hồn tồn
nghĩa vụ cho người có nghĩa vụ ban đầu. “Người có quyền cũng có thể quyết định là người
có nghĩa vụ ban đầu vẫn là người có nghĩa vụ trong trường hợp người có nghĩa vụ mới
khơng thực hiện đúng nghĩa vụ của mình”. Điều đó có nghĩa là người có quyền có thể lựa
chọn một khả năng khác, đó là chấp nhận việc chuyển giao nghĩa vụ mới, nhưng người có
quyền bảo lưu quyền yêu cầu đối với người có nghĩa vụ ban đầu.Vẫn theo Bộ nguyên tắc
Unidroit: “Trong mọi trường hợp khác, người có nghĩa vụ ban đầu và người có nghĩa vụ
mới phải liên đới chịu trách nhiệm”. Quy định tại điều này thể hiện rõ là giải pháp cuối cùng
cũng là giải pháp được áp dụng trong trường hợp người có quyền khơng có quyền quyết

định nào. Nói cách khác, nếu người có quyền khơng nêu rõ ý định giải phóng người có
nghĩa vụ ban đầu cũng khơng quyết định là người có nghĩa vụ ban đầu và người có nghĩa vụ
mới phải chịu trách nhiệm liên đới về việc thực hiện nghĩa vụ. Tuy nhiên, theo Bộ nguyên
tắc Châu Âu về hợp đồng thì việc chuyển giao nghĩa vụ giải phóng người có nghĩa vụ ban
đầu (Điều 12.10): “Người có nghĩa vụ ban đầu khơng cịn bị ràng buộc bởi các nghĩa vụ của
họ”.
17


Điều 266 BLDS Đức có viết: “The obligor is not entitled to render part
performance.” - “Người có nghĩa vụ khơng có quyền thực hiện cơng việc.”4
9. Suy nghĩ của anh chị về hướng giải quyết trên của Tòa án.
Hướng giải quyết trên của Tồ án là hợp lý. Vì: Theo quy định tại Khoản 1 Điều
370 BLDS 2015: “Bên có nghĩa vụ có thể chuyển giao nghĩa vụ cho người thế nghĩa vụ nếu
được bên có quyền đồng ý, trừ trường hợp nghĩa vụ gắn liền với nhân thân của bên có
nghĩa vụ hoặc pháp luật có quy định khơng được chuyển giao nghĩa vụ.”
Trong trường hợp này, Tòa chứng minh thông qua việc khẳng định việc chuyển giao
nghĩa vụ trên là hồn tồn có sự chấp thuận của bà Tú (bên có quyền). Cụ thể: “Phía bà Tú
đã chấp nhận cho bà Phượng chuyển giao nghĩa vụ trả nợ cho bà Ngọc, bà Loan và ông
Thạnh thể hiện qua việc bà Tú đã lập hợp đồng cho bà Ngọc vay số tiền 465.000.000 đồng
và hợp đồng cho bà Loan, ông Thạnh vay số tiền 150.000.000 đồng vào ngày 12/5/2005.”.
Như vậy, “Khi được chuyển giao nghĩa vụ thì người thế nghĩa vụ trở thành bên có nghĩa
vụ”.
Tịa khẳng định bà Phượng khơng cịn bị ràng buộc bởi các nghĩa vụ đã được
chuyển giao. Cụ thể: “Như vậy, kể từ thời điểm bà Tú xác lập hợp đồng vay với bà Ngọc, bà
Loan và ơng Thạnh thì nghĩa vụ trả nợ vay của bà Phượng đối với bà Tú đã chấm dứt, làm
phát sinh nghĩa vụ của bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh đối với bà Tú theo hợp đồng vay
tiền đã ký. Việc bà Tú yêu cầu bà Phượng có trách nhiệm thanh tốn nợ cho bà là khơng có
căn cứ chấp nhận”. Điều này khơng chỉ có ý nghĩa bảo vệ quyền lợi cho bà Phượng, mà còn
thể hiện cách giải quyết hợp lý của Toà án khi phân định “chuyển giao nghĩa vụ là một chế

định độc lập với chế định thực hiện nghĩa vụ thông qua người thứ ba” trong tình thế pháp
luật nước nhà chưa quy định rõ ràng về vấn đề này.
10. Trong trường hợp nghĩa vụ của bà Phượng đối với bà Tú
có biện pháp bảo lãnh của người thứ ba thì khi nghĩa vụ được
chuyển giao, biện pháp bảo lãnh có chấm dứt không? Nêu rõ cơ
sở pháp lý khi trả lời.
Trường hợp nghĩa vụ của bà Phượng đối với bà Tú có biện pháp bảo lãnh của người
thứ ba thì khi nghĩa vụ được chuyển giao, biện pháp bảo lãnh sẽ chấm dứt. Theo quy định
tại Khoản 1 Điều 335 BLDS 2015:“Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo
lãnh) cam kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ
thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh)”. Khi chuyển giao nghĩa vụ,
người phải chịu trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ thay đổi, thì nghĩa vụ của bên nhận bảo lãnh
(người có nghĩa vụ ban đầu) chấm dứt. Khoản 1 Điều 343, bảo lãnh chấm dứt khi “nghĩa vụ
được bảo lãnh chấm dứt”, mà bảo lãnh chính là một trong những biện pháp bảo đảm, do đó
theo quy định tại Điều 371:“Trường hợp nghĩa vụ có biện pháp bảo đảm được chuyển giao
thì biện pháp bảo đảm đó chấm dứt, trừ trường hợp có thỏa thuận khác”, và trong quy định

4 Burgerliches Gesetbuch
18


này vẫn có trường hợp ngoại lệ đối với việc các bên có thỏa thuận khác thì pháp luật sẽ tơn
trọng vào sự thống nhất ý chí và thỏa thuận giữa các bên.

19



×