Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN CỦA NGƯỜI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (593.65 KB, 17 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HCM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA

TIỂU LUẬN MÔN HỌC
TRIẾT HỌC MÁC LÊNIN

ĐỀ TÀI

NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO VÀ
ẢNH HƯỞNG CỦA TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI
SỐNG TINH THẦN CỦA NGƯỜI VIỆT NAM

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2021


MỤC LỤC

MỤC LỤC 1
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................2
CHƢƠNG 1: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO ....................4
2.1. Sự ra đời của Phật giáo .....................................................................................4
2.1.1. Hoàn cảnh ra đời của Phật giáo .................................................................4
2.1.2. Thân thế và sự nghiệp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni ...........................4
2.2. Những tƣ tƣởng triết học cơ bản của Phật giáo ................................................5
2.2.1. Quan điểm của Phật giáo về thế giới quan................................................5
2.2.2. Quan điểm của Phật giáo về nhân sinh quan ............................................6
CHƢƠNG 2: ẢNH HƢỞNG CỦA TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG
TINH THẦN CỦA NGƢỜI VIỆT NAM ..................................................................10
2.1. Phật giáo và tín ngƣỡng dân gian ...................................................................10
2.2. Phật giáo và tƣ tƣởng, đạo lý ngƣời Việt .......................................................11
2.2.1. Ảnh hƣởng của Phật giáo về tƣ tƣởng ....................................................11


2.2.2. Ảnh hƣởng của Phật giáo về đạo lý ........................................................11
2.3. Phật giáo và phong tục, tập quán ngƣời Việt .................................................11
2.3.1. Ảnh hƣởng của Phật giáo qua tập tục ăn chay, phóng sinh, bố thí.........11
2.3.2. Ảnh hƣởng của Phật giáo qua tập tục cúng rằm, mồng một và lễ chùa .12
2.4. Phật giáo và lối sống của thanh niên hiện nay ...............................................12
2.5. Phật giáo trong thời đại công nghệ .................................................................13
2.6. Phật giáo trong xã hội Việt Nam hiện nay .....................................................13
CHƢƠNG 3: KẾT LUẬN..........................................................................................15
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..........................................................................................16

1


MỞ ĐẦU
Đạo Phật là một trong những học thuyết Triết học – tôn giáo lớn nhất trên thế
giới, tồn tại rất lâu đời. Hệ thống giáo lý của nó rất đồ sộ và số lƣợng phật tử đông
đảo đƣợc phân bố rộng khắp. Đạo phật đƣợc truyền bá vào nƣớc ta vào khoảng thế
kỷ II sau công nguyên và đã nhanh chóng trở thành một tơn giáo có ảnh hƣởng sâu
sắc đến đời sống tinh thần của con ngƣời Việt Nam, bên cạnh đạo Nho, đạo Lão,
đạo Thiên chúa. Do có nhiều điểm tƣơng đồng với tín ngƣỡng, văn hóa bản địa nên
Phật giáo đã nhanh chóng trở thành một thành yếu tố tạo nên bản sắc văn hóa Việt
Nam. Theo dòng chảy lịch sử, tinh thần từ bi hỷ xả, khoan dung, độ lƣợng, hịa bình
hịa hợp, hƣớng thiện, giải thoát con ngƣời khỏi đau khổ... của Phật giáo đã thấm
trong nếp sống, nếp nghĩ của đại đa số ngƣời Việt Nam.
Ngày nay, xã hội Việt Nam đứng trƣớc nhiều cơ hội cho sự phát triển giàu
mạnh, cùng với đó là rất nhiều khó khăn, thách thức. Q trình phát triển chịu ảnh
hƣởng hai mặt tích cực và tiêu cực của cơ chế thị trƣờng, hội nhập kinh tế quốc tế
kéo theo xu thế tồn cầu hóa, mâu thuẫn của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội...
khiến cho đời sống tinh thần con ngƣời có nhiều chao đảo, bất an. Trong bối cảnh
đó, Phật giáo với con đƣờng thoát khổ đã trở thành một phần đời sống tinh thần của

một bộ phận không nhỏ quần chúng nhân dân. Việc phát huy vai trò của Phật giáo
với những giá trị nhân bản có vai trị hết sức quan trọng trong việc giải thoát cho
con ngƣời, đáp ứng đƣợc nhu cầu tâm linh, góp phần giải tỏa nỗi đau khổ tinh thần
và nỗi thất vọng trong lòng ngƣời, lập lại trạng thái cân bằng nhất định cho đời sống
tinh thần của con ngƣời.
Phật giáo dễ dàng đi vào lòng ngƣời, có tác dụng hồn thiện nhân cách đạo
đức, hƣớng con ngƣời đến lối sống vị tha, bình đẳng và bác ái. Phật giáo đã trở
thành một trong những hệ tƣ tƣởng – tơn giáo có sức sống lâu dài, tồn tại cho đến
ngày nay, đã ảnh hƣởng sâu sắc đối với đời sống tinh thần con ngƣời Việt Nam.
Phật giáo Việt Nam luôn gắn liền vận mệnh đất nƣớc, thăng hoa cùng dân tộc trong
mọi hoàn cảnh và trải qua mọi thời đại. Phật giáo Việt Nam là một tơn giáo có
truyền thống u nƣớc, gắn bó với dân tộc.
Vì vậy, việc nghiên cứu lịch sử, giáo lý, và sự tác động của Phật giáo đối với
thế giới quan, nhân sinh quan của con ngƣời là hết sức cần thiết. Việc đi sâu nghiên
cứu, đánh giá những mặt hạn chế cũng nhƣ tiến bộ, nhân đạo của Phật giáo giúp ta
hiểu rõ tâm lý ngƣời dân hơn và qua đó tìm ra đƣợc một phƣơng cách để hƣớng đạo
cho họ một nhân cách chân chính, đúng đắn, theo đạo để làm điều thiện, tránh cái
ác, hình thành nhân cách con ngƣời tốt hơn chứ khơng trở nên mê tín dị đoan gây
ảnh hƣởng xấu đến sức khoẻ, niềm tin của quần chúng nhân dân.
Lĩnh vực nghiên cứu Phật giáo hiện nay tƣơng đối đƣợc mở rộng, ngoài việc
nghiên cứu giáo lý, kinh điển, lịch sử ... của Phật giáo ra còn đề cập đến các lĩnh
vực Triết học, Sử học, Tâm lý học, Khảo cổ học, Xã hội học, Dân tộc học, Văn học,

2


Nghệ thuật ... Phật học đã trở thành một trong những khoa học tƣơng đối quan trọng
trong khoa học xã hội, trƣớc mắt có quan hệ mật thiết với xã hội học.
Hơn nữa quá trình, Phật giáo phát triển, truyền bá ở Việt Nam gắn liền với
quá trình hình thành, phát triển tƣ tƣởng, đạo đức của con ngƣời. Vì vậy khi nghiên

cứu lịch sử, tƣ tƣởng, đạo đức Việt Nam không thể không đề cập đến Phật giáo và
những mối quan hệ, tác động qua lại giữa chúng.
Tóm lại, nghiên cứu Phật giáo và ảnh hƣởng của nó đến đời sống tinh thần
của ngƣời Việt Nam là một nội dung quan trọng nhằm tìm hiểu lịch sử cũng nhƣ
định hƣớng cho sự phát triển nhân cách, tƣ duy con ngƣời Việt Nam trong tƣơng lai.
Đề tài nghiên cứu về ảnh hƣởng của triết học Phật giáo đến đời sống tinh
thần của ngƣời Việt Nam gồm 2 nội dung chính:
- Chƣơng 1: Nội dung cơ bản của Triết học Phật giáo
- Chƣơng 2: Ảnh hƣởng của triết học Phật giáo đến đời sống tinh thần của
ngƣời Việt Nam

3


CHƢƠNG 1: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO
2.1. Sự ra đời của Phật giáo
2.1.1. Hoàn cảnh ra đời của Phật giáo
Xã hội Ấn độ cổ đại ra đời từ rất sớm và là nơi xuất hiện nền văn minh sông
Ấn (khoảng thế kỉ thứ XXV TCN). Đến thế kỉ thứ XV TCN, có sự xâm nhập của
ngƣời Arya vào khu vực của ngƣời bản địa, ngƣời Dravida, hình thành nên các quốc
gia Ấn độ với nền văn hóa mới - nền văn hóa Véda.
Đặc điểm nổi bật của nền kinh tế - xã hội Ấn độ cổ đại là mơ hình “cơng xã
nơng thơn”. Đặc trƣng của nó là ruộng đất thuộc quyền sở hữu của nhà nƣớc, dƣới
sự cai trị của các Đế vƣơng, mà gắn liền với nó là sự bần cùng của ngƣời dân trong
cơng xã. Xã hội thời kì này bị phân chia thành bốn đẳng cấp chính: tăng lữ, q tộc,
bình dân tự do và nơ lệ cung đình. Mỗi đẳng cấp giữ một thế sinh hoạt riêng và có
phân biệt sâu sắc. Trong khi những ngƣời Bà-la-mơn có uy tín tuyệt đối trong xã
hội và đƣợc hƣởng rất nhiều đặc quyền thì đẳng cấp nơ lệ lại có cuộc sống cơ cực
lầm than. Giữa các đẳng cấp tồn tại mẫu thuẫn gay gắt mà kết quả là những cuộc
đấu tranh giai cấp giữa các đẳng cấp trong xã hội. Trong cuộc đấu tranh ấy, nhiều

tôn giáo và trƣờng phái triết học ra đời, trong đó có Phật giáo.
Phật giáo lí giải căn ngun của nỗi khổ và tìm đƣờng giải thốt cho con
ngƣời khỏi nỗi khổ triền miên trong xã hội nơ lệ Ấn độ. Vì chống lại sự ngự trị của
đạo Bà-la-môn và kinh Véda nên Phật giáo đƣợc xem là dịng triết học khơng chính
thống.
2.1.2. Thân thế và sự nghiệp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni
Ngƣời sáng lập ra Phật giáo là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, tên thật là Tất
Đạt Đa (Siddhattha), họ là Cù Đàm (Goutama), thuộc bộ tộc Sakya. Ngƣời sinh
ngày 15 tháng 4 năm 563 TCN, là thái tử của vua Tịnh Phạn, một nƣớc nhỏ nằm ở
Bắc Ấn Độ.
Nhìn rõ nỗi khổ của chúng sinh, Tất Đạt Đa từ bỏ cuộc sống cao sang quyền
quý, dòng dõi Đế vƣơng, quyết xuất gia tầm đạo để tìm đƣờng giải thốt con ngƣời
khỏi nỗi khổ. Ròng rã suốt sáu năm tu hành, ở tuổi 35, Ngƣời đã giác ngộ tìm ra
chân lí “Tứ diệu đế” và “Thập nhị nhân duyên”, giúp giải thoát nỗi khổ cho chúng
sinh.Từ đó Ngƣời đi khắp nơi truyền bá tƣ tƣởng của mình và trở thành ngƣời sáng
lập ra tôn giáo mới - Phật giáo.
Qua hơn 40 năm truyền đạt giáo lí khắp Ấn Độ, Ngƣời đƣợc suy tơn là Đức
Phật Thích Ca Mâu Ni. Ngƣời qua đời ở tuối 80 và để lại cho nhân loại những tƣ
tƣởng triết học Phật giáo vô cùng quý giá.

4


2.2. Những tƣ tƣởng triết học cơ bản của Phật giáo
Tƣ tƣởng triết học Phật giáo thể hiện trên hai phƣơng diện: thế giới quan và
nhân sinh quan, chứa đựng những tƣ tƣởng duy vật và biện chứng chất phác.
2.2.1. Quan điểm của Phật giáo về thế giới quan
Quan điểm về thế giới quan của Phật giáo đƣợc thể hiện tập trung ở nội dung
của ba cặp phạm trù: vô ngã, vô thƣờng và duyên.
a) Vô ngã:

Phật giáo cho rằng thế giới xung quanh ta và cả con ngƣời không phải do
một “đấng sáng tạo”, một vị thần nào tạo ra mà đƣợc cấu thành bởi sự kết hợp giữa
hai yếu tố: sắc và danh.
Sắc là yếu tố vật chất, có thể cảm giác đƣợc. Danh là yếu tố tinh thần, khơng
có hình chất mà chỉ có tên gọi. Danh và sắc hợp thành “Ngũ Uẩn”, bao gồm: sắc
(vật chất), thụ (cảm giác), tƣởng (ấn tƣợng), hành (suy lý) và thức (ý thức). Danh và
sắc tác động qua lại tạo nên vạn vật và con ngƣời. Sự tồn tại của vật chất chỉ là tạm
thời, không phải là vĩnh viễn, cho nên cũng không tồn tại cái “tôi”.
b) Vô thường:
Vạn vật biến đổi theo một chu trình: Sinh - Trụ - Dị - Diệt (Sinh - Lão - Bệnh
- Tử). Đức Phật dạy “tất cả những gì trong thế giới đó là biến đổi, hƣ hoại, đều là vơ
thƣờng”. Vì vậy, vô thƣờng nghĩa là không thƣờng, không mãi ở yên trong một
trạng thái nhất định mà luôn luôn thay đổi hình dạng, đi từ trạng thái hình thành đến
biến dị rồi tan rã.
Vô thƣờng là phƣơng pháp chỉ rõ mặt trái của đời, để bài trừ những sự mê
lầm, chạy theo vật dục. Vô thƣờng là định luật chi phối vạn vật từ thân tâm đến
hoàn cảnh. Hiểu đƣợc điều đó, con ngƣời dễ giữ đƣợc bình tĩnh, thản nhiên trƣớc
cảnh đổi thay bất ngờ.
c) Duyên:
Vạn vật đều chịu sự chi phối của luật nhân duyên. Trong đó duyên chính là
điều kiện để nguyên nhân trở thành kết quả. Kết quả ấy lại nhờ có duyên mà trở
thành nhân khác, nhân khác lại nhờ có duyên mà trở thành kết quả mới. Cứ nhƣ vậy
mà tạo nên sự biến đổi không ngừng của vạn vật tuân theo quy luật Nhân Quả.
Nhân và Quả là hai trạng thái nối tiếp nhau, nƣơng vào nhau mà có. Nhân là cái
mầm, Quả là từ mầm mà có. Nếu khơng có Nhân thì khơng thể có Quả, nếu khơng
có Quả là khơng thể có Nhân, Nhân thế nào thì Quả thế ấy. Nghĩa là Nhân và Quả
bao giờ cũng cùng một loại, Nhân đổi thì Quả đổi. Một Nhân khơng thể tự thành
Quả nếu khơng có sự giúp đỡ của nhiều Nhân khác vì vạn vật đều là sự tổ hợp của
nhiều nhân duyên. Quả là sự vật đã chuyển thành cái mà ta mong đợi, ƣớc muốn. Vì
thế mỗi vật đều có thể gọi là Nhân hay Quả đều đƣợc. Đối với quá khứ nó là Quả,


5


đối với tƣơng lai thì nó là Nhân. Sự biến chuyển từ Nhân thành Quả có khi nhanh,
khi chậm, khơng phải bao giờ cũng diễn ra trong một thời gian đồng nhất.
Tóm lại, Phật giáo bác bỏ quan niệm duy tâm cho rằng thần thánh sáng tạo ra
vạn vật. Phật giáo thừa nhận vạn vật đƣợc cấu thành từ các yếu tố vật chất và tinh
thần và chúng biến đổi khơng ngừng. Đó chính là quan điểm duy vật biện chứng
của Phật giáo.
2.2.2. Quan điểm của Phật giáo về nhân sinh quan
Quan điểm của Phật giáo về nhân sinh quan bao gồm: “Nghiệp”, thuyết “Tứ
Diệu Đế” và “Ngũ giới”.
a) Nghiệp:
Phật giáo cho rằng một linh hồn không thể đƣợc tạo nên một cách ngẫu
nhiên và độc đốn từ sự tồn năng của thƣợng đế hay một Đức Phật nào. Phật giáo
tin rằng có một định luật tự nhiên chi phối vạn vật. Theo lý nghiệp báo, chúng ta
khơng bị trói buộc bởi một quy luật tiền định nào, chúng ta có đủ năng lực để
chuyển phần nào cái nghiệp của ta theo ý muốn.
Tóm lại, nghiệp là năng lực cá biệt đƣợc chuyển từ kiếp này sang kiếp khác
và phụ thuộc vào sự biến đổi của tâm lực. Nghiệp giúp cấu thành nên tâm lí con
ngƣời và giải thích những hiện tƣợng thiên tài, vĩ nhân, thần đồng.
b. Thuyết tứ Diệu đế:
Tứ Diệu đế là bốn chân lý của Phật giáo, gồm: khổ đế, tạo đế, diệt đế và đạo
đế.
Khổ đế: Khổ đế là thực trạng đau khổ của con ngƣời. Phật giáo cho rằng đời
ngƣời là một bể khổ, ràng buộc, hệ lụy và khơng tự do, có tám cái khổ gồm: sinh,
lão, bệnh, tử, ái biệt ly khổ, oán tắng hội khổ, sở cầu bất đắc, ngũ thụ uẩn. Tùy theo
phƣơng diện ta có cách hiểu về “khổ” khác nhau:
 Phƣơng diện sinh lý: khổ là cảm giác khó chịu, đau đớn. Gồm: sinh,

lão, bệnh, tử.
 Phƣơng diện tâm lý: khổ là sự mất mát, thua thiệt, không hài hịng,
thất vọng,… Gồm: ái biệt ly khổ, ốn tắng hội khổ, sở cầu bất đắc.
 Phƣơng diện Phật học: khổ là ngũ thụ uẩn, gồm: sắc, thọ, tƣởng, hành
vàthức. Khi ta bám víu vào năm yếu tố trên, coi đó là ta, là của ta, là tự ngã
của ta thì sự khổ đau có mặt. Ý niệm “tơi” hình thành cái ham muốn, vị kỷ
mà từ đó mọi khổ đau phát sinh.
Tóm lại, khổ là sự đau đớn về thể xác, sự dằn vặt về tinh thần và là kết quả
hàng loạt nhân duyên đƣợc tạo tác từ tâm thức. Để thấu hiểu đƣợc căn nguyên của
nỗi khổ, con ngƣời không thể dừng lại ở sự thật của đau khổ, hay quay đầu chạy
trốn, mà phải đi vào soi sáng cái bản chất nội tại của nó.

6


Tập đế: Tập đế là sự thật vững chắc nói về nguyên nhân của những nỗi khổ
đã tích lũy lâu đời, lâu kiếp trong mọi chúng sinh và đây chính là cội rễ của sanh tử
luân hồi. Có 12 nguyên nhân gây ra sự đau khổ, gọi là thập nhị nhân duyên, gồm:
1. Vô minh: Vô minh là không sáng suốt, là mề lầm, khơng nhận đƣợc bản
tính dun khởi chân thật. Do vô minh, nên không biết tất cả sự vật, dầu thân, dầu
cảnh, dầu sinh, dầu diệt, dầu năng, dầu sở, dầu có, dầu khơng, đều do nhân duyên
hội họp mà giả dối sinh ra, do nhân duyên tan rã mà giả dối mất đi, đều theo nhân
duyên mà chuyển biến nhƣ huyễn, nhƣ hóa, khơng có thật thể. Chính vì khơng biết
nhƣ thế, nên lầm nhận thật có cái ta, thật có cái thân, thật có hồn cảnh, rồi do sự
đối đãi giữa thân tâm và cảnh giới, phát khởi ra những tâm niệm sinh diệt chuyển
biến khơng ngừng.
2. Hành: Hành, chính là cái tâm niệm sinh diệt chuyển biến khơng ngừng ấy,
nó làm cho chúng sanh nhận lầm có cái tâm riêng, cái ta riêng của mình, chủ trƣơng
gây các nghiệp, rồi về sau chịu quả báo.
3. Thức: Tâm niệm sinh diệt tiếp tục ấy, theo nghiệp báo duyên ra cái thức

tâm của mỗi đời, chịu cái thân và cái cảnh của loài này hoặc loài khác.
4. Danh sắc: Các thức theo nghiệp báo duyên sinh ra danh sắc. Sắc, bao gồm
những cái có hình tƣớng, nhƣ thân và cảnh; Danh, bao gồm những cái không có
hình tƣớng, nhƣ cái sự hay biết, nói một cách khác, là thức tâm thuộc nghiệp nào,
thì hiện ra thâm tâm và cảnh giới của nghiệp ấy.
5. Lục nhập: Thân tâm đối với cảnh giới thì duyên khởi ra các sự lãnh nạp
nơi 6 giác quan, nhãn căn lãnh nạp sắc trần, nhĩ căn lãnh nạp thanh trần, tỷ căn lãnh
nạp hƣơng trần, thiệt căn lãnh nạp vị trần, thân căn lãnh nạp xúc trần và ý căn lãnh
nạp pháp trần.
6. Xúc: Do những lãnh nạp nhƣ thế, mà các trần ảnh hƣởng đến tâm hay biết
sinh ra quan hệ với nhau, nên gọi là xúc.
7. Thọ: Do những quan hệ giữa tâm và cảnh nhƣ thế, nên sinh ra các thọ là
khổ thọ, lạc thọ, hỷ thọ, ƣu thọ và xả thọ.
8. Ái: Do các thọ đó, mà sinh lịng ƣa ghét, đối với lạc thọ, hỷ thọ thì ƣa, đối
với khổ thọ, ƣu thọ thì ghét và đã có ƣa ghét thì tâm gắn bó với thân, với cảnh, hơn
bao giờ hết.
9. Thủ: Do tâm gắn bó với thân, với cảnh nên không thấy đƣợc sự thật nhƣ
huyễn, nhƣ hóa, mà cịn kết hợp đƣợc những ảnh tƣợng rời rạc đã nhận đƣợc nơi
hiện tại, thành những sự tƣớng có định, rồi từ đó chấp mọi sự vật đều có thật, sự
chấp trƣớc nhƣ thế, gọi là thủ.
10. Hữu: Do tâm chấp trƣớc, nên những sự vật nhƣ huyễn nhƣ hóa lại biến
thành thật có, có thân, có cảnh, có ngƣời, có ta, có gây nghiệp, có chịu báo, có sống
và có chết, cái có nhƣ thế, tức là hữu.

7


11. Sinh: Có sống, tức là có sinh, nói một cách khác, là do không rõ đạo lý
duyên khởi nhƣ huyễn, khơng có tự tánh, nên nhận lầm thật có sinh sống.
12. Lão tử: Lão tử là già rồi chết. Do có sinh sống, nên có già, rồi có chết.

Tóm lại, tùy theo cách nhìn của mỗi ngƣời về cuộc đời mà có khổ hay
khơng. Nếu khơng bị dục vọng, vị kỷ hay phiền nào khuấy động, chi phối, ngự trị
trong tâm thì cuộc đời đầy an lạc, hạnh phúc.
Diệt đế: Phật giáo cho rằng nguyên nhân của nỗi khổ là do sự vận hành của
thập nhị nhân duyên mà gốc rễ là vô minh. Khi vô minh bị diệt thì trí tuệ bừng sáng,
hiểu đƣợc vạn vật, khơng cịn tham vọng, khơng cịn tạo nghiệp nữa và vì vậy mà
thốt khỏi vịng ln hồi sinh tử. Một khi ngƣời ta đã làm lắng dịu lịng tham thì
những nỗi âu lo, sợ hãi, bất an giảm dần, thâm tâm trở nên thanh thản, nhẹ nhàng.
Lúc đó, con ngƣời sẽ trở nên rộng lƣợng hơn, cƣ xử sáng suốt hơn, nhận thức sự vật
hiện tƣợng sâu sắc hơn, chính xác hơn. Tùy theo khả năng giảm thiểu lịng lam, vơ
minh đến mức độ nào mà đời sống sẽ tăng phần hạnh phúc đến mức độ ấy.
Đạo đế: Đạo đế là con đƣờng tu hành để diệt trừ đau khổ. Thực hiện Đạo đế
là một quá trình lâu dài, kiên trì, giữ nguyên giới luật, tập trung thiên định cao độ.
Phật giáo đã trình bày 8 con đƣờng hay 8 nguyên tắc (Bát chính đạo) buộc ta phải
tuân thủ bát chính đạo gồm:









Chính kiến: Phải nhận thức đúng, phân biệt đƣợc phải trái
Chính tƣ duy: Suy nghĩ phải chính, phải đúng đắn.
Chính nghiệp: Hành động phải chân chính.
Chính ngữ: Nói phải đúng, khơng gian dối
Chính mệnh: Sống trung thực, khơng tham lam, vụ lợi, gian tà.
Chính tịnh tiến: Phải nỗ lực, siêng năng học tập, có ý thức vƣơn lên.

Chính niệm: Phải ln ln hƣớng về đạo lý chân chính.
Chính định: Kiên định tập trung tƣ tƣởng vào con đƣờng chân chính.

Muốn thực hiện đƣợc “Bát chính đạo” thì phải có phƣơng pháp để thực hiện
nhằm ngăn ngừa những điều gian ác gây thiệt hại cho mình và những ngƣời làm
điều thiện có lợi ích cho mình và cho ngƣời. Nội dung của các phƣơng pháp đó là
thực hiện “ Ngũ giới” (năm điều răn) và “Lục độ” (Sáu phép tu).
Ngũ giới” gồm:





Bất sát: Không sát sinh
Bất đạo: Không làm điều phi nghĩa.
Bất dâm: Không dâm dục.
Bất vọng ngữ: Không bịa đặt, không vu oan cho ngƣời khác.

8


“Lục độ” gồm:
 Bố thí: Đem cơng sức, tài trí, của cải để giúp ngƣời một cách thành
thực chứ không để cầu lợi hoặc ban ơn.
 Trí giới: Trung thành với điều răn, kiên trì tu luyện.
 Nhẫn nhục: Phải biết kiên nhẫn, nhƣờng nhịn, chịu đựng.
 Tịnh tiến: Cố gắng nỗ lực vƣơn lên.
 Thiền định: Tƣ tƣởng phải tập trung vào điều ngay, không để cho cái
xấu che lấp.
 Bát nhã: Trí tuệ hiểu thấu hết mọi chuyện trên thế gian.

Tóm lại: Phật giáo cho rằng chỉ có bằng sự kiên định để thực hiện “Bát hành
đạo”, “Ngũ giới”, “Lục độ” thì chúng sinh mới có thể giải thốt mình ra khỏi nỗi
khổ. Phật giáo khơng chủ trƣơng giải phóng bằng cách mạng xã hội. Mặc dù Phật
giáo lên án rất gay gắt chế độ ngƣời bóc lột ngƣời, chống lại chủ nghĩa duy tâm của
Bàlamơn giáo. Đó là một trong những nhƣợc điểm đồng thời cũng là ƣu điểm nửa
vời của Đạo phật. Đứng trƣớc bể khổ của chúng sinh Phật giáo chủ trƣơng cải tạo
tâm linh chứ không phải cải tạo thế giới hiện thực. Nhƣ vậy Phật giáo ngun thuỷ
có tƣ tƣởng vơ thần, phủ nhận đấng sáng tạo (vô ngã, vô tạo giả) và có tƣ tƣởng
biện chứng (vơ thƣờng, lý thuyết Dun khởi). Tuy nhiên, Triết học Phật giáo cũng
thể hiện tính duy tâm chủ quan khi coi thế giới hiện thực là ảo giả và do cái tâm vô
minh của con ngƣời tạo ra.

9


CHƢƠNG 2: ẢNH HƢỞNG CỦA TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI
SỐNG TINH THẦN CỦA NGƢỜI VIỆT NAM
2.1. Phật giáo và tín ngƣỡng dân gian
Phật giáo rất gần gũi và dễ hịa hợp với tín ngƣỡng dân gian nƣớc ta. Nếu đặc
điểm tôn giáo Việt Nam là thờ cúng tổ tiên, thần thánh thì Phật cũng đƣợc coi là tổ
tiên, thần thánh, phật điện cũng trở thành thần điện, tính tâm linh Ấn Độ nhƣờng
bƣớc cho tính tình cảm Việt Nam. Hơn đâu hết, tơn giáo Việt Nam nặng về tính tình
cảm hơn là giáo lý. Phật giáo biết bám lấy làng xã bằng nhiều hoạt động cụ thể có tổ
chức, kết hợp với tín ngƣỡng bản địa, hội hè. Nhà sƣ và ngơi chùa có vai trị quan
trọng trong đời sống dân gian cổ truyền. Ở Bắc Bộ trƣớc đây, hầu nhƣ làng nào
cũng có chùa. Ngồi thờ Phật, chùa cịn thêm tín ngƣỡng dân gian thờ thần tiên, thờ
các vị tƣớng có cơng với nƣớc. Ngơi chùa trở thành một trung tâm văn hố làng. Có
thể nói, Phật giáo đã góp phần làm phong phú thêm nền văn hố dân tộc. Nho giáo
về mặt nào đó làm cho tƣ tƣởng văn hố khơ cứng thì Phật giáo có phần làm mềm
hơn, phong phú và sinh động hơn. Hội chùa cũng nhƣ hội làng là tiêu biểu cho sự

hồ hởi của công xã, là một dịp để con ngƣời đƣợc giải phóng tình cảm, hồ cái ta
của mình vào cái ta của làng xã, không bị giáo lý khuôn phép gị bó và toả chiết tâm
hồn. Dƣới mái nhà chùa mà vẫn đƣợc phép giao lƣu tình cảm. Chả thế mà bao nhiêu
câu chuyện tình duyên đằm thắm đã xảy ra bên cạnh cửa thiền. Thế ra cửa từ bi
không hề nghiêm ngặt nhƣ chốn sân Trình cửa Khổng. Phật chứng nhận cho cuộc
sống hồn nhiên của làng xã.
Tâm lý dân gian Việt Nam ta thiên về sự cân bằng, sự bù đắp. Nỗi khổ hôm
nay phải đƣợc đền bù bằng sự sung sƣớng ngày mai. Cô Tấm trong cổ tích trải qua
bao gian nan cuối cùng vẫn đƣợc hƣởng hạnh phúc. Phật giáo cũng hứa hẹn với con
ngƣời sự đền bù không do quyền phép nào, chỗ dựa nào của nho giáo, cũng không
do cán cân phúc tội của đạo gia, mà do chính nỗ lực của bản thân mình. Tâm lý
ngƣời Việt Nam ta phần nhiều cũng quan niệm nhận thức nhƣ vậy, mà chăc chắn
khơng phải vì do họ quán triệt thuyết bát chánh đạo của nhà thiền.
Tuy nhiên, không phải phật giáo đi đƣợc vào quần chúng, và có một sự gắn
bó sâu sa nhất định mà không một sự thẩm định, lựa chọn nào. Dân gian xƣa khơng
có điều kiện hay trình độ để làm việc ấy, song khi họ chấp nhận, chối bỏ hoặc biến
hóa những giáo lý để thích nghi với trình độ tƣ duy, với các sinh hoạt của họ tức là
họ đã “lộ” cái ý đồng hay khơng đồng. Có thể nói rằng, văn hố Việt Nam hố phật
hơn là phật hoá. Phật giáo đến Việt Nam dù là phật giáo nguyên thuỷ hay đa dạng
sau này bởi tiểu thừa hay đại thừa thì vẫn phải nhập với tín ngƣỡng bản địa, để biến
Man Nƣơng thành Phật Mẫu, Ỷ Lan thành Quan Âm mà không cần phải tạo ra xung
quanh nhân vật ấy những gì huyền bí thần kỳ cho lắm.
Trong mấy chục năm lại đây, Phật tử Việt Nam rất chăm lo đến việc thực
hiện các nghi lễ của đạo mình. Họ hay lên chùa trong các ngày lễ, họ trân trọng
thành kính trong khi thi hành lễ, họ siêng năng trong việc thiền định, giữ giới, làm

10


việc thiện. Việc ăn chay hàng tháng trở thành thói quen không thể thiếu của ngƣời

theo Đạo Phật. Mặt khác, nhà chùa sẵn sàng thực hiện các yêu cầu của họ nhƣ cầu
siêu, giản oan,... Tất cả những điều này củng cố niềm tin vào giáo lý, vừa qui định
tƣ duy và hành động của họ, tạo cơ sở để hình thành những nhân cách riêng biệt.
2.2. Phật giáo và tƣ tƣởng, đạo lý ngƣời Việt
2.2.1. Ảnh hƣởng của Phật giáo về tƣ tƣởng
Giáo lý nghiệp báo đã đƣợc truyền vào nƣớc ta từ rất sớm và trở thành nếp
sống hết sức sáng tỏ đối với ngƣời Việt Nam có hiểu biết. Dân ta có câu: “Ở hiền
gặp lành; ác giả ác báo”, đây chính là kết quả tự nhiên, âm thầm của lý nghiệp báo.
Nghiệp báo luân hồi đã in đậm nét trong văn chƣơng bình dân, trong văn học chữ
Nôm, chữ Hán và đã dẫn dắt từng thế hệ con ngƣời hành động sao cho tốt đẹp, đem
lại hịa bình an vui cho con ngƣời.
2.2.2. Ảnh hƣởng của Phật giáo về đạo lý
Đạo lý từ bi, hiếu hòa, hiếu sinh của Phật giáo đã ảnh hƣởng và thấm nhuần
trong tâm hồn ngƣời Việt. Điều này đƣợc thể hiện rõ qua con ngƣời của Nguyễn
Trãi (1380-1442) - nhà văn, nhà chính trị, tƣ tƣởng kiệt xuất của nƣớc ta, ông đã
biến đạo lý từ bi thành đƣờng lối chính trị trong “Bình Ngơ Đại Cáo”:
“Đem đại nghĩa để thắng hung tàn
Lấy trí nhân để thay cƣờng bạo”
Vì vậy, sau khi đánh thắng quân nhà Minh, không những không giết, ta còn
cấp thuyền bè, lƣơng thực để họ rút về nƣớc.
Ca dao Việt Nam thể hiện rõ tinh thần thƣơng ngƣời của Phật giáo: “Lá lành
đùm lá rách” hay “Nhiễu điều phủ lấy giá gƣơng; Ngƣời trong một nƣớc phải
thƣơng nhau cùng”. Những câu ca dao này nói lên lịng nhân ái vị tha của dân tộc.
Ngoài đạo lý từ bi, dân ta còn chịu ảnh hƣởng từ đạo lý tứ ân của Phật giáo,
gồm ân cha mẹ, ân sƣ trƣởng, ân quốc gia và ân chúng sanh. Đạo lý này đƣợc xây
dựng theo một trình tự phù hợp với sự phát triển của tâm lý về tình cảm của ngƣời
Việt. Tình thƣơng bắt đầu từ thân đến thƣơng cha mẹ, họ hàng, lan dần đến tình
thƣơng trong các mối quan hệ xã hội với thầy bạn, đồng bào, quê hƣơng đất nƣớc
và mở rộng đến nhân loại, vũ trụ. Trong đạo lý tứ ân thì ân cha mẹ là nổi bật và ảnh
hƣởng sâu đậm trong tình cảm ngƣời Việt.

2.3. Phật giáo và phong tục, tập quán ngƣời Việt
2.3.1. Ảnh hƣởng của Phật giáo qua tập tục ăn chay, phóng sinh, bố thí
Ăn chay xuất phát từ quan niệm từ bi của Phật giáo. Đạo Phật không muốn
sát sinh hại vật mà trái lại là phải thƣơng yêu muôn lồi. Ăn chay, thờ Phật là việc
đi đơi với nhau của ngƣời Việt. Cùng với thờ Phật, tục thờ cũng tổ tiên của ngƣời

11


Việt có từ lâu đời. Tục này xuất phát từ lịng hiếu kính đối với ơng bà, cha mẹ, tổ
tiên. Tín ngƣỡng này đƣợc một số bình dân nhập làm một với Đạo Phật, Phật giáo
có nhiều kinh đề cập đến vấn đề này nhƣ Kinh Vu Lan, Báo Phụ Mẫu Ân,…
Cũng xuất phát từ tinh thần từ bi của đạo Phật, tục lệ bố thí, phóng sinh đã ăn
sâu vào đời sống sinh hoạt của quần chúng nhân dân lao động. Ngƣời dân thích làm
phƣớc bố thí và sẵn sàng giúp đỡ kẻ nghèo khó, hoạn nạn.
2.3.2. Ảnh hƣởng của Phật giáo qua tập tục cúng rằm, mồng một và lễ chùa
Những ngày lễ lớn nhƣ lễ Phật Đãn, Vu Lan, tắm Phật, thật sự đã trở thành
ngày hội văn hóa của ngƣời Việt. Điều này phù hợp với nét sinh hoạt cộng đồng
truyền thống. Những ngày lễ này giúp gắn bó ngƣời Việt với nhau, nâng cao yêu
thƣơng đồng loại và nảy nở lịng hy sinh, tính vị tha, củng cố lịng hiếu kính với ơng
bà, cha mẹ. Ảnh hƣởng đó ngày càng sâu rộng trong quần chúng nhân dân. Tóm lại,
Phật giáo đóng một vai trị quan trọng trong việc định hình và duy trì các tập tục
dân gian ngƣời Việt.
2.4. Phật giáo và lối sống của thanh niên hiện nay
Tƣ tƣởng Phật giáo có ảnh hƣởng ít nhiều đến đời sống của thanh thiếu niên
hiện nay. Ở các trƣờng phổ thơng, tổ chức đồn, đội ln phát động các phong trào
nhân đạo nhƣ “ Lá lành đùm lá rách”, “quỹ giúp bạn nghèo vƣợt khó”,…Ngay từ
nhỏ các em học sinh đã đƣợc giáo dục tƣ tƣởng nhân đạo, bác ái, giúp đỡ ngƣời
khác mà cơ sở của nền tảng ấy là tƣ tƣởng giáo lý nhà Phật đã hoà tan với giá trị
truyền thống của con ngƣời Việt Nam.

Lên đến cấp III và vào Đại học, những thanh thiếu niên có những hoạt động
thiết thực hơn. Việc giúp đỡ ngƣời khác không phải hạn chế ở việc xin bố mẹ tiền
để đóng góp mà có thể bằng chính kiến thức, sức lực của mình. Sự đồng cảm với
những con ngƣời gặp khó khăn, những số phận bất hạnh cô đơn, cộng với truyền
thống từ bi, bác ái đã giúp những học sinh, sinh viên còn ngồi trên ghế nhà trƣờng
có đủ nghị lực và tâm huyết để lập ra những kế hoạch, tham gia vào những hoạt
động thiết thực nhƣ hội chữ thập đỏ, hội tình thƣơng, các chƣơng trình phổ cập văn
hố cho trẻ em nghèo, chăm nom các bà mẹ Việt Nam nghèo,... Hình ảnh hàng đoàn
thanh niên, sinh viên hàng ngày vẫn lăn lội trên mọi nẻo đƣờng tổ quốc góp phần
xây dựng đất nƣớc, tổ quốc ngày càng giàu mạnh thật đáng xúc động và tự hào. Tất
cả những điều đó chứng tỏ thanh niên, sinh viên ngày nay không chỉ năng động,
sáng tạo đầy tham vọng trong cuộc sống mà còn thừa hƣởng những giá trị đạo đức
tốt đẹp của ông cha, đó là sự thƣơng yêu, đùm bọc lẫn nhau giữa mọi ngƣời, lòng
thƣơng yêu giúp đỡ mọi ngƣời qua cơn hoạn nạn mà khơng chút nghĩ suy, tính tốn.
Và ta khơng thể phủ nhận Phật giáo đã góp phần tạo nên những giá trị tốt đẹp ấy.
Chúng ta càng phải nhắc đến giá trị đó trong khi cuộc sống ngày nay ngày càng xuất
hiện những hiện tƣợng tiêu cực.

12


Trong khi có những sinh viên cịn khó khăn đã dồn hết sức mình để học tập
cống hiến cho đất nƣớc thì vẫn cịn một số bộ phận thanh niên ăn chơi, đua đòi, làm
tiêu tốn tiền bạc của cha mẹ và đất nƣớc. Tối đến, ngƣời ta bắt gặp ở các quán bar,
sàn nhảy những cô chiêu, cậu ấm đang đốt tiền của bố mẹ vào những thú vui vô bổ.
Rồi những học sinh, sinh viên lầm đƣờng lỡ bƣớc vào ma tuý, khiến cho bao gia
đình tan nát, biết bao ơng bố bà mẹ cay đắng nhìn những đứa con của mình bị chịu
hình phạt trƣớc pháp luật. Thế hệ trẻ ngày nay nhiều ngƣời chỉ biết chạy theo vật
chất, bị cuốn hút bởi những thứ ăn chơi sa đoạ làm hại đến gia đình và cộng đồng.
Hơn bao giờ hết việc giáo dục nhân cách cho thế hệ trẻ trở nên rất quan trọng và

một trong những phƣơng pháp hữu ích là nêu cao truyền bá tinh thần cũng nhƣ tƣ
tƣởng nhà Phật trong thế hệ trẻ. Đó thực sự là cơng việc cần thiết cần làm ngay.
2.5. Phật giáo trong thời đại công nghệ
Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, mọi lĩnh vực trong đời
sống con ngƣời đều có bƣớc nhảy vọt. Xu thế tồn cầu hố thể hiện ngày càng rõ
nét. Điều kiện đó địi hỏi con ngƣời phải hết sức năng động, nhanh nhạy nắm bắt
vấn đề trong cuộc sống. Trong khi đó, theo giáo lý nhà Phật con ngƣời trở nên
khơng có tham vọng tiến thân, bằng lịng với những gì mình đã có, sống nhẫn nhục,
khơng đấu tranh, hƣớng tới cõi niết bàn khi cuộc sống trần gian đã chấm dứt. Nhƣ
vậy đạo đức Phật giáo đã tách con ngƣời ra khỏi điều kiện thực tiễn của xã hội, làm
cho con ngƣời có thái độ chấp nhận chứ không phải là cải tạo thế giới.
Đạo đức xuất thể của Phật giáo là chạy trốn nhu cầu bản năng chứ khơng
phải chế ngự thiên nhiên, bắt nó phục vụ cho mình. Các chƣơng trình xã hội của
Phật giáo khơng phải cải tạo lại điều kiện sống mà chỉ để cố san bằng xã hội bằng
đạo đức, trong xã hội đó ai cũng từ bi, bác ái, hỉ xả, nhẫn nhục,... Đạo đức nhà Phật
mất dần giá trị cũng chính thái độ yếu thế này, với nhà Phật những nhu cầu về thể
xác thì bị coi là trần tục, kém đạo đức, nhất là trong cuộc sống ngày nay, khi mà con
ngƣời đã đạt đƣợc một trình độ nhất định, quan niệm trên càng khơng thể chấp nhận
đƣợc. Do đó, ảnh hƣởng của Phật giáo càng xa rời thế hệ trẻ.
2.6. Phật giáo trong xã hội Việt Nam hiện nay
Chúng ta cũng nhận thấy rằng, ngày nay trong số những ngƣời đi chùa, nhiều
ngƣời khơng có đủ tri thức về Phật giáo cho nên khó có thể giáo dục đạo Phật một
cách tự giác, tích cực trong xã hội và gia đình. Ngƣời dân lên chùa thƣờng quá chú
trọng đến lễ vật, đến các ham muốn tầm thƣờng. Do không đƣợc giáo dục đầy đủ,
đúng đắn giáo lý nhà Phật, số đông thanh thiếu niên đã đua theo thị hiếu của mọi
ngƣời. Họ đến chùa cúng bái, thắp hƣơng vái xin Phật, Bồ Tát, La Hán phù hộ độ trì
cho họ đạt đƣợc mong muốn của mình. Những mong muốn ấy thƣờng là chuyện
học hành, tình cảm, sức khoẻ, vật chất... hoặc hơn nữa, họ coi đến chùa chỉ là hình
thức đi chơi, giải trí với bạn bè kèm theo đó là sự thiếu nghiêm túc trong ăn mặc, đi
đứng, nói năng. Số lƣợng học sinh, sinh viên nói riêng cũng nhƣ số lƣợng ngƣời dân

đi chùa gần đây càng đông, song xem ra ý thức cầu thiện, cầu mạnh về nội tâm còn

13


q ít so với những mong muốn tƣ lợi. Có rất ít ngƣời đến chùa để tìm sự thanh
thản trong tâm hồn, để tu dƣỡng nghiền ngẫm đạo lý làm ngƣời, về thiện - ác. Nhƣ
vậy, mục đích đến chùa của nột số ngƣời dân đã sai lầmso với điều mà giáo lý nhà
Phật muốn hƣớng con ngƣời ta vào.
Thời đại ngày nay, là thời đại phát triển. Nƣớc ta vừa trải qua mấy chục năm
chiến tranh và hàng chục năm sống dƣới chế độ quan liêu bao cấp, đời sống còn
nghèo nàn, lạc hậu rất đến sự phát triển. Phát triển có nghĩa là sự tăng trƣởng nhanh
chóng về kinh tế, đời sống vật chất và văn hoá. Đảng và Nhà nƣớc đã chỉra nhiệm
vụ trƣớc mắt làm dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội công bằng văn minh. Để đạt mục tiêu
này nƣớc ta cần có những ngƣời năng động, lạc quan, tin tƣởng, dũng cảm mở rộng
sáng tạo. Vì vậy việc cần làm hiện nay là phải xác định rõ Phật giáo có ảnh hƣởng
đến hệ tƣ tƣởng của ngƣời Việt Nam nhƣ thế nào để từ đó đƣa ra những chính sách
phát triển phù hợp với lịng dân, làm cho xã hội ngày càng phát triển tiến bộ và tốt
đẹp hơn.

14


CHƢƠNG 3: KẾT LUẬN
Qua việc tìm hiểu vấn đề chúng ta phần nào hiểu thêm đƣợc tƣ tƣởng của
Phật giáo. Phật giáo là để độ sinh chứ không phải độ tử, giúp cho chúng ta thức
tỉnh, bỏ ác làm lành, vƣợt qua mọi khổ đau phiền muộn ngay ở trong hiện tại để có
một cuộc sống hạnh phúc, an lạc cho dù còn nhiều thiếu thốn về vật chất hay bất cứ
một yếu tố khách quan nào đƣa lại qua đó cho chúng ta thấy rõ vấn đề có ý nghĩa
quan trọng trong việc xây dựng hình thành nhân cách và tƣ duy con ngƣời Việt

Nam.
Dù còn những hạn chế song chúng ta không thể phủ nhận những giá trị đạo
đức to lớn mà Phật giáo đã mang lại. Đặc trƣng hƣớng nội của Phật giáo giúp con
ngƣời tự suy ngẫm về bản thân, cân nhắc các hành động của mình để khơng gây ra
đau khổ bất hạnh cho ngƣời khác. Nó giúp con ngƣời sống thân ái, yêu thƣơng
nhau, xã hội yên bình.
Tuy nhiên, để giáo dục nhân cách đạo đức của thế hệ trẻ thì nhƣ thế vẫn chƣa
đủ. Bƣớc sang thế kỷ XXI, chuẩn mực nhân cách mà một thanh niên cần có địi hỏi
phải hồn thiện cả về mặt thể xác lẫn tinh thần, phải có đủ khả năng chinh phục cả
thế giới khách quan lẫn thế giới nội tâm. Đạo đức thế kỷ XXI do vậy có thể khai
thác sự đóng góp tích cực của Phật giáo để xây dựng đạo đức nhân văn toàn thiện
hơn, tự giác cao hơn vì sang thế kỷ XXI, bên cạnh sự phát triển kỳ diệu của khoa
học, những mâu thuẫn, chiến tranh giành quyền lực rất có thể sẽ nổ ra dƣới sự hậu
thuẫn của khoa học, các loại vũ khí sẽ đƣợc chế tạo hiện đại, tàn nhẫn hơn, dễ dàng
thoả mãn cái ác của vài cá nhân và nguy cơ gây ra sự huỷ diệt sẽ khủng khiếp hơn.
Khi đó địi hỏi con ngƣời phải có đạo đức, nhân cách cao hơn để nhận ra đƣợc cái
ác dƣới một lớp vỏ tinh vi hơn, “sạch sẽ” hơn.
Nhƣ vậy trong cả quá khứ, hiện tại và tƣơng lai, Phật giáo luôn luôn tồn tại
và gắn liền với cuộc sống của con ngƣời Việt Nam. Việc khai thác hạt nhân tích cực
hợp lý của Đạo Phật nhằm xây dựng nhân cách con ngƣời Việt Nam, đặc biệt là thế
hệ trẻ, là một mục tiêu chiến lƣợc đòi hỏi sự kết hợp giáo dục tổng hợp của xã hội gia đình - nhà trƣờng - bản thân cá nhân, một sự kết hợp tự giác tích cực cả truyền
thống và hiện đại. Chúng ta tin tƣởng vào một thế hệ trẻ hôm nay và mai sau cƣờng
tráng về thể chất, phát triển về trí tuệ, phong phú về tinh thần, đạo đức tác phong
trong sáng, kế thừa truyền thống cha ông cũng nhƣ những giá trị nhân bản Phật giáo
sẽ góp phần bảo vệ và xây dựng xã hội ngày càng ổn định, phát triển.

15


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. PGS,TS. Lê Hữu Ái và PGS,TS. Nguyễn Tấn Hùng, Triết học, NXB Đà Nẵng,
2010.
2. PGS. Nguyễn Tài Thƣ, Ảnh hƣởng của các hệ tƣ tƣởng và tôn giáo đối với con
ngƣời Việt Nam hiện nay, NXB Chính trị quốc gia, 1997.
3. GS,TS. Lê Mạnh Thát, Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Tập 3, NXB TP.Hồ Chí
Minh, 2002.
4. Nguyễn Duy Cần (1997), Tinh hoa Phật giáo, NXB Tp.HCM.
5. Thích Nữ Trí Hải dịch (2000), Đức Phật đã dạy những gì (con đƣờng thốt khổ),
NXB Tơn giáo.
6. Đồn Quang Thọ (2007), Giáo trình triết học, NXB Lý luận Chính trị.
7. Thích Minh Thuận (2008), Phật học căn bản, NXB Tôn giáo, Hà Nội.

16



×