Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Tiểu luận pháp luật đại cương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (291.81 KB, 28 trang )

BỘ CÔNG THƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP.HCM
----oOo----

KHOA MÁC - LÊNIN
BỘ MƠN PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG

TIỂU LUẬN

PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG
Nhóm thực hiện : Nhóm 4
Lớp: CDQT10

GVHD: Nguyễn Thị Ánh

Khoa : QUẢN TRỊ KINH DOANH

Khóa học : 2008 – 2011

---TP.Hồ Chí Minh, tháng 12 năm 2008

1


BỘ CÔNG THƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP TP.HCM
----oOo----

KHOA MÁC - LÊNIN
BỘ MƠN PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG


TIỂU LUẬN

PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG
Nhóm thực hiện : Nhóm 4
Lớp: CDQT10

GVHD: Nguyễn Thị Ánh

Khoa : QUẢN TRỊ KINH DOANH

Khóa học : 2008 – 2011

---TP.Hồ Chí Minh, tháng 12 năm 2008

2


LỜI CẢM ƠN
Nhóm 4 xin chân thành cám ơn vì sự hướng dẫn, định hướng của giáo
viên bộ môn - cơ: NGUYỄN THỊ ÁNH. Cơ đã giúp chúng em hồn thành bài
tiểu luận này như mong muốn. Chúng em xin chân thành cảm ơn cơ về sự giúp
đỡ đó. Cơ đã giúp chúng em biết và hiểu rõ hơn về quyền và nghĩa vụ của
người lao động và người sử dụng lao động..
Đây là năm đầu tiên chúng em bước vào môi trường đại học, cao đẳng
nên không tránh khỏi có nhiều bỡ ngỡ. Nếu bài tiểu luận có gì thiếu sót xin cơ
thơng cảm bỏ qua cho chúng em, chỉ dẫn cho chúng em có thêm những kĩ
năng làm tiểu luận và những kiến thức về pháp luật mà chúng em chưa biết.
Để chúng em có được những hiểu biết cơ bản về pháp luật và hoàn thành tốt
những bài tiểu luận về sau. Một lần nữa chúng em xin chân thành cảm ơn cô!


3


NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN



Nhận xét chung:
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
……………………….……....
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
…………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………..........
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
..............................................................................................................................
............................................................................


STT

Danh sách nhóm 4:
HỌ VÀ TÊN

MSSV


NHIỆM VỤ

1

VƯƠNG VĂN THƯƠNG

0823206

Làm bài

2

TRẦN THỊ LỆ THÚY

0826689

Làm bài

3

BÙI THỊ QUỲNH TRANG

0821423

Làm bài

4

HỒNG ĐÌNH THƯỢNG


0772951

Làm bài

5

NGUYỄN THỊ THÚY HẰNG

0823949

Làm bài

6

NGUYỄN THỊ HUYỀN TRANG

0822909

Làm bài

7

NGUYỄN THANH SONG

0823557

Làm bài

8


LÂM PHỤNG ĐIỆP

0824148

Làm bài

9

VÕ HOÀNG QUÂN

0823210

Làm bài

10

NGUYỄN MẠNH LONG

0822443

Làm bài

11

NGUYỄN TUẤN KHƠI

0821926

Làm bài


12

PHẠM THÁI HUY

0822251

Làm bài

13

PHAN XN BÁCH

0826029

Làm bài

14

TRẦN MINH TỒN

0819850

Làm bài

15

NGUYỄN THANH LAM

0820155


Làm bài

ĐIỂM

4


LỜI MỞ ĐẦU
Theo chủ trương nhà trường và cô giáo bộ mơn pháp luật đại cương.
Nhóm 4 soạn thảo tiểu luận với đề tài quyền và nghĩa vụ của người lao động
và người sử dụng lao động. Mục đích giúp chúng em hiểu được luật lao động
của nước ta như thế nào, người lao động và người sử dụng lao động có những
quyền, nghĩa vụ gì, trách nhiệm của họ ra sao?
Thực vậy, trong xã hội ngày nay, việc hiểu và nắm vững pháp luật
không những mang đến cho chúng ta quyền lợi mà đó cịn là trách nhiệm,
là nghĩa vụ của mỗi công dân trong xã hội. Thế nhưng khơng phải ai
trong chúng ta cũng có thể hiểu rõ, nắm vững và áp dụng pháp luât một
cách có hiệu quả vào trong cuộc sống hằng ngày.
Nhận rõ được sự quan trọng, cần thiết này nên trong những năm gần
đây nhà nước đã đưa pháp luật vào giảng dạy như một mơn học chính
thức. Bắt đầu là từ các trường trung học cơ sở, trung học phổ thông rồi
đến các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp ở các thành
phố lớn và hiện nay nó đã đươc mở rộng ra trên cả nước.
Trong thời đại kinh tế hiện nay, nhất là khi Việt Nam đang bước chân
vào hội nhập nền kinh tế thế giới WTO, thì các vấn đế về về quan hệ lao
động hiện nay rất được nhà nươc ta coi trọng, việc xây dựng và thực thi
cá qui định pháp luật trong lĩnh vực này góp phần tạo sự thơng thống,
dễ dàng cho các cơng ty, doanh nghiệp hay các cá nhân trong và ngồi
nước có thể đàu tư và phát triển tại Việt Nam trong tương lai. Qua đó góp
phần đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước giúp chúng ta

chủ động hội nhập nền kinh tế thế giới.

5


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài, mục đích, yêu cầu:
1.1. Lý do chọn đề tài:
Pháp luật lao động quy định quyền và nghĩa vụ của người lao động và
của người sử dụng lao động, các tiêu chuẩn lao động, các nguyên tắc sử
dụng và quản lý lao động, góp phần thúc đẩy sản xuất, vì vậy có vị trí
quan trọng trong đời sống xã hội và trong hệ thống pháp luật của quốc gia.
Để hiểu thêm về luật lao động chúng em đã quyết đinh chọn đề tài này để
nghiên cứu và tìm hiểu.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
- Mục đích: Giúp cho sinh viên nắm vững kiến thức về luật lao động ở
Việt Nam. Hiểu thêm về các tiêu chuẩn, nguyên tắc trong lao động và thực
tế áp dụng như thế nào? Từ đó biết được những gì cịn thiếu sót, bất hợp lí
trong bộ luật này.
- u cầu:
+ Học sinh, sinh viên cần nắm vững kiến thức trên ghế nhà trường mà
các thầy cô đã truyền đạt.
+ Không ngừng học tập trao dồi kiến thức để nâng cao trình độ chun
mơn bằng nhiều phương pháp như: học hỏi, tham khảo tư liệu trên sách báo
hay trên mạng internet… Cập nhật những tin tức hằng ngày về tình hình nước
ta và những biến động đang diễn ra trên thế giới.
+ Cần tham gia các hoạt động khảo sát thực tế để cọ sát giúp chúng
ta có nhiều kinh nghiệm hơn, nâng cao được trình độ, năng lực chun
mơn.
+ Tìm hiểu rõ hơn về pháp luật để có những nhận thức đúng đắn,

kiến nghị những gì cịn thiếu sót, bất câp trong bộ luật lao động.
2. Giới hạn nghiên cứu:
Nghiên cứu về quyền và nghĩa vụ của người lao động và người sử dụng
lao động được quy định trong bộ luật lao động.
3. Phương pháp nghiên cứu:
Tham khảo dữ liệu, thơng tin trên mạng, sách báo, tạp chí và tìm hiểu thực
tế.
4. Kết cấu đề tài:
- Các khái niệm: quyền, nghĩa vụ, người lao động, người sử dụng lao
động.
- Mối quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động.
- Thực trạng:
+ Quyền và nghĩa vụ của người lao động đã được áp dụng như thế
nào?
+ Quyền và nghĩa vụ của người sử dụng lao động đã được áp dụng
như thế nào?
- Kiến nghị, giải pháp.

6


PHẦN NỘI DUNG
1. Các khái niệm:
- Quyền: Là những cái mà pháp luật, xã hội, phong tục hay lẽ phải cho
phép hưởng thụ, vận dụng, thi hành…và khi thiếu được u cầu để có,
nếu bị tước đoạt có thể địi hỏi để giành lại.
- Nghĩa vụ: Là những trách nhiệm phải thực hiện của công dân do luật
pháp và luật cụ thể của nhà nước quy định.
- Người lao động: Là người ít nhất đủ 15 tuổi, có khả năng lao động và
có giao kết hợp đồng lao động (Theo Điều 6 - Bộ Luật Lao động của

Nước CHXHCN Việt Nam).
-Người sử dụng lao động: là doanh nghiệp, cơ quan tổ chứa hoặc cá
nhân, nếu là cá nhân thì ít nhất phải đủ 18 tuổi, có thuê mướn, sử dụng và
trả công lao động (Theo Điều 6 - Bộ Luật Lao động của Nước CHXHCN
Việt Nam).
2. Mối quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động:
2.1. Quyền và nghĩa vụ của người lao động:
2.1.1. Quyền:
Người lao động có quyền thành lập, gia nhập, hoạt động cơng đồn
theo Luật cơng đồn để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; được
hưởng phúc lợi tập thể, tham gia quản lý doanh nghiệp theo nội quy của
doanh nghiệp và quy định của pháp luật (Điều 7- Bộ Luật Lao động của
Nước CHXHCN Việt Nam).
Người lao động có quyền đình cơng theo quy định của pháp luật.
Người lao động có quyền làm việc cho bất kỳ người sử dụng lao động
nào và ở bất kỳ nơi nào mà pháp luật khơng cấm. Người cần tìm việc làm
có quyền trực tiếp liên hệ để tìm việc hoặc đăng ký tại các tổ chức dịch vụ
việc làm để tìm việc tuỳ theo nguyện vọng, khả năng, trình độ nghề
nghiệp và sức khoẻ của mình. (Theo Điều 16 - Bộ Luật Lao động của
Nước CHXHCN Việt Nam).
Người lao động có quyền được biết lý do mọi khoản khấu trừ vào tiền
lương của mình.(Theo Điều 60- Bộ Luật Lao động của Nước CHXHCN
Việt Nam).
Người lao động nữ được nghỉ trước và sau khi sinh con, cộng lại từ
bốn đến sáu tháng do Chính phủ quy định, tuỳ theo điều kiện lao động,
tính chất công việc nặng nhọc, độc hại và nơi xa xôi hẻo lánh. Nếu sinh
đơi trở lên thì tính từ con thứ hai trở đi, cứ mỗi con, người mẹ được nghỉ
7



thêm 30 ngày. Quyền lợi của người lao động nữ trong thời gian nghỉ thai
sản được quy định tại Điều 141 và Điều 144 của Bộ luật này.
Người lao động được hưởng chế độ hưu trí hàng tháng khi có đủ điều
kiện về tuổi đời và thời gian đã đóng bảo hiểm xã hội.(Theo Điều 145- Bộ
Luật Lao động của Nước CHXHCN Việt Nam).
2.1.2. Nghĩa vụ:
Người lao động có nghĩa vụ thực hiện hợp đồng lao động, thoả ước lao
động tập thể, chấp hành kỷ luật lao động, nội quy lao động và tuân theo sự
điều hành hợp pháp của người sử dụng lao động. (Điều 7- Bộ Luật Lao
động của Nước CHXHCN Việt Nam).
2.2. Quyền và nghĩa vụ của người sử dụng lao động:
2.2.1 Quyền:
- Người sử dụng lao động có quyền tuyển chọn lao động, bố trí, điều
hành lao động theo nhu cầu sản xuất, kinh doanh; có quyền khen thưởng
và xử lý các vi phạm kỷ luật lao động theo quy định của pháp luật lao
động.
- Người sử dụng lao động có quyền cử đại diện để thương lượng, ký
kết thoả ước lao động tập thể trong doanh nghiệp hoặc thoả ước lao động
tập thể ngành; có trách nhiệm cộng tác với cơng đồn bàn bạc các vấn đề
về quan hệ lao động, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của người lao
động. (Điều 8- Bộ Luật Lao động của Nước CHXHCN Việt Nam).
- Người sử dụng lao động có quyền trực tiếp hoặc thơng qua các tổ
chức dịch vụ việc làm để tuyển chọn lao động, có quyền tăng giảm lao
động phù hợp với nhu cầu sản xuất, kinh doanh theo quy định của pháp
luật. (Điều 16- Bộ Luật Lao động của Nước CHXHCN Việt Nam).
- Người sử dụng lao động có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng
lao động trong những trường hợp sau đây:
+ Người lao động thường xun khơng hồn thành công việc theo hợp
đồng;
+ Người lao động bị xử lý kỷ luật sa thải theo quy định tại Điều 85 của

Bộ luật này;
+ Người lao động làm theo hợp đồng lao động không xác định thời
hạn ốm đau đã điều trị 12 tháng liền, người lao động làm theo hợp đồng
lao động xác định thời hạn ốm đau đã điều trị sáu tháng liền và người lao
động làm theo hợp đồng lao động dưới một năm ốm đau đã điều trị quá
nửa thời hạn hợp đồng lao động, mà khả năng lao động chưa hồi phục.
8


Khi sức khoẻ của người lao động bình phục, thì được xem xét để giao kết
tiếp hợp đồng lao động;
+ Do thiên tai, hoả hoạn hoặc những lý do bất khả kháng khác mà
người sử dụng lao động đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng vẫn buộc
phải thu hẹp sản xuất, giảm chỗ làm việc;
+ Doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức chấm dứt hoạt động. (Điều 38- Bộ
Luật Lao động của Nước CHXHCN Việt Nam).
- Người sử dụng lao động có quyền chọn các hình thức trả lương theo
thời gian (giờ, ngày, tuần, tháng), theo sản phẩm, theo khoán nhưng phải
duy trì hình thức trả lương đã chọn trong một thời gian nhất định và phải
thông báo cho người lao động biết. (Theo Điều 58- Bộ Luật Lao động của
Nước CHXHCN Việt Nam).
- Người sử dụng lao động có quyền quy định lịch nghỉ hàng năm sau
khi tham khảo ý kiến của Ban chấp hành cơng đồn cơ sở và phải thông
báo trước cho mọi người trong doanh nghiệp. (Theo Điều 76- Bộ Luật
Lao động của Nước CHXHCN Việt Nam).
- Người sử dụng lao động có quyền tạm đình chỉ công việc của người
lao động khi vụ việc vi phạm có những tình tiết phức tạp, nếu xét thấy để
người lao động tiếp tục làm việc sẽ gây khó khăn cho việc xác minh, sau
khi tham khảo ý kiến của Ban chấp hành cơng đồn cơ sở. (Theo Điều 92Bộ Luật Lao động của Nước CHXHCN Việt Nam).
2.2.2 Nghĩa vụ:

- Người sử dụng lao động có nghĩa vụ thực hiện hợp đồng lao động,
thoả ước lao động tập thể và những thoả thuận khác với người lao động,
tôn trọng danh dự, nhận phẩm và đối sử đúng đắn với người lao động.
(Điều 8- Bộ Luật Lao động của Nước CHXHCN Việt Nam).
Người sử dụng lao động có trách nhiệm trích từ lợi nhuận hàng năm
để thưởng cho người lao động đã làm việc tại doanh nghiệp từ một năm
trở lên, theo quy định của Chính phủ phù hợp với đặc điểm của từng loại
doanh nghiệp. (Điều 64- Bộ Luật Lao động của Nước CHXHCN Việt
Nam).
Người sử dụng lao động phải định kỳ kiểm tra, tu sửa máy, thiết bị,
nhà xưởng, kho tàng theo tiêu chuẩn an toàn lao động, vệ sinh lao động.
Người sử dụng lao động phải có đủ các phương tiện che chắn các bộ
phận dễ gây nguy hiểm của máy, thiết bị trong doanh nghiệp; nơi làm
việc, nơi đặt máy, thiết bị, nơi có yếu tố nguy hiểm, độc hại trong doanh
nghiệp, phải bố trí đề phịng sự cố, có bảng chỉ dẫn về an tồn lao động,
9


vệ sinh lao động đặt ở vị trí mà mọi người dễ thấy, dễ đọc. (Điều 98- Bộ
Luật Lao động của Nước CHXHCN Việt Nam).
- Người sử dụng lao động có trách nhiệm quan tâm chăm sóc sức khoẻ
người lao động cao tuổi, không được sử dụng người lao động cao tuổi làm
những công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại
có ảnh hưởng xấu tới sức khoẻ người cao tuổi. (Điều 124- Bộ Luật Lao
động của Nước CHXHCN Việt Nam).
2.3 Mối quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động:
- Mọi người đều có quyền làm việc, tự do lựa chọn việc làm và nghề
nghiệp, học nghề và nâng cao trình độ nghề nghiệp, không bị phân biệt
đối xử về giới tính, dân tộc, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tơn giáo.
Cấm ngược đãi người lao động; cấm cưỡng bức người lao động dưới

bất kỳ hình thức nào.
Mọi hoạt động tạo ra việc làm, tự tạo việc làm, dạy nghề và học nghề
để có việc làm, mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh thu hút nhiều lao động
đều được Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi hoặc giúp đỡ.
(Điều 5- Bộ Luật Lao động của Nước CHXHCN Việt Nam).
- Người lao động được trả lương trên cơ sở thoả thuận với người sử
dụng lao động nhưng không thấp hơn mức lương tối thiểu do Nhà nước
quy định và theo năng suất, chất lượng, hiệu quả công việc; được bảo hộ
lao động, làm việc trong những điều kiện bảo đảm về an toàn lao động, vệ
sinh lao động; nghỉ theo chế độ, nghỉ hàng năm có lương và được bảo
hiểm xã hội theo quy định của pháp luật. Nhà nước quy định chế độ lao
động và chính sách xã hội nhằm bảo vệ lao động nữ và các loại lao động
có đặc điểm riêng. (Điều 7- Bộ Luật Lao động của Nước CHXHCN Việt
Nam).
-Quan hệ lao động giữa người lao động và người sử dụng lao động
được xác lập và tiến hành qua thương lượng, thoả thuận theo nguyên tắc
tự nguyện, bình đẳng, hợp tác, tơn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của
nhau, thực hiện đầy đủ những điều đã cam kết.
Nhà nước khuyến khích những thoả thuận bảo đảm cho người lao
động có những điều kiện thuận lợi hơn so với những quy định của pháp
luật lao động.
Người lao động và người sử dụng lao động có quyền yêu cầu cơ quan,
tổ chức có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động. Nhà nước khuyến
khích việc giải quyết các tranh chấp lao động bằng hoà giải và trọng tài.
(Điều 9- Bộ Luật Lao động của Nước CHXHCN Việt Nam).

10


- Trong trường hợp do thay đổi cơ cấu hoặc công nghệ mà người lao

động đã làm việc thường xuyên trong doanh nghiệp từ một năm trở lên bị
mất việc làm, thì người sử dụng lao động có trách nhiệm đào tạo lại họ để
tiếp tục sử dụng vào những chỗ làm việc mới; nếu không thể giải quyết
được việc làm mới, phải cho người lao động thơi việc thì phải trả trợ cấp
mất việc làm, cứ mỗi năm làm việc trả một tháng lương, nhưng thấp nhất
cũng bằng hai tháng lương.
Khi cần cho nhiều người thôi việc theo khoản 1 Điều này, người sử
dụng lao động phải công bố danh sách, căn cứ vào nhu cầu của doanh
nghiệp và thâm niên làm việc tại doanh nghiệp, tay nghề, hoàn cảnh gia
đình và những yếu tố khác của từng người để lần lượt cho thôi việc, sau
khi đã trao đổi, nhất trí với Ban chấp hành cơng đồn cơ sở trong doanh
nghiệp theo thủ tục quy định tại khoản 2 Điều 38 của Bộ luật này. Việc
cho thôi việc chỉ được tiến hành sau khi đã báo cho cơ quan lao động địa
phương biết.
Các doanh nghiệp phải lập quỹ dự phòng về trợ cấp mất việc làm theo
quy định của Chính phủ để kịp thời trợ cấp cho người lao động trong
doanh nghiệp bị mất việc làm.
- Chính phủ có chính sách và biện pháp tổ chức dạy nghề, đào tạo lại,
hướng dẫn sản xuất kinh doanh, cho vay vốn với lãi suất thấp từ quỹ quốc
gia giải quyết việc làm, tạo điều kiện để người lao động tìm việc làm hoặc
tự tạo việc làm; hỗ trợ về tài chính cho những địa phương và ngành có
nhiều người thiếu việc làm hoặc mất việc làm do thay đổi cơ cấu hoặc
công nghệ. (Điều 17- Bộ Luật Lao động của Nước CHXHCN Việt Nam).
- Người sử dụng lao động và người lao động thoả thuận về việc làm
thử, thời gian thử việc, về quyền, nghĩa vụ của hai bên. Tiền lương của
người lao động trong thời gian thử việc ít nhất phải bằng 70% mức lương
cấp bậc của cơng việc đó. Thời gian thử việc không được quá 60 ngày đối
với lao động chuyên môn kỹ thuật cao và không được quá 30 ngày đối với
lao động khác.
- Trong thời gian thử việc, mỗi bên có quyền huỷ bỏ thoả thuận làm

thử mà không cần báo trước và không phải bồi thường nếu việc làm thử
không đạt yêu cầu mà hai bên đã thoả thuận. Khi việc làm thử đạt yêu cầu
thì người sử dụng lao động phải nhận người lao động vào làm việc chính
thức như đã thoả thuận. (Điều 32- Bộ Luật Lao động của Nước CHXHCN
Việt Nam).
- Khi gặp khó khăn đột xuất hoặc do nhu cầu sản xuất, kinh doanh,
người sử dụng lao động được quyền tạm thời chuyển người lao động làm
công việc khác trái nghề, nhưng không được quá 60 ngày trong một năm.

11


Khi tạm thời chuyển người lao động làm việc khác trái nghề, người sử
dụng lao động phải báo cho người lao động biết trước ít nhất ba ngày, phải
báo rõ thời hạn làm tạm thời và bố trí cơng việc phù hợp với sức khoẻ và
giới tính của người lao động.
- Người lao động tạm thời làm công việc khác theo quy định tại khoản
1 Điều này, được trả lương theo công việc mới; nếu tiền lương của công
việc mới thấp hơn tiền lương cũ thì được giữ nguyên mức tiền lương cũ
trong thời hạn 30 ngày làm việc. Tiền lương theo cơng việc mới ít nhất
phải bằng 70% mức tiền lương cũ nhưng không được thấp hơn mức lương
tối thiểu do Nhà nước quy định. (Điều 34- Bộ Luật Lao động của Nước
CHXHCN Việt Nam).
- Mỗi bên đều có quyền đề xuất yêu cầu ký kết và nội dung thoả ước
tập thể. Khi nhận được yêu cầu, bên nhận yêu cầu phải chấp nhận việc
thương lượng và phải thoả thuận thời gian bắt đầu thương lượng chậm
nhất 20 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu.
Nội dung chủ yếu của thoả ước tập thể gồm những cam kết về việc
làm và bảo đảm việc làm; thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi; tiền
lương, tiền thưởng, phụ cấp lương; định mức lao động; an toàn lao động,

vệ sinh lao động và bảo hiểm xã hội đối với người lao động. . (Điều 46Bộ Luật Lao động của Nước CHXHCN Việt Nam).
- Người lao động có thể thoả thuận với người sử dụng lao động để
nghỉ hàng năm thành nhiều lần. Người làm việc ở nơi xa xôi hẻo lánh, nếu
có yêu cầu, được gộp số ngày nghỉ của hai năm để nghỉ một lần; nếu nghỉ
gộp ba năm một lần thì phải được người sử dụng lao động đồng ý. (Điều
76- Bộ Luật Lao động của Nước CHXHCN Việt Nam).
- Người bị xử lý kỷ luật lao động, bị tạm đình chỉ cơng việc hoặc phải
bồi thường theo chế độ trách nhiệm vật chất nếu thấy không thoả đáng, có
quyền khiếu nại với người sử dụng lao động, với cơ quan có thẩm quyền
hoặc yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động theo trình tự do pháp luật quy
định. (Điều 93- Bộ Luật Lao động của Nước CHXHCN Việt Nam).
- Người sử dụng lao động không được sử dụng người lao động nữ làm
những công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại
có ảnh hưởng xấu tới chức năng sinh đẻ và nuôi con, theo danh mục do
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế ban hành.
Doanh nghiệp nào đang sử dụng lao động nữ làm các công việc nói
trên phải có kế hoạch đào tạo nghề, chuyển dần người lao động nữ sang
công việc khác phù hợp, tăng cường các biện pháp bảo vệ sức khoẻ, cải
thiện điều kiện lao động hoặc giảm bớt thời giờ làm việc.

12


Người sử dụng lao động không được sử dụng người lao động nữ bất
kỳ độ tuổi nào làm việc thường xuyên dưới hầm mỏ hoặc ngâm mình dưới
nước. (Điều 113- Bộ Luật Lao động của Nước CHXHCN Việt Nam).
- Người lao động có trình độ chun mơn, kỹ thuật cao có quyền kiêm
việc hoặc kiêm chức trên cơ sở giao kết nhiều hợp đồng lao động với
nhiều người sử dụng lao động, với điều kiện bảo đảm thực hiện đầy đủ
các hợp đồng lao động đã giao kết và phải báo cho người sử dụng lao

động biết.
Người lao động có trình độ chun mơn, kỹ thuật cao được bảo hộ về
quyền tác giả theo quy định của pháp luật khi có giải pháp hữu ích và sáng
chế, phát minh. Trường hợp cơng trình nghiên cứu do vốn đầu tư của
doanh nghiệp tài trợ thì được chia hiệu quả kinh tế theo hợp đồng đã ký
kết về đề tài nghiên cứu đó.
Người lao động có trình độ chun mơn, kỹ thuật cao có quyền nghỉ
dài hạn khơng hưởng lương hoặc được hưởng một phần lương để nghiên
cứu khoa học hoặc để học tập nâng cao trình độ mà vẫn được giữ chỗ làm
việc, theo thoả thuận với người sử dụng lao động. (Điều 129- Bộ Luật Lao
động của Nước CHXHCN Việt Nam).
3. Thực trạng:
3.1. Người lao động:
Người lao động lơ mơ về quyền của mình
Khơng chỉ những người nơng dân "sau một đêm thành công nhân", rời
ruộng đồng để đến với dây chuyền sản xuất, với máy móc, mà ngay cả
nhiều nhiều người lao động trình độ học vấn cao cũng hết sức lơ mơ về
luật Lao động.
Bởi thế, họ gần như khơng biết đến những quyền lợi của mình mà luật
pháp đã quy định, chứ chưa nói đến việc biết tự bảo vệ những quyền lợi
đó.
Khơng biết luật
Cuối năm 2007, TAND tỉnh Bình Dương đã đưa ra xét xử vụ án gây rối trật
tự công cộng tại Cty Hung WaH thuộc KCN Sóng Thần. Người cầm đầu vụ
gây rối này là Vũ Thị X, sinh năm 1983. X đã viết lời kêu gọi CN cơng ty đình
cơng, địi tăng lương, giảm giờ làm, rồi đem dán ở nhà vệ sinh của công ty, nhờ
người yêu photocopy và phát tán tờ rơi.
Kết quả là sau đó, rất đơng CN của Hung WaH, dưới sự kích động của X và
một số nhân vật quá khích nữa, đã đập phá tan tành cổng cơng ty và phịng bảo
vệ, ném đá vỡ các cửa kính, la hét, chửi bới, làm cảnh tượng náo loạn.

Tại phiên toà, Vũ Thị X "ngây thơ" trả lời: "Bị cáo tưởng làm như vậy thì
13


công ty sẽ sợ hư hỏng tài sản mà tăng lương cho, chứ khơng biết làm vậy thì vi
phạm pháp luật. Bị cáo mới học lớp 3 nên không hiểu pháp luật".
Khi thực hiện chuyên đề này, chúng tôi đã làm một cuộc khảo sát nhỏ tại
khu nhà trọ ở một xã tại huyện Đông Anh (Hà Nội). Đây là nơi sống tập trung
của CNLĐ khu công nghiệp (KCN) Bắc Thăng Long Nội Bài. Tuổi bình qn
ở xóm trọ là 24, người ra Hà Nội làm việc nhiều thì được 10 năm, ít cũng 6
tháng song hầu hết đều cười trừ khi được hỏi biết gì về Luật LĐ, Luật Cơng
đồn.
Tình trạng trên phần nào lý giải nỗi lo của một số chủ đầu tư nước ngoài ở
các KCN, khu chế xuất (KCX). Họ sợ CN ngừng việc, đình cơng theo phản
ứng dây chuyền. Nghĩa là Cơng ty A đình công ngày hôm trước, lập tức vài
hôm sau CN Công ty B ngay cạnh cũng... đình cơng vì thấy bên kia đòi được
thêm tiền ăn trưa.
Và, tất nhiên, khu nhà trọ với những nhà hàng xóm liền vách ln là mơi
trường để CN có thể "nhìn" và so sánh thu nhập ở các công ty với nhau. Nhiều
nơi, khi xảy ra mâu thuẫn, CNLĐ không hề thông qua bước thương lượng đã
tuỳ tiện "rủ nhau" nghỉ việc.
Khoan chưa nói đến bất cập về trình tự, thủ tục thực hiện quyền đình cơng
của luật hiện nay thì cũng có thể thấy sự kém hiểu biết pháp luật của NLĐ.
Phân tích nguyên nhân từ các phía dẫn tới ngừng việc tập thể ở TPHCM, một
cán bộ phải thốt lên rằng: "NLĐ nhiều khi có những địi hỏi khơng đúng quy
định pháp luật".
Khơng riêng gì CNLĐ trực tiếp mà đến cả các viên chức nhà nước và
những người có trình độ làm việc tại các liên doanh cũng hiểu pháp luật rất hạn
chế. Một khảo sát gần đây của Sở Tư pháp thành phố Đà Nẵng tiến hành cho
biết, chỉ có 20% cán bộ CN viên chức của thành phố này hiểu biết về luật, 50%

nắm luật rất "lơ mơ".
Cuối năm 2007, báo chí cũng xơn xao về việc tại trường PTDL Hermann
Gmeiner (HN), nhiều giáo viên giảng dạy 5-10 năm nhưng không ký hợp đồng,
không được hưởng chế độ nào theo luật định. Trong đó, có cả những giáo viên
dạy giỏi cấp trường, cấp quận, gắn bó với trường 5-6 năm rịng vẫn bị "treo"
hợp đồng.
Mới đây, một văn phòng tư vấn pháp luật đã tư vấn cho chị N.T.O về chế
độ nghỉ thai sản. Tư vấn viên kinh ngạc khi chị N.T.O - một người đã tốt
nghiệp ĐH, làm cho một Cty nước ngoài 4 năm - mà vẫn nghĩ sẽ làm đơn kiện
chủ LĐ vì họ chỉ cho chị nghỉ sinh 4 tháng. Nếu làm thử một cuộc khảo sát tại
các cơ quan Nhà nước, chắc rằng khơng ít người không biết một cách đầy đủ
các quyền lợi của bản thân khi tham gia quan hệ LĐ.

14


Khơng biết quyền lợi bị vi phạm
Chính vì lơ mơ về luật nên hầu hết NLĐ ở KCN, KCX đều không biết
quyền lợi của bản thân đang bị vi phạm. Tại các khu, cụm công nghiệp tập
trung của Yên Bái, hầu hết CNLĐ được ký hợp đồng LĐ nhưng gần 50%
chỉ được ký hợp đồng 3 tháng, hết 3 tháng lại ký tiếp theo kiểu hợp đồng
chuỗi. Điều này không chỉ vi phạm pháp luật mà còn tổn hại đến quyền
lợi của NLĐ do khơng được đóng bảo hiểm xã hội.
Nhưng, dường như NLĐ - đối tượng bị vi phạm quyền lợi lại khơng
mấy quan tâm vì họ chỉ cần có việc làm, có thu nhập. Hay như ở ngành
dệt may, nơi có 116.096 LĐ, trong đó nữ là 83.428, chiếm 71%, vẫn còn
hiện tượng khi mới tuyển chỉ ký hợp đồng LĐ ngắn hạn; chế độ nghỉ thai
sản, con ốm trả tiền thanh toán nghỉ bảo hiểm xã hội còn chậm. Một số
DN trong ngành còn chưa thực hiện thường xuyên quy định nâng bậc
lương cho NLĐ.

Ở lĩnh vực khác như bảo hộ LĐ, sự thiếu hiểu biết và ý thức chấp
hành kém đã khiến NLĐ tự chuốc hại vào thân. Đơn cử như ngành than khống sản có 12 vạn CNLĐ, đa số xuất thân từ nông thôn. Số này tính
tuỳ tiện, mạo hiểm, cắt xén quy trình nên gây tai nạn LĐ cho chính mình
và cho đồng đội. Theo thống kê của các nước trên thế giới cũng như của
ngành than - khoáng sản VN cho thấy trên 80% sự cố, tai nạn LĐ xảy ra là
do hành vi khơng an tồn của CN gây ra hoặc do điều kiện làm việc
khơng an tồn dẫn đến hành vi khơng an tồn của CN gây ra.
Có những nơi, nhân viên Cty nói tiếng Anh khá, trong tay vài ba bằng
ĐH nhưng vẫn cùng người sử dụng LĐ trốn đóng bảo hiểm xã hội hoặc
chấp nhận mức đóng khơng đúng với mức lương. Vì khơng nắm được luật
và chỉ nhìn cái lợi trước mắt mà khơng nhìn thấy hậu quả sau này khi đã
về nghỉ chế độ.
Khơng ít NLĐ, nhất là LĐ tre, chúng tôi gặp bày tỏ nguyện vọng

15


muốn được tìm hiểu về luật pháp nhưng khổ nỗi, làm ngày, làm ca đã đủ
vất vả, mệt mỏi, thời gian rảnh chỉ dành để ngủ cho lại sức, hôm sau tiếp
tục đứng máy, làm sao mà đọc, mà học được?
Bên cạnh đó hệ thống pháp luật ngày càng trở nên phức tạp, số lượng
các văn bản pháp luật liên quan đến quyền, lợi ích của NLĐ càng nhiều.
Những khó khăn này khiến việc tiếp cận và thực hiện các quy định của
pháp luật ngày càng lớn. Như vậy cũng có nghĩa, luật đã, đang và sẽ khó
đi vào đời sống - điều này đồng nghĩa với việc còn tái diễn hiện tượng
NLĐ tiếp tục vui vẻ chấp nhận ký hợp đồng chuỗi 3 tháng hoặc đòi làm
thêm giờ dù đã q thời lượng luật định chỉ vì khơng nắm được luật và
muốn có thêm thu nhập.
Bảo vệ quyền lợi, giải quyết việc làm cho công nhân
Không chỉ giám sát chặt chẽ việc chi trả các chế độ chính sách, các cấp

CĐ TP cịn chủ động liên hệ tìm việc làm mới nhằm chia sẻ khó khăn với
cơng nhân
Khi nhận tháng lương đầu tiên tại doanh nghiệp (DN) mới, nữ công nhân
(CN) Trần Thị Hằng xúc động: “Ở công ty mới, điều kiện ăn, ở, việc làm
và thu nhập cũng khá nên chúng tơi rất an tâm. Nếu khơng có sự giúp đỡ
tận tình của mấy anh trên LĐLĐ quận thì chắc giờ này tụi tơi cịn lơng
bơng”. Hằng là một trong số 78 CN xưởng giày nữ Công ty Cổ phần Da
giày Sài Gịn, tìm được việc làm mới tại Công ty TNHH Giày da Huê
Phong ngay sau khi xưởng giải thể nhờ sự hỗ trợ của LĐLĐ quận Gị
Vấp-TPHCM.
Lặn lội tìm việc cho CN
“Với các DN có khả năng phải đóng cửa, ngồi việc u cầu CĐ cơ sở
báo cáo hằng ngày để có biện pháp giám sát việc chi trả chế độ chính
sách, chúng tơi tìm mọi cách liên hệ tìm việc làm mới cho CN. Chúng tơi
cố gắng tận dụng mối quan hệ để CN có việc làm mới, ổn định cuộc
sống”- ơng Phạm Ngọc Đồn, Chủ tịch LĐLĐ quận Gò Vấp, cho biết.
Khi giám đốc Công ty Vina Haeng Woon Industry (quận 8 - TPHCM) bỏ
trốn, nhiều CN rất xúc động trước tình cảm của cán bộ LĐLĐ quận. Họ
lặn lội đến từng khu nhà trọ để an ủi, động viên và thăm hỏi những CN
khó khăn. Một CN nói: “Ngày nào mấy anh, chị bên CĐ quận cũng bám
trụ tại DN để nghe ngóng tình hình và động viên chúng tơi. Các anh, chị
cịn liên hệ tìm việc làm cho CN”. Nỗ lực bền bỉ của LĐLĐ quận 8 suốt
một tháng đã được đền bù khi 600/700 CN mất việc được các DN gần đó
tiếp nhận. Với số CN lớn tuổi và nữ CN đang có thai, LĐLĐ quận 8 đã
thống kê danh sách những CN thật sự khó khăn để LĐLĐ TP hỗ trợ.
“Nhìn anh em cực khổ, mình chịu khơng nổi nên phải làm”- bà Nguyễn
Thị Mỹ Dung, cán bộ chuyên trách LĐLĐ quận 8, tâm sự.

16



Cịn tại quận Bình Tân - TPHCM, hàng trăm CN Công ty Sunrising Kim
Vina bị mất việc cũng đã được LĐLĐ quận giới thiệu đến làm việc tại các
công ty Pou Yuen, Mỹ Nga... Đây là những DN được LĐLĐ quận “chọn
mặt gởi vàng” vì có đơn hàng ổn định và chăm sóc tốt CN. Trước đó, khi
quận 12- TPHCM đình chỉ hoạt động của Cơng ty WinBrothers (do chưa
có giấy phép hoạt động), nỗi lo lớn nhất của hàng trăm CN nơi đây là tìm
việc làm mới. Dù là ngày nghỉ, cán bộ LĐLĐ quận vẫn lặn lội vận động
các DN trên địa bàn tiếp nhận số CN này.
Bảo đảm đầy đủ quyền lợi
Cuối tuần qua, hơn 200 CN Cơng ty Quang Sung Vina (quận Gị Vấp) đã
nhận được một phần tiền lương. CN Nguyễn Thị Nụ vui mừng: “Đây là
thành công bước đầu. Chúng tôi cảm ơn các anh, chị trên LĐLĐ quận”.
Mấy ngày trước đó, khi giám đốc cơng ty bỏ trốn, lo sợ máy móc bị tẩu
tán, anh em CN đã chia nhau canh giữ đêm ngày. Cán bộ LĐLĐ quận
cũng sát cánh cùng anh em. Nhiều hơm, CĐ quận và TP phải “cứu trợ”
bánh mì, nước uống.
Cịn tại Cơng ty B/S Footwear (quận Bình Tân), khi công ty thông báo sẽ
chấm dứt hoạt động vào ngày 30-9, toàn bộ 320 CN đã ngừng việc, đề
nghị giải quyết rõ ràng các chế độ. Nhờ nắm được tình hình DN, LĐLĐ
quận đã chủ động phối hợp với các cơ quan chức năng can thiệp kịp thời,
buộc DN thực hiện đủ các chế độ cho CN. Tình hình khan hiếm đơn hàng,
CN bị nợ lương kéo dài tại Công ty May Nhất Nguyên được LĐLĐ quận
cập nhật và theo dõi sát sao. Nhờ đó, khi giám đốc cơng ty định gỡ máy
móc, thiết bị chuyển đi nơi khác, LĐLĐ quận đã phối hợp với các cơ quan
chức năng kịp thời ngăn chặn, buộc DN phải thanh toán dứt điểm tiền
lương cho CN. Đặc biệt, tại Công ty TNHH Silver Star, LĐLĐ quận đã hỗ
trợ CĐ cơ sở thương lượng thành cơng với ban giám đốc: Ngồi việc
thanh tốn đầy đủ quyền lợi cho CN bị mất việc, công ty còn trả thưởng
Tết 2008 cho CN từ 0,8 đến 1 tháng lương mỗi người.

Sức khỏe người lao động luôn là một trong những yếu tố quyết định đến
chất lượng và năng suất lao động. Vì vậy cơng tác chăm sóc, bảo vệ và
nâng cao sức khỏe cho người lao động luôn được Ðảng và Nhà nước quan
tâm, bằng việc đầu tư cơ sở vật chất y tế, ban hành nhiều văn bản pháp
quy và các tiêu chuẩn vệ sinh an tồn lao động, bảo đảm chăm sóc sức
khỏe ban đầu cho người lao động.
Tuy nhiên trong quá trình thực hiện vẫn còn nhiều bất cập. Hiện nay, cả
nước vẫn cịn hơn 70% số dân sinh sống bằng nghề nơng, nhưng dường
như cơng tác vệ sinh - an tồn lao động trong nơng nghiệp cịn bỏ ngỏ.
Sức khỏe người lao động trong khu vực nông nghiệp chưa được quan tâm
đúng mức. Trên các công trường, trong xưởng máy, nhiều doanh nghiệp
không thực hiện nghiêm các quy định của pháp luật về bảo vệ sức khỏe

17


cho người lao động, chưa chủ động trong đầu tư trang bị bảo hộ lao động,
giảm ô nhiễm môi trường, hạn chế bệnh nghề nghiệp.
Khơng ít người lao động vẫn phải làm việc trong mơi trường đầy tiếng ồn,
bụi, hóa chất, khơng khí ơ nhiễm, làm việc tăng ca, thêm giờ... ảnh hưởng
nghiêm trọng đến sức khỏe. Trong khi đó, cơng tác kiểm tra, kiểm sốt
mơi trường lao động của các cơ quan chức năng lại rất hạn chế, thậm chí
nhiều nơi khơng quản lý được mơi trường lao động của doanh nghiệp.
Nhất là ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các doanh nghiệp
nhỏ và doanh nghiệp ngồi quốc doanh.
Nhiều doanh nghiệp khơng có cán bộ y tế, không tổ chức khám sức khỏe
định kỳ, khám bệnh nghề nghiệp cho người lao động. Bản thân người lao
động lại thiếu hiểu biết về pháp luật, thiếu kiến thức tự bảo vệ sức khỏe
cho bản thân và cộng đồng... dẫn đến việc chăm sóc sức khỏe - một quyền
lợi của người lao động chưa được bảo đảm.

Lao động nữ cịn thiệt trăm bề
Cường độ lao động cao, mơi trường làm việc không bảo đảm, dinh dưỡng
kém khiến sức khỏe lao động nữ càng suy giảm, nguy cơ mắc bệnh nghề
nghiệp rất cao
“Để bảo đảm đời sống sinh hoạt tối thiểu, chúng tơi phải làm việc quần
quật suốt tuần, có hôm phải tăng ca đến kiệt sức nhưng thu nhập chỉ đạt từ
1,4 triệu đồng đến 1,6 triệu đồng/tháng”. Đó là tiếng kêu cứu của hàng
trăm lao động nữ (LĐN) tại một doanh nghiệp (DN) ở quận Gò VấpTPHCM khi ngừng việc tập thể mới đây. Thực trạng đời sống LĐN cũng
là chủ đề được Tổng LĐLĐ VN và Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) “mổ
xẻ” tại hội thảo “Chính sách LĐN và bình đẳng giới” vừa diễn ra tại
TPHCM.
Cường độ lao động cao, môi trường độc hại
Kết quả đợt khảo sát tình hình thực hiện chính sách LĐN tại 9 DN có vốn
nước ngồi ở 3 tỉnh Long An, Bà Rịa – Vũng Tàu và Tây Ninh, do Tổng
LĐLĐ VN tiến hành trong tháng 8-2008, cho thấy nhiều DN chưa thực
hiện đúng chế độ trả lương làm thêm giờ. Với LĐN thai sản được hưởng
chế độ làm việc 7 giờ/ca hưởng đủ lương, nhưng do DN trả lương sản
phẩm nên chị em không được trả tiền cho thời gian làm việc được rút
ngắn theo quy định (1 giờ). Bà Phạm Thị Thanh Hồng, Phó Ban Nữ cơng
Tổng LĐLĐ VN, nhìn nhận: So với nam giới và mặt bằng sinh hoạt
chung, thu nhập của LĐN cịn thấp. Để có thêm thu nhập trang trải cuộc
sống, 76% LĐN phải làm thêm giờ.
Ông Đỗ Minh Nghĩa, Trưởng Ban Bảo hộ lao động Tổng LĐLĐ VN, cho
biết thêm: Qua kiểm tra 9 DN sử dụng nhiều LĐN tại Long An, Bà Rịa –
18


Vũng Tàu và Tây Ninh, có 4 DN khơng đạt yêu cầu về nhiệt độ môi
trường làm việc. Nhiều DN gia cơng giày thể thao cịn có bộ phận sử dụng
keo dán hóa chất nhưng khơng cách ly khỏi dây chuyền may và không hút

hơi cục bộ nên LĐN vẫn phải chịu ảnh hưởng hơi hóa chất. Mặt khác, do
phải ngồi làm việc với thời gian dài, thao tác đơn điệu dẫn đến mệt mỏi,
phát sinh các bệnh ảnh hưởng đến sức khỏe LĐN. Tỉ lệ LĐN sức khỏe tốt
chỉ có 23,1%.
DN chưa quan tâm
Làm việc với cường độ cao, môi trường làm việc không bảo đảm, dinh
dưỡng kém khiến sức khỏe LĐN càng suy giảm, nguy cơ mắc bệnh nghề
nghiệp rất cao. Song, điều đáng nói là DN chưa quan tâm thực hiện chính
sách LĐN. Đại diện Ban Nữ cơng LĐLĐ tỉnh Bình Dương bức xúc: “Ở
nhiều DN, nhiều chị em không được nhận hoặc nhận chế độ ốm đau, thai
sản chậm trễ do bộ phận kế toán, nhân sự ở DN khơng gởi hồ sơ về
BHXH hoặc có nơi nhận tiền từ BHXH nhưng không chi cho người lao
động (NLĐ). Thậm chí, nhiều DN trích tiền lương của NLĐ nhưng không
nộp cho cơ quan BHXH”.
Bà Lê Thị Mỹ Lệ, Phó Chủ tịch LĐLĐ tỉnh Đồng Nai, cho biết thêm:
“Nhiều DN không tổ chức khám sức khỏe, khám bệnh nghề nghiệp cho
NLĐ. Cá biệt, Công ty Dong Yang từ khi hoạt động đến nay đã trên 10
năm, nhưng chưa lần nào khám sức khỏe cho NLĐ”.
Cần một chính sách khả thi
Theo các đại biểu, Nghị định 23/CP về chính sách LĐN khơng cịn phù
hợp nên cần thay thế. Quy định mới phải quy định rõ ràng, cụ thể: Các
chế độ LĐN hưởng; nội dung công việc DN sử dụng LĐN phải tổ chức
thực hiện. Mặt khác, chính sách ưu đãi giảm thuế đối với DN sử dụng
nhiều LĐN nên quy định tỉ lệ phần trăm (%) giảm thuế tương ứng với tỉ lệ
sử dụng LĐN bình quân trong một năm tại DN. Ngồi ra, mức tiền quỹ
BHXH tạm trích lại cho DN phải tính đến đặc thù của DN sử dụng nhiều
LĐN nhằm kịp thời chi chế độ thai sản cho LĐN. Nhiều ý kiến đề nghị
nên nâng thời gian nghỉ thai sản lên 6 tháng thay vì 4 tháng như hiện nay.

19



Theo bà Nguyễn Thị Thu
Hồng, Phó Chủ tịch Tổng
LĐLĐ VN, việc thực hiện
chính sách LĐN hiện nay
chưa đồng bộ, chủ yếu tập
trung vào chính sách
BHXH. Những chính sách
khác được thực hiện rất
giới hạn, tùy khả năng và
điều kiện chủ quan của DN
nên kết quả còn hạn chế.
Tổng LĐLĐ VN đề xuất,
ngồi việc hồn thiện chính
sách thì khi phê duyệt các dự án đầu tư, xây dựng các KCN-KCX, cần
đồng bộ chính sách thu hút đầu tư và giải quyết các vấn đề xã hội liên
quan đến NLĐ như nhà ở, nhà trẻ, trường học, bệnh viện...
Mới khoảng 45%-50% doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi và 55%60% doanh nghiệp khu vực doanh nghiệp dân doanh ký kết thoả ước lao
động tập thể.

Thực tế, nơi nào doanh nghiệp ký kết thỏa ước lao động tập thể với những
điều khoản có lợi cho người lao động thì nơi đó quan hệ lao động ổn định.
Bảo hiểm cho người lao động: Đạo đức và văn hóa doanh nghiệp
Những vụ sập hầm ở các
mỏ than, những vụ tai nạn
lao động ở các công trình
xây dựng... và mới đây
nhất là vụ sập nhịp dẫn cầu
Cần Thơ ngày 26/09, cho

thấy vấn đề bảo hiểm con
người hiện vẫn chưa thực
sự được nhiều doanh
nghiệp Việt Nam chú
trọng.
Và điều này khơng những
gây ra thiệt thịi lớn cho người lao động mà ngay cả đối với doanh nghiệp
cũng sẽ gặp phải những khó khăn khơng nhỏ khi khơng may xảy ra những
tai nạn, sự cố.
Theo kết quả nghiên cứu của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, trong
giai đoạn 2002-2005, số vụ tai nạn lao động năm sau thường cao hơn năm
20


trước 30%/năm, số thương vong cũng tăng tới hơn 30%, chưa kể những
thiệt hại lớn về tài sản.
Tại các làng nghề ở Bắc Ninh, Hà Tây... thống kê cho thấy số vụ tai nạn
lao động hàng năm là 5-6 vụ/làng nghề. Số lượng các vụ tai nạn tại các
hầm mỏ cũng hết sức đáng báo động trong thời gian qua. Anh Nguyễn
Văn Hải, một công nhân mỏ than Mạo Khê, Quảng Ninh chia sẻ: “Chúng
tôi làm ở đây tâm trạng khá lo lắng nhỡ khơng may có bất trắc gì, bản
thân đã khổ mà có khi cả nhà cũng khốn đốn vì hầu hết anh, em trong mỏ
đều là lao động chính của gia đình”.
Theo ơng Nguyễn Thành Quang, Phó Tổng giám đốc Bảo Việt Nhân thọ,
nguyên nhân của tình trạng này trước hết là do đạo đức kinh doanh, ý thức
của doanh nghiệp đối với cộng đồng. Rất nhiều doanh nghiệp đã vì cái lợi
trước mắt mà quên đi điều hết sức quan trọng là không bảo vệ nguồn nhân
lực - tài sản quý giá nhất của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, cịn một ngun
nhân cũng quan trọng khơng kém, đó là ý thức tự bảo vệ của người lao
động.

“Người lao động trước khi ký kết một hợp đồng lao động lại khơng biết
mình được bảo vệ đến mức nào. Vì nhiều lý do khác nhau, người lao động
cũng khơng địi hỏi doanh nghiệp phải có bảo hiểm cho mình và cũng
khơng tự bảo vệ mình thơng qua các hợp đồng bảo hiểm cá nhân tự
nguyện...”, ông Quang nhấn mạnh.
Chính vì vậy, việc mua bảo hiểm cho nguồn nhân lực của doanh nghiệp
giúp ổn định được tâm lý của người lao động, bảo đảm nguồn tài chính
vững mạnh của doanh nghiệp khi có bất kỳ biến cố nào trong quá trình
hoạt động kinh doanh là việc làm rất cần thiết và có ý nghĩa.
Người lao động trong một số ngành nghề có tính rủi ro cao như khai
khống, mỏ quặng, vận tải, xây dựng, điện lực... luôn quan tâm địi hỏi
người sử dụng lao động có chế độ phúc lợi và bảo hiểm một cách thỏa
đáng. Đây cũng là một thách thức lớn đối với các nhà quản trị nhân sự
trong các lĩnh vực nêu trên.
Những chế độ phúc lợi cơ bản đã có quy định của Nhà nước, tuy nhiên ý
thức bảo vệ nguồn nhân lực của mình, bảo vệ sự an tồn tài chính cho
cuộc sống người lao động và doanh nghiệp, tổ chức vẫn còn là một chính
sách mới mẻ với nhiều doanh nghiệp Việt Nam.
Một đại diện của tổ chức cơng đồn của Cơng ty Cổ phần Than Mạo Khê,
tâm sự: “Cách đây một vài năm thì tâm trạng như của anh cơng nhân
Nguyễn Văn Hải rất phổ biến. Các vụ việc sập lở hầm mỏ gây ra những
hậu quả rất nặng nề không chỉ cho cá nhân, gia đình của từng cơng nhân
mà ngay cả công ty cũng lao đao. Tuy nhiên, hiện nay, công ty chúng tôi

21


đã thực sự giải quyết được bài tốn khó này khi hợp tác với Bảo Việt
Nhân thọ Quảng Ninh tham gia sản phẩm bảo hiểm nhóm”.
Trên thực tế, bảo hiểm con người đã được các doanh nghiệp kinh doanh

trong lĩnh vực phi nhân thọ triển khai mạnh. Nhiều sản phẩm cũng được
thiết kế khá linh hoạt và có nhiều quyền lợi cho người tham gia bảo hiểm
như: bảo hiểm trách nhiệm đối với người thứ 3, bảo hiểm trách nhiệm
thiết kế, bảo hiểm cháy và các rủi ro đặc biệt, bảo hiểm tổn thất vật chất
bất ngờ, bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy hoặc tổn thất, bảo hiểm
toàn diện doanh nghiệp...
Cùng với các sản phẩm bảo hiểm con người của các doanh nghiệp bảo
hiểm phi nhân thọ, mới đây, trên thị trường xuất hiện thêm một vài sản
phẩm bảo hiểm mới của doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ như: bảo hiểm
An Nghiệp Thành Công của Bảo Việt Nhân thọ. Đây là loại hình bảo hiểm
nhằm bảo vệ nguồn nhân lực của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp có
thêm phúc lợi dành cho người lao động.
Theo ông Quang, với chi phí khá hợp lý và phạm vi bảo hiểm được mở
rộng tối đa cho những thương tật, tử vong không do tai nạn, sản phẩm này
đang được khá nhiều doanh nghiệp quan tâm.
3.2 Người sử dụng lao động:
Trước khi Luật BHXH có hiệu lực thi hành chỉ có trên 6,6 triệu người
tham gia BHXH bắt buộc năm 2006. Đến nay, sau hơn một năm thực hiện
Luật BHXH, số lao động tham gia và được hưởng các quyền lợi về BHXH
đã tăng gần 2 triệu người (trên 25%). Tuy nhiên, vẫn còn một số lượng
lớn lao động thuộc diện bắt buộc nhưng chưa được tham gia, nhiều người
chưa được hưởng quyền lợi theo qui định của pháp luật.
Tình hình thực hiện pháp luật về BHXH của cơ quan BHXH,
người sử dụng lao động và người lao động:
Trong hơn một năm qua, với những quyền hạn, trách nhiệm được qui
định trong Luật BHXH và những chức năng, nhiệm vụ do Chính phủ giao,
để triển khai thực hiện thu BHXH có hiệu quả, BHXH các cấp đã tăng
cường, mở rộng tuyên truyền, vận động, phổ biến và tổ chức các cuộc thi
tìm hiểu về các chế độ, chính sách, pháp luật, hướng dẫn thủ tục thực hiện
BHXH không chỉ đối với người lao động, người sử dụng lao động mà còn

đến cả mọi người dân các tổ dân phố, khu dân cư với nhiều hình thức như
báo, đài phát thanh, truyền hình, áp phích, quảng cáo, tờ rơi .... Cán bộ
BHXH được trau dồi phẩm chất, nâng cao trình độ chun mơn, nghiệp
vụ, ý thức, trách nhiệm, tinh thần vì người tham gia và thụ hưởng mà phục
vụ. Cán bộ BHXH cũng đã dành phần lớn thời gian đến từng đơn vị sử
dụng lao động được phân công phụ trách để tuyên truyền, giải thích,

22


hướng dẫn và cùng cơ sở xử lý kịp thời những vướng mắc, khó khăn trong
việc thực hiện chính sách cho người lao động. Cơ quan BHXH đã từng
bước thực hiện cải cách thủ tục hành chính trong cơng tác quản lý và giải
quyết chế độ chính sách cho người lao động thông qua việc áp dụng công
nghệ thông tin và cơ chế "một cửa liên thông" đem lại hiệu quả tích cực;
hồ sơ, thủ tục giấy tờ liên quan đến việc tham gia và hưởng chế độ đã
từng bước được đơn giản hố; các qui định, qui trình nghiệp vụ ngày càng
phù hợp với thực tiễn, dễ hiểu, dễ thực hiện hơn; các thủ tục người sử
dụng lao động và người lao động phải làm ngày càng giảm; thời gian giải
quyết được rút ngắn hơn; khiếu nại, kêu ca về những sai sót, phiền hà,
chậm giải quyết chế độ, chính sách cho người lao động đã giảm bớt đáng
kể... Với những nỗ lực trong việc triển khai thực hiện công tác thu BHXH
theo Luật BHXH, số người tham gia BHXH bắt buộc được mở rộng và
ngày một tăng: năm 2007 tăng 18,5% so với năm 2006; 6 tháng đầu năm
2008 tăng thêm được khoảng 7%. Trên 3 triệu lượt đối tượng đang hưởng
các chế độ, chính sách BHXH được giải quyết hưởng trợ cấp kịp thời,
đúng qui định của pháp luật; góp phần đảm bảo ổn định đời sống người
lao động, ổn định chính trị, trật tự, an tồn xã hội.
Việc chấp hành các qui định của pháp luật về BHXH của người sử
dụng lao động và người lao động trong thời gian qua đã có nhiều chuyển

biến tích cực. Đa số các đơn vị sử dụng lao động đã chấp hành nghiêm
chỉnh các qui định của pháp luật về việc ký kết hợp đồng lao động, đăng
ký sử dụng thang, bảng lương, kê khai, lập hồ sơ đăng ký tham gia BHXH
cho người lao động. Năm 2007, thời điểm bắt đầu thực hiện Luật BHXH,
số đơn vị sử dụng lao động đăng ký tham gia đã tăng thêm gần 20 ngàn so
với năm 2006, nhiều đơn vị ngay sau khi thành lập và bắt đầu hoạt động
sản xuất kinh doanh có sử dụng lao động đã đăng ký tham gia và đóng
BHXH, BHYT cho người lao động. Đặc biệt, nhiều hộ sản xuất kinh
doanh cá thể, tổ hợp tác có sử dụng lao động đã đăng ký tham gia và đóng
BHXH theo qui định cho người lao động
So với cùng kỳ năm 2007, số vụ tai nạn lao động chết người trong lĩnh
vực xây dựng trên địa bàn TPHCM từ đầu năm đến nay tăng 21%. Ngay
cả tại các cơng trình xây dựng lớn tầm cỡ quốc gia, các nhà thầu cũng đều
vi phạm pháp luật về lao động
Đại đa số đều vi phạm pháp luật
Trước thực trạng trên, mới đây, Thanh tra Sở LĐ-TB-XH TPHCM đã
thanh tra một số công trường. Kết quả
thanh tra đã phản ánh một sự thật đáng lo
ngại: Đa số các đơn vị đều vi phạm pháp
luật lao động nghiêm trọng. Ông Hồ Hải
Nam, tổ trưởng thanh tra, cho biết hầu
hết lao động không được ký hợp đồng

23


lao động hoặc có thì phải qua cai thầu với hợp đồng thời vụ. Chính vì vậy,
họ khơng được tham gia BHXH, BHYT. Cơng tác huấn luyện an tồn- vệ
sinh lao động khơng được thực hiện, nếu có thì rất hình thức, khơng đủ
nội dung theo quy định. Do chạy theo lợi nhuận, việc trang bị các trang

thiết bị bảo hộ cho NLĐ rất sơ sài. Ở các công trường lớn, NLĐ chỉ được
trang bị một áo và nón, cịn lại phải tự mua giày, ủng cho mình. Cịn ở các
cơng trình nhỏ, lẻ thì NLĐ hồn tồn khơng được trang bị bảo hộ lao
động. Về phía NLĐ, do áp lực cơng việc và ít được đào tạo bài bản nên
chưa có ý thức phịng chống TNLĐ khi làm việc.
Điều đáng nói, ngay tại các cơng trình xây dựng lớn tầm cỡ quốc gia, các
nhà thầu cũng vi phạm pháp luật. Đơn cử như trường hợp Công ty Liên
doanh Obayashi – P.S Mitsubishi (thầu xây dựng đại lộ Đông Tây khu vực
cầu Calmette). Công ty này sử dụng 52 lao động nước ngồi nhưng khơng
có giấy phép lao động; th lại lao động của cơng ty khác, trong đó có
nhiều người khơng được tham gia BHXH, BHYT. Thậm chí, khi xảy ra
TNLĐ chết người cũng không khai báo với các cơ quan chức năng.
Theo quy định tại Khoản 4 Ðiều 12 Nghị định 113/2004/NÐ-CP ngày
16-4-2004 của Chính phủ quy định xử phạt hành chính về hành vi vi phạm
pháp luật lao động, người sử dụng lao động vi phạm các quy định về việc
không trả lương hoặc trả lương không đúng, không đầy đủ cho NLĐ làm
việc thêm giờ theo quy định của Bộ luật lao động thì có thể bị phạt tiền
theo các mức sau:
- Từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng, khi vi phạm với từ 01 người
đến 10 NLĐ;
- Từ 2.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng, khi vi phạm với từ 11 người đến
50 NLĐ;
- Từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng, khi vi phạm với từ 51 người
đến 100 NLĐ;
- Từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng, khi vi phạm với từ 101 người
đến 500 NLĐ;
- Từ 15.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng, khi vi phạm với từ 500 NLĐ
trở lên.
Ðồng thời người vi phạm còn bị áp dụng biện pháp khắc phục hậu
quả là phải trả lương làm thêm giờ theo đúng quy định của pháp luật cho

thời gian vượt quá.
Tin thêm về việc Giám đốc Công ty TNHH Vina Haeng Woon
Industry bỏ trốn:
Chiều 22-10, LĐLĐ TPHCM đã có báo cáo khẩn gửi lãnh đạo UBND
TPHCM về việc người sử dụng lao động nước ngồi nợ lương cơng nhân
(CN) và bỏ trốn. Theo đó, tại Cơng ty TNHH Vina Haeng Woon Industry
(số 3/5 Hồ Học Lãm, P16, Q8, TPHCM, chuyên may xuất khẩu), Giám
đốc công ty, bà Noh - Yeon Hong, đã cho 680 CN nghỉ việc trong khi

24


chưa thanh toán lương tháng 9, 10-2008 với số tiền hơn 2 tỷ đồng rồi biến
mất cùng một số cán bộ quản lý. Ngoài ra, bà Noh - Yeon Hong còn nợ
tiền thuê nhà xưởng khoảng 1,3 tỷ đồng, nợ gần 2 tỷ đồng BHXH.
LĐLĐ TP đề xuất lãnh đạo UBND TP chỉ đạo Sở LĐTB-XH, Sở Kế
hoạch - Đầu tư, Sở Ngoại vụ làm việc với Tổng Lãnh sự quán Hàn Quốc
tại TPHCM, yêu cầu bà Noh - Yeon Hong - phải quay trở lại công ty giải
quyết sự việc.
4. kiến nghị, giải pháp:
4.1. Kiến nghị:
- Là sinh viên đang ngồi trên ghế nhà trường càn cố gắn học tập, trao dồi
kiến thức
- Khơng ngừng nâng cao trình độ chuyên môn để tạo nguồn nhân lực lao
động cho đất nứớc.
- Nhà nước cần phải tuyên truyền rộng rãi luật lao động cho nhân dân biết
đặc biệt là học sinh, sinh viên và người lao động.
- Cần hỗ trợ người lao động nghèo, thu nhập thấp để họ vươn lên trong
cuộc sống và cơng việc.
- Thực hiện nhiều chính sách ưu đãi cho những doanh nghiệp giúp họ phát

triển trong sản xuất tạo nhiều việc làm cho người lao động.
- Nhà nước cần co những chính sách khen thưởng những doanh nghiệp
thực hiện tốt nghĩa vụ của mình (như đóng thuế đầy đủ, tạo nhiều việc làm
cho người lao động, có nhiều sáng kiến trong điều hành, quản lý lao
động…)
- Các doanh nghiệp - người sử dụng lao động cũng cần có những hoạt
động khên thưởng, động viên người lao động để họ nâng cao lao động sản
xuất, có những sang tạo trong cơng việc.
4.2. Giải pháp:
Trong tình hình hiện nay, Việt Nam đang hội nhập mạnh vào nền kinh
tế thế giới. bên cạnh những thành tựu mà Việt Nam đạt được về kinh tế,
hiện nay đang nổi lên vấn đề nguồn nhân lực và các vấn đề về quan hệ lao
động.
Trước những biến động của thị trường lao động, việc giải quyết các
mối quan hệ lao động trong doanh nghiệp cần phải thực hiện các biện
pháp:
25


×