MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Trong thời đại công nghiệp 4.0, tri thức đã trở thành động lực mới tạo ra sự
thịnh vượng trong xã hội. Lợi thế cạnh tranh chủ yếu của mỗi nền kinh tế ngày càng
phụ thuộc vào khả năng phát triển và ứng dụng khoa học – công nghệ vào sản xuất. Xu
thế này đã khẳng định tài sản trí tuệ và quyền sở hữu tài sản trí tuệ ngày càng trở nên
quan trọng, bảo hộ sở hữu trí tuệ được xem là một nguyên tắc cơ bản trong sự vận
động của nền kinh tế thế giới. Trong tình hình hiện nay, Việt Nam chúng ta đã và đang
từng bước thực hiện q trình cơng nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước với các sản phẩm
hàng hóa trên thị trường ngày càng đa dạng, phong phú. Tuy nhiên, hiện nay có nhiều
cơng ty đang gặp phải những tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ do sử dụng các nhãn
hiệu, kiểu dáng, … của sản phẩm tương tự hoặc giống hệt nhau dễ gây nhầm lẫn giữa
các thương hiệu. Một trong những tranh chấp điển hình về quyền sở hữu cơng nghiệp
đang diễn ra tại Việt Nam là vụ tranh chấp nhãn hiệu Grow Plus giữa Công ty Cổ phần
Sữa Việt Nam Vinamilk và Công ty Cổ phần Thực phẩm Dinh dưỡng NutiFood. Vụ
tranh chấp này đã gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đối với cả hai bên công ty, với
người tiêu dùng, với thị trường Việt Nam và cũng đặt ra những yêu cầu chặt chẽ hơn
về luật sở hữu trí tuệ và sự nghiêm túc chấp hành luật của các doanh nghiệp Việt.
Từ những lí do trên cũng như tính gần gũi và cấp thiết của vấn đề hiện nay, em
đã quyết định lựa chọn đề tài: "Tranh chấp nhãn hiệu Grow Plus giữa NutiFood và
Vinamilk”.
Mục đích nghiên cứu của đề tài:
Qua nghiên cứu về đề tài trên, em muốn đem đến một góc nhìn khái qt về sự
tranh chấp nhãn hiệu giữa hai công ty sữa hàng đầu Việt Nam, từ đó nhận thấy những
ảnh hưởng tiêu cực của sự vi phạm quyền sở hữu cơng nghiệp nói riêng, sở hữu trí tuệ
nói chung và rút ra những bài học kinh nghiệm cho các cá nhân và tổ chức.
Kết cấu của bài tiểu luận:
Đề tài được kết cấu bao gồm ba chương sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận
Chương 2: Nội dung vụ tranh chấp
Chương 3: Bài học kinh nghiệm rút ra từ vụ tranh chấp
2
Dù đã dành nhiều thời gian tìm hiểu và nghiên cứu nhưng bài tiểu luận không thể
tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của thầy và các
bạn để bài tiểu luận được hoàn thiện và chính xác hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
3
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Quyền sở hữu trí tuệ
1.1.1. Khái niệm quyền sở hữu trí tuệ
Quyền sở hữu trí tuệ là quyền đối với các sản phẩm sáng tạo trí tuệ, sử dụng và
chuyển giao các đối tượng của quyền tác giả, quyền liên quan và quyền sở hữu công
nghiệp, quyền đối với giống cây trồng. Cũng như các quan hệ pháp luật dân sự khác,
những tranh chấp liên quan đến việc xác lập quyền, sử dụng và chuyển giao các đối
tượng thuộc quyền sở hữu trí tuệ cũng thường phát sinh trong xã hội.
1.1.2. Các đối tượng của sở hữu trí tuệ
Sở hữu trí tuệ nhằm chỉ những sáng tạo của trí tuệ: sáng chế, tác phẩm văn học,
nghệ thuật và những biểu tượng, tên gọi và hình ảnh sử dụng trong thương mại.
1.1.3. Phân loại quyền sở hữu trí tuệ
-
Quyền tác giả và quyền liên quan đến quyền tác giả
Quyền sở hữu công nghiệp
Quyền đối với giống cây trồng
1.2. Nhãn hiệu
1.2.1. Khái niệm nhãn hiệu
Nhãn hiệu được sử dụng rộng rãi từ lâu trên thế giới và tại Việt Nam. Đây là
khái niệm được chuẩn hoá trong luật Việt Nam và quốc tế. Theo định nghĩa của Tổ
chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) thì nhãn hiệu là “các dấu hiệu dùng để phân biệt
hàng hoá, dịch vụ cùng loại hoặc tương tự của các cơ sở sản xuất, kinh doanh khác
nhau”
Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam cũng đưa ra định nghĩa nhãn hiệu như sau: Nhãn
hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác
nhau (khoản 16, điều 4, Luật sở hữu trí tuệ).
Nhãn hiệu có thể được tạo thành từ các dấu hiệu truyền thống là các chữ, chữ
số, dấu hiệu hình, màu sắc hoặc kết hợp của chúng. Tuy nhiên, với sự phát triển mạnh
mẽ của công nghệ và các phương tiện truyền thông hiện nay, luật pháp nhiều nước
4
cũng đã chấp nhận bảo hộ nhãn hiệu là các đối tượng mới, bao gồm các dấu hiệu âm
thanh, clip hình ảnh động, hình biến đổi theo góc nhìn, thậm chí cả mùi, vị và cảm
giác. Bên cạnh đó, các nhãn hiệu dịch vụ cũng được chấp nhận bảo hộ song song với
nhãn hiệu dùng cho hàng hóa. Luật Sở hữu trí tuệ của Việt Nam cũng như của nhiều
nước đang phát triển khác cho đến nay chỉ chấp nhận bảo hộ các nhãn hiệu dạng
truyền thống như nêu trên. Với việc Việt Nam trở thành thành viên của Tổ chức
thương mại thế giới, số lượng nhãn hiệu xin đăng ký tại Việt Nam của người Việt Nam
và nước ngoài ngày càng tăng. Hiện nay, mỗi năm có khoảng 35.000 nhãn hiệu xin
đăng ký tại Việt Nam, trong đó 2 phần 3 là nhãn hiệu của các doanh nghiệp trong
nước, đưa Việt Nam vào tốp đầu trong các nước Đông Nam Á về số nhãn hiệu xin
đăng ký trong một năm.
1.2.2. Đặc điểm của nhãn hiệu
-
Tính phân biệt: Việc đăng ký đối với một nhãn hiệu sẽ bị từ chối và theo
đó quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến nhãn hiệu cũng sẽ không được bảo vệ nếu nhãn
hiệu khơng có tính phân biệt hoặc trong một số trường hợp tính phân biệt đó khơng
được thể hiện một cách rõ ràng.
-
Tính đa dạng: Các dấu hiệu được xem xét như là nhãn hiệu ln tồn tại
dưới nhiều hình thức khác nhau, như là những từ ngữ, tên gọi (bao gồm cả tên riêng),
biểu tượng, hình ảnh, âm thanh hay bất kỳ sự kết hợp nào của các yếu tố này, hình
dạng của hàng hóa (nhãn hiệu khơng gian ba chiều), màu sắc hay sự kết hợp các màu
sắc và bất kỳ một cái gì khác có thể được sử dụng để xác định những hàng hóa hay
dịch vụ được bán hay được cung cấp trên thị trường.
-
Tính giá trị: Nhãn hiệu là một dạng tài sản rất quan trọng của chính
doanh nghiệp. Giá trị thương mại của nhãn hiệu có thể được xác định khi chính bản
thân các nhãn hiệu có thể được đưa vào lưu thơng chuyển nhượng trên thị trường.
-
Giới hạn lãnh thổ trong việc bảo hộ: Theo nguyên tắc giới hạn của lãnh
thổ quốc gia một nhãn hiệu thông thường phải được đăng ký bảo hộ ở một quốc gia
hay một vùng lãnh thổ nhất định. Khi nó sẽ được bảo hộ bởi pháp luật của quốc gia
hay vùng lãnh thổ đó.
5
1.2.3. Chức năng của nhãn hiệu
-
Chức năng phân biệt hàng hóa, dịch vụ của nhãn hiệu hàng hóa:
Trong nền kinh tế thị trường, hàng hóa, dịch vụ rất đa dạng và phong phú.
Người tiêu dùng lựa chọn hàng hóa, dịch vụ để mua chủ yếu dựa vào các dấu hiệu hay
nhãn hiệu hàng hóa mà các cơ sở sản xuất, kinh doanh gắn trên sản phẩm hay bao bì
sản phẩm khi đưa ra thị trường. Như vậy, nhãn hiệu hàng hóa có chức năng phân biệt
hàng hóa, dịch vụ cùng loại của các cơ sở sản xuất, kinh doanh khác nhau. Nhờ có
nhãn hiệu hàng hóa mà người tiêu dùng có thể xác định được hàng hóa, dịch vụ mà
mình u thích.
Chức năng thơng tin nguồn gốc hàng hóa, dịch vụ:
-
Người tiêu dùng quyết định chọn mua một sản phẩm nào đó mà khơng hề do dự
vì trước đây họ đã mua hàng hóa đó rồi, đã biết hàng hóa của nhà sản xuất nào và hoàn
toàn tin tưởng vào hàng hóa của nhà sản xuất đó. Như vậy, chỉ cần nhìn vào nhãn hiệu
hàng hóa, người tiêu dùng có thể có quyền nghĩ rằng các sản phẩm mang nhãn hiệu
hàng hóa đều có cùng nguồn gốc hoặc có mối liên hệ giữa các nhà sản xuất khác nhau
sử dụng nhãn hiệu hàng hóa giống nhau. Đối với các hàng hóa nhập khẩu hoặc sản
xuất theo hợp đồng li-xăng, thì nhãn hiệu hàng hóa cịn đóng vai trị chỉ dẫn nguồn gốc
của hàng hóa đó.
-
Chức năng thơng tin về sản phẩm:
Người tiêu dùng chọn mua hàng hóa vì họ hài lịng về chất lượng, giá cả của
hàng hóa đó. Họ chọn mua hàng hóa đó vì họ biết được chất lượng của hàng hóa, sản
phẩm được chế tạo từ loại vật liệu gì, hàng hóa đó phù hợp với nguồn tài chính của họ
và nhiều thơng tin khác về sản phẩm đó. Như vậy, nhãn hiệu hàng hóa có chức năng
thông tin gián tiếp về sản phẩm.
-
Chức năng quảng cáo:
6
Thơng qua vai trị cá thể hóa sản phẩm, màu sắc, sự nổi tiếng của nhãn hiệu
hàng hóa, nhãn hiệu hàng hóa cịn thực hiện chức năng quảng cáo sản phẩm cho nhà
sản xuất để sản phẩm có thể sớm đến được với người tiêu dùng.
-
Chức năng kiểm tra và tổ chức thị trường:
Sự nổi tiếng của nhãn hiệu hàng hóa thu hót nhà sản xuất đi đến lùa chọn nhãn
hiệu hàng hóa làm phương tiện để kiểm tra thị trường. Nhãn hiệu hàng hóa nổi tiếng
chiếm lĩnh thị trường, thị phần càng lớn, thì nhà sản xuất có nhiều cơ hội để kiểm tra
và tổ chức thị trường có lợi cho mình.
7
CHƯƠNG 2. NỘI DUNG VỤ TRANH CHẤP NHÃN HIỆU
GROW PLUS GIỮA VINAMILK VÀ NUTIFOOD
2.1. Giới thiệu chung về Vinamilk và NutiFood
2.1.1. Vinamilk
Vinamilk là tên gọi khác của Công ty cổ phần Sữa Việt Nam. Đây là doanh
nghiệp chuyên sản xuất và kinh doanh các sản phẩm được làm từ sữa vì vậy, Vinamilk
là một thương hiệu của Việt Nam. Cơng ty đã có lịch sử hình thành và phát triển hơn
40 năm với những sự biến đổi không ngừng. Dù có mặt trên thị trường Việt Nam từ rất
lâu, nhưng cho đến hiện tại, vị thế của Vinamilk trong ngành Công nghiệp sữa tại nước
ta vẫn chưa hề bị đánh bại.
Cơng ty Sữa Việt Nam (Vinamilk) chính thức được thành lập năm 1976 với tên
gọi ban đầu là Công ty Sữa – Cà Phê Miền Nam. Công ty thuộc Tổng cục Công nghiệp
Thực phẩm miền Nam. Cho đến thời điểm hiện tại, Công ty Sữa Vinamilk đã cung cấp
hơn 250 loại sản phẩm khác nhau, với nhiều ngành như sữa chua, phô mai, kem, sữa
đặc,…
Một số đặc điểm:
-
Vinamilk hiện là doanh nghiệp hàng đầu của ngành công nghiệp chế biến sữa. Ngoài
việc phân phối mạnh trong nước với mạng lưới hơn 220.000 điểm bán hàng phủ đều
63 tỉnh thành, sản phẩm Vinamilk còn được xuất khẩu sang 43 quốc gia trên thế giới
như Mỹ, Pháp, Canada, Ba Lan, Đức, Nhật Bản khu vực Trung Đông, Đông Nam Á...
Sau hơn 40 năm ra mắt người tiêu dùng, đến nay Vinamilk đã xây dựng được 14 nhà
máy sản xuất, 2 xí nghiệp kho vận, 3 chi nhánh văn phòng bán hàng, một nhà máy sữa
tại Campuchia (Angkormilk) và một văn phòng đại diện tại Thái Lan. Doanh thu xuất
khẩu chiếm 13% tổng doanh thu của cơng ty.
-
Hoạt động kinh doanh chính của công ty bao gồm chế biến, sản xuất và mua bán sữa
tươi, sữa đóng hộp, sữa bột, bột dinh dưỡng, sữa chua, sữa đặc, sữa đậu nành, thức
uống giải khát và các sản phẩm từ sữa khác. Năm 2011, Vinamilk mở rộng sản xuất,
chuyển hướng sang phân khúc trái cây và rau củ. Khơng lâu sau phân khúc hàng mới,
dịng sản phẩm đạt được thành công với 25% thị phần tại kênh bán lẻ tại siêu thị.
8
Tháng 2 năm 2012, công ty mở rộng sản xuất sang mặt hàng nước trái cây dành cho
trẻ em.
Có thể nói, trong hầu hết các gia đình Việt, ít nhiều đều có sử dụng một loai sản
phẩm nào đó đến từ thương hiệu sữa này. Với hơn 250 loại sản phẩm và liên tục được
cải tiến, đổi mới Vinamilk đã xây dựng nên “ngơi nhà dinh dưỡng” tồn diện, đáp ứng
đầy đủ các nhu cầu và thị hiếu, chăm sóc dinh dưỡng cho mọi thành viên trong gia
đình.
2.1.2. Nutifood
Cơng ty sữa Nutifood Việt Nam có tên đầy đủ là cơng ty cổ phần thực phẩm
dinh dưỡng Nutifood. Được thành lập năm 1989 với cái tên công ty Cổ phần thực
phẩm dinh dưỡng Thành Tâm, đến năm 2003 thì tên gọi Nutifood mới chính thức xuất
hiện. Các sản phẩm của cơng ty Nutifood luôn đạt chuẩn chất lượng phù hợp, an toàn,
giá cả hợp lý nhằm tập trung nâng cao sự hài lịng của khách hàng. Chính vì điều này
đã giúp công ty sữa Nutifood trở thành công ty thực phẩm hàng đầu tại Việt Nam và
khu vực. Hiện tại, công ty sữa Nutifood Việt Nam đã bao phủ khắp cả nước với đội
ngũ nhân viên chun nghiệp ln nhiệt tình, tận tình phục vụ khách hàng.
Sản phẩm ban đầu của NutiFood có 3 nhóm: nhóm bột dinh dưỡng ăn dặm,
nhóm sữa bột dinh dưỡng và nhóm thực phẩm dinh dưỡng cao năng lượng... Ngày ấy,
với sứ mạng cung cấp các giải pháp dinh dưỡng phù hợp với nhu cầu theo lứa tuổi,
theo bệnh lý và các nhu cầu đặc biệt khác, với kiến thức dinh dưỡng và sự ân cần
chăm sóc của văn hóa bán hàng đặc trưng, lực lượng bán hàng tuy còn "mỏng" nhưng
rất được thị trường tin yêu. Dù chưa thật sự chuyên nghiệp, nhưng hình ảnh và hoạt
động của thương hiệu NutiFood đã được người tiêu dùng Việt Nam liên tục bình chọn
vào Top 5 Hàng VN chất lượng cao kể từ năm 2001.
Một số đặc điểm:
+ NutiFood là một doanh nghiệp Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực thực phẩm dinh
dưỡng. Với thành tích chiếm 22% thị phần, chênh lệch gấp 1,77 lần doanh nghiệp xếp
kế tiếp, NutiFood đã vinh dự nhận danh hiệu Nhãn hiệu Sữa trẻ em số 1 Việt Nam từ
Hiệp hội sữa Việt Nam vào năm 2020.
9
+ Để có được các sản phẩm chất lượng cao tương đương hàng ngoại nhập, NutiFood đã
đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất tại khu CN Mỹ Phước, Bình Dương, với hệ thống
dây chuyền thiết bị hiện đại theo công nghệ Đức, Thụy Điển... bảo đảm chất lượng sản
phẩm, mơi trường an tồn vệ sinh thực phẩm. Các nguồn nước, khí, nhiệt độ mơi
trường, chất thải,… đều được kiểm soát chặt chẽ và lưu lại hồ sơ để quản lý. Quy trình
sản xuất khép kín từ chọn lọc kiểm tra nguyên liệu đầu vào cho đến khi vận chuyển
đến nhà phân phối sản phẩm, với hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn GMP,
HCCP, ISO 22.000 và dưới sự giám sát chất lượng của tổ chức ABS - QE Hoa Kỳ.
Chính vì vậy, NutiFood ln “đứng ngồi cuộc” các khủng hoảng về chất lượng sữa
xảy ra trong những năm qua như “sữa nhiễm melamine”, “sữa nhiễm khuẩn
Clostridium Botulinum” mà nhiều doanh nghiệp kể cả công ty đa quốc gia phải điêu
đứng.
Hiện Nutifood có doanh thu gần 8.000 tỷ đồng mỗi năm và hệ thống phân phối
khắp cả nước. Ngoài các sản phẩm dinh dưỡng đặc trị, doanh nghiệp cũng mở rộng
sang các sản phẩm dinh dưỡng hàng ngày như sữa tươi, sữa đậu nành, sữa chua…
2.2. Diễn biến vụ tranh chấp
Sự việc bắt đầu vào ngày 20/5/2015, Vinamilk tung ra thị trường sản phẩm sữa
dành cho trẻ suy dinh dưỡng, thấp còi mang nhãn hiệu Grow Plus. Chỉ một ngày sau,
NutiFood đã có ngay văn bản gửi tới Vinamilk vì cho rằng sản phẩm của Vinamilk có
sự trùng hợp ngẫu nhiên với sản phẩm của NutiFood cho ra thị trường từ năm 2012.
NutiFood khẳng định Grow Plus là sản phẩm mà công ty này đã bán ra thị trường từ
năm 2012, đồng thời đã thực hiện đầy đủ các thủ tục pháp lý, bảo đảm mình là chủ sở
hữu hợp pháp đối với nhãn hiệu này. Văn bản cịn nêu rõ kiểu dáng thiết kế bao bì
nhãn hiệu Grow Plus của Vinamilk cũng tương tự về màu sắc, sử dụng biểu tượng lá
cờ Mỹ giống như sản phẩm Grow Plus của NutiFood, dễ gây nhầm lẫn cho người tiêu
dùng. Phía NutiFood cho rằng "đã có sự trùng hợp ngẫu nhiên" khi Vinamilk "vơ tình
đặt tên" trùng nhãn hiệu, "vơ tình trong thiết kế bao bì dễ gây nhầm lẫn".
Nói về ảnh hưởng tiêu cực của sự việc này, văn bản do ông Trần Thanh Hải,
Chủ tịch HĐQT Công ty Cổ phần NutiFood nêu rằng: "Sự trùng hợp này dẫn tới người
tiêu dùng và thị trường hiểu lầm Quý Công ty (Vinamilk - PV) đã sao chép nhãn hiệu
của một công ty nội địa nhỏ bé như NutiFood, về lâu dài sẽ gây nhiều rủi ro cho Quý
10
Cơng ty vì niềm tin của người tiêu dùng vào các sản phẩm phải đặt trên cơ sở sự chính
trực của nhà sản xuất, đồng thời ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của NutiFood".
Đồng thời, sau đó, ngày 23/5, NutiFood cũng đã tiếp tục gửi thêm một văn bản
đến Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Thông tin và Truyền thơng cũng như Đài Truyền
hình Việt Nam nhằm kiến nghị về việc tạm chưa phát sóng quảng cáo sản phẩm "Grow
Plus" của Công ty Vinamilk do sử dụng nhãn hiệu hàng hóa có khả năng gây nhầm lẫn.
Trước vụ việc như vậy, Vinamilk đã có phản hồi NutiFood về nhãn hiệu, quyền
sở hữu trí tuệ của cơng ty. Văn bản do bà Mai Kiều Liên, Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng
Giám đốc Vinamilk ký ngày 26/5 có viết: "Dielac là một trong những nhãn hiệu truyền
thống lâu đời của Vinamilk, đã được sử dụng từ hàng chục năm nay và đã được đăng
ký bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Nhằm đáp ứng nhu cầu của nhiều đối tượng khách
hàng khác nhau, nhãn hiệu Dielac được Vinamilk phát triển và đa dạng hóa thành
nhiều dịng sản phẩm". Vinamilk khẳng định "Dielac Grow Plus" là một trong các
dòng sản phẩm của nhãn hiệu này. Đồng thời, Vinamilk cũng khẳng định tất cả các
nhãn hiệu cho các dịng sản phẩm của cơng ty này, trong đó có Dielac Grow Plus đều
đã được Vinamilk đăng ký bảo hộ nhãn hiệu theo đúng các quy định của pháp luật.
Song song với đó, Vinamilk nêu ra mục đích của việc đưa ra thị trường dịng
sản phẩm Dielac Grow Plus dành cho đối tượng trẻ suy dinh dưỡng thấp còi là dựa
trên sự nghiên cứu nhu cầu dinh dưỡng cho trẻ em Việt Nam. Điều này được xem là
lời giải thích, phản bác của Vinamilk khi bị NutiFood cho rằng đã có sự trùng hợp về
đối tượng mà sản phẩm này hướng đến.
Sự việc tranh chấp nhãn hiệu sữa Grow Plus của NutiFood và Vinamilk đến nay
vẫn cịn bỏ ngỏ. Việc xác định một doanh nghiệp có vi phạm quyền sở hữu trí tuệ hay
khơng cần có kết quả phán xét từ các cơ quan chức năng. Vì vậy nhãn hiệu sữa Grow
Plus của cả hai cơng ty vẫn cùng nhau tồn tại trên thị trường.
2.3. Đánh giá khách quan về vụ tranh chấp
Qua quan sát hai sản phẩm, chúng ta dễ dàng nhận thấy có những dấu hiệu
tương tự về nhãn hiệu sữa Grow Plus của hai công ty trên, cụ thể như sau: tên sản
phẩm Grow Plus; tem chứng nhận của Hoa Kỳ; đối tượng sử dụng: dùng cho trẻ suy
11
dinh dưỡng và thấp còi; biểu tượng: em bé phát triển khoẻ mạnh; tên cơng thức gần
giống nhau; nhóm sản phẩm: sữa bột; màu sắc: màu đỏ và vàng là hai màu chủ đạo.
Ở khía cạnh pháp lý, NutiFood cho rằng Vinamilk có hành vi sử dụng nhãn hiệu
dễ gây nhầm lẫn với sản phẩm của mình. Nhãn hiệu Grow Plus là một trong số những
nghiên cứu nổi bật của đơn vị này, được ra mắt vào tháng 4 năm 2012 và được người
tiêu dùng đánh giá rất cao về hiệu quả của sản phẩm.
Qua tìm hiểu, em nhận thấy rằng sản phẩm Grow Plus của NutiFood đã được
đăng ký bảo hộ nhãn hiệu từ tháng 8/2013, tuy nhiên, cho đến thời điểm này vẫn chưa
được cấp giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu. Về phía Vinamilk cũng khẳng định
dịng sản phẩm Dielac Grow Plus cũng đã được đăng ký nhãn hiệu và cũng chưa được
cấp giấy chứng nhận.
Mặc dù cả hai công ty đều đã đăng ký bảo hộ đối với nhãn hiệu Grow Plus, tuy
nhiên NutiFood là đơn vị đã thực hiện đăng ký bảo hộ trước Vinamilk. Quy định về
nguyên tắc nộp đơn đầu tiên (Điều 90 của luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, sửa đổi, bổ
sung năm 2009) như sau: “Trong trường hợp có nhiều đơn của nhiều người khác nhau
đăng ký các nhãn hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhau dùng cho
các sản phẩm, dịch vụ trùng hoặc tương tự với nhau… thì văn bằng bảo hộ chỉ được
cấp cho nhãn hiệu trong đơn hợp lệ có ngày ưu tiên hoặc ngày nộp đơn sớm nhất trong
số những đơn đáp ứng các điều kiện để được cấp văn bằng bảo hộ”.
Như vậy, Nutifood sẽ được hưởng sự ưu tiên do đáp ứng tiêu chí “ngày nộp đơn
sớm nhất” nếu đáp ứng đủ các điều kiện để được cấp văn bằng bảo hộ so với
Vinamilk. Tuy nhiên, do chưa xác định được phạm vi đăng ký bảo hộ của NutiFood
nên chưa thể xác định được nhãn hiệu sữa Grow Plus của Vinamilk nhầm lẫn với sản
phẩm của NutiFood tới mức độ nào. Hơn nữa, NutiFood chưa được cấp giấy chứng
nhận đăng ký nhãn hiệu Grow Plus nên Vinamilk sẽ không bị xử phạt vi phạm hành
chính, NutiFood cũng khơng có quyền ngăn chặn hành vi của Vinamilk khi chưa được
cấp văn bằng bảo hộ.
12
Vì vậy, để có câu trả lời chính xác, chúng ta cần đợi kết luận từ cục Sở hữu trí
tuệ sau khi xem xét, thẩm định, công bố kết quả về việc đăng ký bảo hộ nhãn hiệu sản
phẩm sữa Grow Plus của hai đơn vị trên.
2.4. Ảnh hưởng của vụ tranh chấp
Việc tranh chấp nhãn hiệu Grow Plus của Công ty Cổ phần Sữa Việt Nam
Vinamilk và Công ty Cổ phần Thực phẩm Dinh dưỡng NutiFood không chỉ tạo ra một
cuộc chiến thương hiệu giữa hai công ty hàng đầu trong nước về sản phẩm sữa mà cịn
có những tác động tiêu cực đối với cả hai bên, với người tiêu dùng, với thị trường và
cả thương hiệu hàng Việt Nam.
Với cả hai công ty: sự tranh chấp nhãn hiệu Grow Plus không thể giải quyết
bằng biện pháp đàm phán trong hịa bình giữa hai phía cơng ty mà phải đưa ra tịa xét
xử. Vụ kiện này khơng chỉ gây ra những thiệt hại cho cả hai bên do chi phí để tiến
hành xét xử mà mối quan hệ gắn kết tốt đẹp giữa các doanh nghiệp Việt cũng bị rạn
nứt. Ngoài ra, vụ tranh chấp nhãn hiệu Grow Plus đã và đang làm giảm uy tín, chất
lượng của cả hai công ty. Một chuyên gia thương hiệu cho rằng: “Cả NutiFood và
Vinamilk đều là những thương hiệu lâu năm, đã có uy tín, chỗ đứng trên thị trường,
nhất là đã có một số lượng khách hàng trung thành, vậy cớ sao phải na ná nhau như
vậy? Một khi người tiêu dùng đã tin cậy chất lượng và yêu q thương hiệu nào thì dù
doanh nghiệp đó có bao bì, mẫu mã mới lạ, họ vẫn chọn lựa, tin dùng. Đành rằng cùng
một dịng sản phẩm, cơng dụng như nhau sẽ khó tránh khỏi sự trùng lắp về cơng thức
sản xuất nhưng ý tưởng marketing, bao bì sản phẩm, màu sắc thì hồn tồn có thể khác
biệt, khơng nhất thiết hãng này màu xanh, hãng kia cũng phải màu xanh na ná, hay
hãng này lấy tên này, hãng kia cũng lấy tên tương tự hoặc y chang nhau.” (Nguyên Vũ,
2015). Các doanh nghiệp sữa Việt Nam đã có một thời gian dài nỗ lực không ngừng để
thị trường sữa thoát khỏi cảnh bị chiếm lĩnh bởi thương hiệu ngoại nên vụ tranh chấp
này đang phần nào làm giảm những nỗ lực đó.
Với người tiêu dùng: sự giống nhau về tên gọi và kiểu dáng thiết kế bao bì của
hai sản phẩm khác nhau đến từ hai công ty đứng đầu Việt Nam trong thị trường sữa
cho trẻ em đã gây ra sự nhầm lẫn khó phân biệt cho người tiêu dùng. Do vẫn chưa có
kết quả thẩm định từ các cơ quan chức năng có thẩm quyền nên hai loại sản phẩm này
vẫn được lưu hành trên thị trường và hai công ty vẫn liên tục sản xuất, quảng cáo sản
13
phẩm của mình. Nhiều người tiêu dùng đã phàn nàn rằng họ đã mua nhầm hai loại sữa
này do sự giống nhau cũng như bày bán tại cùng một gian hàng trong các cửa hàng, hệ
thống phân phối bán lẻ cũng như trong các siêu thị. Hai sản phẩm này hình thức giống
nhau nhưng chất lượng, hương vị, thành phần của từng loại khác nhau nên người tiêu
dùng không chỉ mua nhầm sản phẩm mà còn nhận thấy mặt hàng này giống như nhiều
hàng giả hàng nhái, khó phân biệt thật giả. Ngồi việc mua nhầm thì sữa Grow Plus là
sản phẩm dành cho trẻ em nên nhiều bậc cha mẹ khi mua nhầm đã lo lắng rằng khi trẻ
đang dùng quen sản phẩm của công ty này mà giờ dùng sản phẩm của cơng ty khác thì
có những ảnh hưởng không tốt đối với sức khỏe và sự phát triển của trẻ. Dù rằng một
số khách hàng trung thành của hai thương hiệu sữa Vinamilk và NutiFood đã có nhận
thức được sự giống nhau này và phân biệt được hai loại sản phẩm khi mua hàng nhưng
rất nhiều khách hàng mục tiêu đã mất niềm tin vào cả hai thương hiệu sữa, cho dù chất
lượng sản phẩm có tốt với giá cả hợp lý thì họ vẫn chuyển sang sử dụng sản phẩm của
các công ty khác và các cơng ty từ nước ngồi.
Với thị trường và thương hiệu hàng Việt Nam: Chính phủ Việt Nam cùng các
doanh nghiệp trong nước đã và đang nỗ lực xây dựng thương hiệu hàng Việt Nam với
khẩu hiệu " Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam" để phát triển sản xuất, tiêu
dùng, mở rộng quy mô thị trường tiêu thụ nội địa và định hướng sản xuất hướng về
xuất khẩu đưa hàng hóa Việt Nam vươn ra thị trường quốc tế. Trong quá trình này, các
doanh nghiệp Việt Nam phải tiên phong đi đầu trong sáng tạo đổi mới để tạo ra các sản
phẩm đa dạng với chất lượng cao thì có những doanh nghiệp lại đi ngược lại, bắt
chước mẫu mã kiểu dáng sản phẩm của nhau gây hiểu lầm cho người tiêu dùng. Hành
động vi phạm quyền sở hữu cơng nghiệp của hai cơng ty sữa nói riêng và các vụ kiện
khác liên quan đến quyền sở hữu cơng nghiệp nói chung đang là những yếu tố cản trở
mục tiêu và mọi nỗ lực chung của tất cả mọi người. Sự giống nhau dễ gây nhầm lẫn
giữa các thương hiệu nổi tiếng tạo ra tín hiệu thị trường không trung thực khiến cho
hàng giả hàng nhái kém chất lượng có cơ hội xuất hiện. Người tiêu dùng trong nước
vốn đã ưa thích dùng hàng ngoại, đã có nhận thức được khuyến khích sử dụng hàng
Việt nhưng hàng nội địa đem đến chất lượng sản phẩm và trải nghiệm không tốt cho
người dùng. Sản phẩm sữa cùng các loại sản phẩm khác có tranh chấp về mặt pháp lý
đưa ra tịa kiện đã làm giảm uy tín của bản thân sản phẩm đó trên thị trường, của hai
14
cơng ty sở hữu sản phẩm đó nhưng cũng có những tác động khơng nhỏ đến uy tín của
hàng Việt nói chung.
15
CHƯƠNG 3. BÀI HỌC RÚT RA TỪ VỤ TRANH CHẤP
Sau vụ tranh chấp nhãn hiệu Grow Plus của Công ty Cổ phần sữa Việt Nam
Vinamilk và Công ty Cổ phần Thực phẩm dinh dưỡng NutiFood, hệ quả để lại là
những thiệt hại về thời gian, tiền bạc cũng như hình ảnh, uy tín, thương hiệu của cả hai
doanh nghiệp, ảnh hưởng tới người tiêu dùng, cũng như với thị trường và thương hiệu
hàng Việt Nam.
Vậy bài học rút ra cho nhà nước và doanh nghiệp để bảo vệ được hàng hố và
dịch vụ của mình, đảm bảo sự lành mạnh trong sản xuất và kinh doanh hiện nay khi
tạo dựng nhãn hiệu hàng hố các cơng ty là gì?
3.1. Về phía Doanh nghiệp
-
Đầu tiên, các doanh nghiệp phải có phương án đặt tên và thiết kế cho nhãn hiệu hàng
hoá của mình sao cho nhãn hiệu đó phải có tính độc đáo, tính phân biệt và đặc biệt
phải đáp ứng được tiêu chuẩn bảo hộ. Đối với một doanh nghiệp sản xuất kinh doanh,
nhãn hiệu là một thứ rất quan trọng. Nó như là một cơng cụ để nhận biết, phân biệt, so
sánh và khẳng định thương hiệu của một doanh nghiệp sở hữu nhãn hiệu đó. Để đưa
một sản phẩm hàng hoá (bao gồm cả dịch vụ) vào thị trường, trước hết bạn phải lên kế
hoạch thiết kế, chế tạo sản phẩm có chất lượng, hình thức, tính năng, giá cả phù hợp
với thị hiếu của người tiêu dùng. Sau đó thiết kế nhãn hiệu hàng hố phù hợp với sản
phẩm. Khi hàng hoá đã được người tiêu dùng chấp nhận và tin tưởng, thì nhãn hiệu
hàng hố sẽ tạo ra lợi nhuận rất lớn thông qua sản xuất hàng hố mang nhãn hiệu đó.
Khi đó nhãn hiệu hàng hoá trở thành tài sản rất quan trọng của doanh nghiệp.
-
Tiếp theo, các cơng ty cần hồn tất việc xác lập quyền của chủ sở hữu đối với nhãn
hiệu trước khi đưa sản phẩm ra thị trường. Khi bàn về vấn đề đăng ký bảo hộ nhãn
hiệu độc quyền, không ít người đã phản hồi như sau: “Việc đăng ký nhãn hiệu độc
quyền pháp luật không bắt buộc. Những cửa hàng nhỏ, lẻ không cần thiết phải làm thủ
tục đăng ký. Chỉ những thương hiệu lớn mới cần phải đăng ký để xác lập quyền sở hữu
đối với thương hiệu của mình” hoặc “Đăng ký nhãn hiệu, thương hiệu nhưng người
khác lấy thương hiệu, nhãn hiệu đó sử dụng thì người đăng ký cũng khơng có cách nào
u cầu họ dừng lại việc này”. Ít nhất, khi đăng ký thương hiệu, nhãn hiệu, bạn đã có
16
cơ sở pháp luật để sử dụng trong các vụ tranh chấp nếu có. Trong trường hợp này,
doanh nghiệp hồn tồn có thể địi hỏi bồi thường. Trong trường hợp có nhiều đơn
khác nhau cùng đăng ký độc quyền một nhãn hiệu thì chỉ có duy nhất 1 đơn hợp lệ
được cấp văn bằng với ngày nộp sớm nhất.
-
Cuối cùng, sẽ rất quan trọng nếu các công ty xây dựng được phương án bảo vệ nhãn
hiệu hàng hố khi có người thứ ba thực hiện hành vi xâm phạm. Theo luật nhãn hiệu
hàng hoá Việt Nam, để Nhà nước bảo hộ nhãn hiệu hàng hố của mình, doanh nghiệp
phải nộp đơn yêu cầu bảo hộ nhãn hiệu hàng hoá cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền
(trừ trường hợp nhãn hiệu nổi tiếng, mặc dù chủ sở hữu không nộp đơn yêu cầu bảo
hộ, nhưng nhãn hiệu vẫn được bảo hộ theo một cơ chế bảo hộ đặc biệt). Luật nhãn
hiệu hàng hoá Việt Nam quy định việc cấp văn bằng bảo hộ theo nguyên tắc “nộp đơn
đầu tiên”. Nghĩa là nếu có từ hai chủ thể trở lên nộp đơn cho cùng một nhãn hiệu hàng
hố thì người nộp đơn đầu tiên sẽ được cấp văn bằng bảo hộ nếu nhãn hiệu đó đáp ứng
các tiêu chuẩn bảo hộ.
3.2. Về phía cơ quan nhà nước
-
Thứ nhất, Việt Nam cần có một khung pháp lý về bảo hộ và phát triển các tài sản trí
tuệ bảo đảm tính chính xác, rõ ràng; những cải cách về hệ thống các biện pháp bảo tồn
và phát triển các tài sản trí tuệ theo hướng có sự phân quyền rõ ràng, đối với các loại
hình tài sản trí tuệ khác nhau được quản lý bởi các cơ quan khác nhau.
-
Thứ hai, cần có các biện pháp chủ động hỗ trợ các doanh nghiệp trong hoạt động
phòng, chống hàng giả, hàng nhái với sự phối hợp của nhiều cơ quan liên quan của
Chính phủ, của các trường đại học, doanh nghiệp, các tổ chức phi chính phủ trong và
ngồi nước, cũng như cộng đồng.
-
Thứ ba, thực hiện nghiêm túc và triệt để xử phạt các hành vi xâm phạm quyền sở hữu
trí tuệ, có thể nâng cao khung hình phạt đồng thời ban hành thêm các hình thức xử
phạt nhằm mang tính răn đe hơn các cá nhân, tổ chức có ý định xâm phạm quyền sở
hữu trí tuệ.
17
KẾT LUẬN
Cuộc tranh chấp của Vinamilk và NutiFood chính là bài học chung cho các
doanh nghiệp Việt Nam. Một thương hiệu Việt Nam chân chính và ln giữ được cảm
tình của người tiêu dùng là thương hiệu dám tiên phong đi đầu để tạo sự khác biệt,
mang đến cho người tiêu dùng những sản phẩm hoàn hảo nhất về mặt dinh dưỡng và
sức khỏe. Việc bắt chước nhãn hiệu của nhau không chỉ làm giảm năng lực cạnh tranh
của Doanh nghiệp Việt mà quan trọng hơn, nó cịn tạo ra hình ảnh khơng đẹp trong
lịng người tiêu dùng, làm mất niềm tin vào các doanh nghiệp.
Việc tranh chấp về nhãn hiệu Grow Plus của Công ty Cổ phần Sữa Việt Nam
Vinamilk và Công ty Cổ phần Thực phẩm Dinh dưỡng NutiFood đến thời điểm hiện
tại vẫn chưa có kết quả xét xử chính thức của tịa án và Cục Sở hữu trí tuệ nhưng đã có
thể nhận thấy rõ những hậu quả không mong muốn từ vụ kiện này. Đây không chỉ là
vấn đề tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ của riêng hai cơng ty mà đã trở thành vấn đề
pháp lý, cần sự điều chỉnh và quản lý chặt chẽ từ phía các cơ quan nhà nước, là vấn đề
đặt ra với lĩnh vực sở hữu trí tuệ tại Việt Nam.
Vì vậy, tất cả các cơng ty, doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp trong nước
cần trang bị những kiến thức về pháp luật sở hữu công nghiệp nói riêng và luật sở hữu
trí tuệ nói chung, nghiêm túc chấp hành thực hiện theo pháp luật để xây dựng và phát
triển thương hiệu hàng Việt Nam không chỉ bền vững trong nước mà còn lan tỏa trên
thị trường quốc tế.
18
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Nết (2005), Giáo trình Quyền Sở hữu trí tuệ, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia
TP Hồ Chí Minh
2. Bá Ngơn (2015), Nhìn từ cuộc chiến thương hiệu “Grow Plus”: Ai là người
chịu thiệt?, />3. Pham.com.vn, Bàn về khái niệm nhãn hiệu và thương hiệu,
/>4. News.timviec.com.vn (2020), Cơng ty sữa Vinamilk: Q trình phát triển
thương hiệu sữa Việt tỷ đô, />5. Nutifood.com.vn (2020), Lịch sử hình thành và phát triển của NutiFood,
/>
19