Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.53 MB, 5 trang )
Kỹ thuật sản xuất giống
Kỳ đà
- Muốn sinh sản được giống kỳ đà trước hết phải biết phân biệt con đực, con
cái. Kỳ đà cái có gốc đuôi nhỏ, cuối đuôi nhọn; con đực gốc đuôi to, tròn,
khi kiểm tra bộ phận sinh dục, ấn nhẹ gai giao cấu lồi ra.
- Chọn giống bố mẹ: Kỳ đà nuôi được 1 năm, tiến hành chọn những con bố
mẹ to khỏe, không bị dị tật, không bị bệnh, nhốt chung chuồng bình thường,
tỷ lệ 1 đực 2 cái.
- Do đặc tính khi kỳ đà đẻ trứng, chúng thường ăn lại trứng, nên tỷ lệ trứng
bị hao hụt rất nhiều, thậm chí ăn hếtẩc số trứng vừa đẻ ra. Để khắc phục vấn
đề nàu cần nghiên cứu và thiết kế độc quyền kiểu chuồng đẻ cho kỳ đà tránh
việc kỳ đà ăn lại trứng sau khi đẻ.
- Chuồng đẻ đơn giản nhưng rất hiệu quả, chuồng xây cao 1,5m (ở trên có
lưới và mái che để cho kỳ đà không chui ra ngoài), chiều rộng 1m, dài 2 m.
Đáy chuồng đổ cát dày khoảng 20 – 30cm, sàn chuồng dùng lưới B40, hoặc
lưới mắt cáo vuông 4 cm, cách mặt cát 30cm. Khi kỳ đà đẻ trứng sẽ rơi
xuống cát, trứng không bị dập vỡ và kỳ đà cungz không ăn trứng được.
- Kiểm tra con cái, sờ vào bụng khi nào thấy trứng to gần bằng trứng gà ri, ta
bắt con cái riêng sang chuồng đẻ. Sau 15 ngày là kỳ đà bắt đầu đẻ, mỗi con
đẻ từ 14 – 15 trứng/lứa, một năm đẻ 2 lứa. Lưu ý: Khi kỳ đà đẻ xong, sau 2
giờ đồng hồ mới mang vào phòng ấp. Trước khi thu trứng phải đánh dấu đầu
trên của trứng, khi xếp trứng đầu trên phải quay lên trên.
- Chuẩn bị phòng ấp: Trong phòng ấp cũng đổ cát dày 30cm, dùng hũ bằng
sành cao 30cm, đường kính miệng hũ khoảng 22cm. Xung quanh thành hũ
khoan nhiều lỗ nhỏ (khoảng 1ly) để cát khỏi lọt vào. Dưới đáy hũ lót cát
3cm, sau đó xếp trứng kỳ đà vào, không xếp trứng sát thành quá. Trong