Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

Vua mạc trói mình dâng đất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (770.87 KB, 32 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

BÀI TIỂU LUẬN MƠN SỬ LIỆU HỌC
ĐỀ TÀI: VUA MẠC TRĨI MÌNH DÂNG ĐẤT

GVDH: TS. TRẦN THUẬN

SVTH: Võ Ngọc Khánh Ngân – 2056040021
Hoàng Thị Hạnh – 2056040054
Đinh Nguyễn Gia Nghi – 2056040094
Lê Thị Ngọc Thường – 2056040148
Nguyễn Thị Chúc Ly – 2056040085

Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 11 năm 2021


DẪN LUẬN...............................................................................................................................................4
1.

Lý do chọn đề tài:...........................................................................................................................4

2.

Mục tiêu nghiên cứu:.....................................................................................................................4

3.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:................................................................................................4

4.



Phương pháp nghiên cứu:..............................................................................................................4

5.

Cấu trúc đề tài:...............................................................................................................................4

NỘI DUNG................................................................................................................................................6
I.

TÌNH HÌNH ĐẤT NƯỚC THỜI NHÀ MẠC...........................................................................6
1.

Sự hình thành và phát triển của triều Mạc.................................................................................6

2.

Kinh tế, văn hóa thời nhà Mạc...................................................................................................7
a)

Kinh tế....................................................................................................................................7

b)

Giáo dục thi cử.......................................................................................................................7

c)

Văn hóa nghệ thuật................................................................................................................7


d)

Nội trị.....................................................................................................................................8

3.

Quân đội và ngoại giao..............................................................................................................9
a)

Quân đội.................................................................................................................................9

b)

Ngoại giao............................................................................................................................10

4.

Nhà Mạc cắt đất cho nhà Minh................................................................................................13

II.

3

MẠC ĐĂNG DUNG CÓ DÂNG ĐẤT CHO NHÀ MINH HAY KHƠNG?...................14

2.1

Nhà Mạc và vấn đề nguỵ triều, cướp ngơi..........................................................................14

2.2


Về mối quan hệ giữa nhà Mạc với nhà Minh (Trung Quốc)..............................................16

a)

Vấn đề đầu hàng:.................................................................................................................16

b)

Vấn đề dâng đất:..................................................................................................................20

CÁC NHẬN ĐỊNH ĐÁNH GIÁ VỀ NHÀ MẠC...................................................................23

KẾT LUẬN.............................................................................................................................................33

DẪN LUẬN
1. Lý do chọn đề tài:
Mạc Đăng Dung là một trong những nhân vật gây nhiều tranh cãi nhất trong lịch sử
Việt Nam. Trong các bộ chính sử thời phong kiến của nước ta như "Đại Việt sử ký
toàn thư” thời Lê - Trịnh và "Việt sử thông giám cương mục” thời Nguyễn, cũng như
quan niệm của các sử gia trước đây thường coi triều Mạc là ngụy triều, nghịch thần.
Xưa nay sử chép rằng Thái Tổ nhà Mạc là Mạc Đăng Dung đã cắt đất Đại Việt dâng
cho nhà Minh để bảo vệ ngôi báu, lưu lại tiếng xấu sau này. Về mối quan hệ bang giao
giữa nhà Mạc và nhà Minh, sự thật có phải Mạc Đăng Dung đã “trói mình dâng đất”
hay không và trong giai đoạn nhà Mạc nắm quyền đã có thái độ ứng xử với nhà Minh


lúc đó như thế nào? Nhiều nhà nghiên cứu sử học dưới quan niệm cũ đã có những cái
nhìn phiến diện, cực đoan, phủ nhận vai trò của vương triều này và quy cho triều đại
này những “tội danh” rất nặng. Nhưng từ năm 1985 đến nay đã có nhiều Hội nghị

khoa học nghiên cứu, khẳng định những đóng góp, những tiến bộ của nhà Mạc, giới
sử học nước nhà cũng đã có những cái nhìn cởi mở hơn, đánh giá đúng hơn về triều
Mạc. Đa phần các nhà nghiên cứu đều cho rằng, việc nhà Mạc thay nhà Lê là một tất
yếu trong lịch sử Việt Nam. Giới sử học Việt Nam đã bắt đầu có sự nhìn nhận đánh giá
một cách công bằng hơn, khách quan hơn. Nhà Mạc có những cống hiến vào lịch sử
dân tộc khơng phải nhỏ... Với mong muốn tìm hiểu những vấn đề, những nhận định, ý
kiến xung quanh Mạc Đăng Dung và triều Mạc. Liệu có phải Mạc Đăng Dung đã
cướp ngơi và triều Mạc có phải là ngụy triều? Nhà Mạc có đầu hàng, dâng đất cho nhà
Minh hay khơng? Vậy nên nhóm em đã chọn đề tài: Mạc Đăng Dung “trói mình dâng
đất” để tìm hiểu và làm rõ được vấn đề ấy qua quá trình học hỏi và nghiên cứu.
2. Mục tiêu nghiên cứu:
Tìm hiểu và nghiên cứu các vấn đề xung quanh Mạc Đăng Dung và nhà Mạc,
những ý kiến, đánh giá khách quan của các nhà nghiên cứu về Mạc Đăng Dung có
“trói mình dâng đất” hay không?
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng: Mạc Đăng Dung “trói mình dâng đất”.
- Phạm vi nghiên cứu: Qua những hội thảo khoa học, tài liệu tham khảo qua
sách, luận án tiến sĩ, cơng trình nghiên cứu của các nhà sử học và tìm hiểu
được qua báo chí, internet...
4. Phương pháp nghiên cứu:
Phân tích và tổng hợp, liệt kê, chọn lọc các nguồn tài liệu, đây là những phương
pháp được sử dụng chủ yếu trong đề tài này.
5. Cấu trúc đề tài:
Ngoài phần Dẫn luận, Nội dung và Kết luật, bài tiểu luận của nhóm chúng em cịn
chia thành 3 phần như sau:
1. Tình hình đất nước thời nhà Mạc
2. Mạc Đăng Dung có dâng đất cho nhà Minh hay không?
3. Các nhận định đánh giá về nhà Mạc



NỘI DUNG
I.
TÌNH HÌNH ĐẤT NƯỚC THỜI NHÀ MẠC
1.
Sự hình thành và phát triển của triều Mạc
Nhà Mạc là triều đại phong kiến trong lịch sử Việt Nam, bắt đầu khi vua Mạc Thái Tổ
lên ngôi tháng 6 năm 1527 và chấm dứt khi vua Mạc Mậu Hợp, bị quân đội Lê – Trịnh
do Trịnh Tùng chỉ huy đánh bại vào cuối năm 1592. Nhà Mạc, từ Mạc Thái Tổ đến
Mạc Mậu Hợp truyền được năm đời – 65 năm bị sử sách lên án: tổ chức đảo chính lật
đổ nhà Lê (1527) – bất trung, đầu hàng và cắt đất cho nhà Minh (1540) – bán nước.
Các hậu duệ nhà Mạc như Mạc Kính Cung, Mạc Kính Khoan, Mạc Kính Vũ vẫn còn
tiếp tục chống lại nhà Hậu Lê thời kỳ Trung hưng đến tận năm 1677 tại khu vực Cao
Bằng. Thời kỳ 1527 – 1 592 trong lịch sử Việt Nam còn được gọi là thời kỳ Nam –
Bắc triều, do chính quyền nhà Mạc chỉ thực sự có quyền lực từ địa phận Ninh Bình
ngày nay trở ra, cịn từ Thanh Hóa trở vào trên danh nghĩa nằm trong tay các vua Lê –
được phục dựng trở lại từ năm 1533.
Mạc Thái Tổ (Mạc Đăng Dung) là người sáng lập ra nhà Mạc, Nhà Mạc do ông dựng
lên không những chỉ phải lo khôi phục sơn hà xã tắc đã suy kiệt từ cuối thời kỳ Lê sơ
mà còn phải chống chọi lại với phản ứng rất mãnh liệt của phần lớn các cựu thần nhà
Hậu Lê với tư tưởng trung quân của Nho giáo, chẳng hạn Cương mục có viết Đăng
Dung sợ lịng người tưởng nhớ nhà Lê cũ, sinh ra biến cố, nên phàm việc đều noi theo
chế độ triều Lê, do vậy các sửa đổi của ông về mọi quy chế trong nước là không
nhiều.

Mạc Thái Tổ Mạc Đăng Dung (1483 – 1540)
(Ảnh ngoại cảm, Đoàn Việt Tiến vẽ)


2.


Kinh tế, văn hóa thời nhà Mạc
a)
Kinh tế

Mạc Thái Tổ đã đưa ra một số quy chế về ruộng đất bao gồm: binh điền, lộc điền,
quân điền, dựa trên các quy chế đã có từ thời Hồng Đức (Lê Thánh Tông) hay việc
cho đúc tiền Thông Bảo.
Thời kỳ Mạc Thái Tơng trị vì có thể coi là thời kỳ đỉnh cao của nhà Mạc. Lúc đó nhà
Lê chưa trung hưng, toàn cõi do nhà Mạc cai quản, cảnh thịnh trị được các sử gia nhà
Lê – triều đại đối địch với nhà Mạc – soạn Đại Việt sử ký toàn thư, phải ghi nhận:
"Đêm ngủ khơng đóng cửa, ngồi đường khơng ai nhặt của rơi"
Nhìn tổng thể, nhà Mạc có tư duy kinh tế cởi mở, sớm nhìn thấy xu thế tiến bộ của thủ
công nghiệp, thương mại và kinh tế hàng hóa; điều đó khác hẳn với chính sách bảo thủ
của nhà Lê. Nhà Mạc cai trị trong 65 năm đã đưa vùng Đông Bắc giàu mạnh lên, về
ngoại thương đã vươn tới thị trường các nước châu Á. Tuy nhiên, kinh tế vẫn chủ yếu
dựa vào nông nghiệp theo phương thức tiểu nông, tàn dư của phương thức sản xuất Á
Đông cùng chế độ gia trưởng với nền kinh tế manh mún, khiến mầm mống tư bản chủ
nghĩa chớm nảy sinh đã không phát triển được.
b)

Giáo dục thi cử

Nhà Mạc rất chú trọng tới nhân tài từ tuyển chọn qua đường thi cử. Tuy chiến tranh,
nhưng nhà Mạc cũng chú ý đào tạo và xây dựng hệ thống quan lại thông qua 22 kỳ
khoa cử với chu kỳ ba năm một lần, bắt đầu từ năm 1529 và chấm dứt năm 1592.
Chẳng hạn năm 1535, nhà Mạc mở khoa thi Hội, lấy Nguyễn Bỉnh Khiêm, Bùi Khắc
Đốc, Nguyễn Thừa Hưu đỗ tiến sĩ cập đệ; Nguyễn Di Lượng cùng 6 người khác đỗ
tiến sĩ xuất thân; Nguyễn Trùng Quang cùng 21 người khác đỗ đồng tiến sĩ xuất thân.
Một ghi nhận nữa là tận năm 1592, khi chiến sự bên bờ nam sông Hồng diễn ra ác liệt
trước cuộc tổng tấn công của quân Lê Trịnh, vua Mạc Mậu Hợp vẫn tổ chức thi ở Bồ

Đề bên kia sông theo đúng định kỳ để lấy được 18 tiến sĩ. Trong 65 năm tồn tại ở
Thăng Long, nhà Mạc mở 21 kỳ thi Hội, lấy đỗ 485 Tiến sĩ và 13/46 trạng nguyên
trong 800 năm thi cử Nho học thời phong kiến Việt Nam.
Khi rút lên Cao Bằng, họ Mạc vẫn tổ chức thi cử để lấy người hiền tài. Có một kỳ thi
người đỗ đầu là một phụ nữ tên là Nguyễn Thị Duệ.
c)

Văn hóa nghệ thuật

Văn học nhà Mạc chia làm 3 thể loại chính:


Hiến chương: tiêu biểu là Giáp Hải (tác phẩm Ứng đáp bang
giao)






Thơ ca: tiêu biểu là Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hà Nhậm Đại, Nguyễn
Giản Thanh, Phạm Thiện, Hoàng Sĩ Khải, Nguyễn Hàng. Thể loại
thơ vịnh thời Mạc khá phát triển với những chủ đề mới, thay cho
thể loại ca tụng triều đình phổ biến dưới triều Lê Thánh Tông là
mảng thơ phú điền viên, ẩn dật với thiên nhiên.
Truyện kí: tiêu biểu là Dương Văn An (tác phẩm Ô châu cận lục)
và Nguyễn Dữ (tác phẩm Truyền kỳ mạn lục).

Ảnh chụp Tân biên Truyền Kỳ Mạn Lục
(Ảnh: Internet)

Nghệ thuật thời Mạc chủ yếu là trong lĩnh vực kiến trúc và trang trí, thể hiện ở những
cơng trình xây dựng trong cung đình, chùa chiền và tại các làng xã.
d)

Nội trị

Thời kỳ thịnh trị của Mạc Thái Tông cho thấy năng lực trị nước của nhà Mạc không
kém nhà Lê. Đời sống nhân dân no đủ, xã hội ổn định, không gây những xáo trộn như
khi nhà Hồ thay nhà Trần. Những lực lượng chống đối nhà Mạc chính là những thế
lực cũ thân nhà Lê.
Theo sử sách, thời Mạc khơng có một cuộc khởi nghĩa nơng dân nào. Điều đó cho
thấy nhà Mạc được lịng dân. Sách Đại Việt Thơng sử của Lê Quý Đôn phải thừa nhận
Thái Tổ Mạc Đăng Dung "được lịng người hướng về". Sau khi Hiến Tơng qua đời,
các vua Mạc lên thay đều là ấu chúa, biến loạn trong ngoài rất nhiều nhưng nhà Mạc
vẫn đứng vững.


Ngồi năng lực của người phụ chính, hẳn phải có nền tảng là sự ủng hộ của nhân dân
Bắc Bộ lúc đó. Việc họ Mạc tiếp tục cát cứ tại Cao Bằng, ngồi sự can thiệp của nhà
Minh, nếu khơng được lịng người thì khơng thể tồn tại tới 80 năm.
Phát hiện nhân tài, do đó dù chiến tranh liên miên nhưng các kỳ thi vẫn tổ chức khá
đều đặn. Ngay cả khi cát cứ trên Cao Bằng, việc thi cử vẫn cịn duy trì.
Một đặc điểm nữa là cả 5 đời vua nhà Mạc khơng có nạn quyền thần trong thời gian
cai trị, dù nhà Mạc khởi nghiệp từ một quyền thần trong triều Lê. Đó là điều mà các
triều đại Ngô, Đinh, Lý, Trần, Hậu Lê và Nguyễn trong suốt chiều dài lịch sử Việt
Nam đều gặp phải. Do đó thời Mạc khơng có việc phế lập, khuynh lốt trong cung
đình. Duy nhất vụ "bất đồng chính kiến" trong việc lập người thừa kế (Mạc Phúc
Nguyên và Chính Trung) năm 1546 – 1551 đã bị đánh dẹp.

Di tích nhà Mạc tại huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng ngày nay

(Ảnh: mactrieu.vn)
3.

Quân đội và ngoại giao
a)
Quân đội

Do đặc điểm tình hình đất nước ln trong tình trạng chiến tranh, nhà Mạc rất chú
trọng xây dựng lực lượng quân đội đủ mạnh để bảo vệ chính quyền của mình.
Mùa đơng tháng 10 năm 1528, Mạc Đăng Dung cho rằng sau khi chế độ hịa bình lặp
lại thì qn đội đã dần trở nên trễ nải. Ơng có ý muốn thay đổi lại, bèn sai bề tôi là
Nguyễn Quốc Hiến bàn định binh chế, điền chế, lộc chế và đặt ra bốn vệ Hưng Quốc,
Chiêu Vũ, Cẩm Y, Kinh Ngô.


Binh trấn xứ xứ Hải Dương thuộc về vệ Hưng Quốc, binh trấn xứ Sơn Nam thuộc về
vệ Chiêu Vũ, binh trấn xứ Sơn Tây thuộc về vệ Cẩm Y, cịn binh trấn xứ Kinh Bắc
thuộc về vệ Kinh Ngơ. Chia bổ các ty, mỗi ty đặt một viên chỉ huy sứ, một viên chỉ
huy đồng tri, một viên chỉ huy thiêm sự, mười viên trung hiệu, hơn một nghìn người
trung sĩ, chia làm 22 phiên túc trực.
Tư liệu về tổ chức quân đội của nhà Mạc trong các chế độ trưng tập binh lính ở địa
phương khơng cịn nhiều. Tồn bộ qn đội nhà Mạc đơng đảo nhất có 12 vạn quân,
bản thân các vua Mạc cũng phải nhiều lần tự mình thân chinh ra trận, làm tướng cầm
quân giao tranh với các thế lực khác (đa phần là quân của nhà Lê Trung hưng). Đây
được xem là một nét đặc thù nổi bật về tổ chức quân sự của nhà Mạc.
Để cổ vũ và động viên cho lòng trung thành và khuyến khích tinh thần chiến đấu của
các quân sĩ tăng cường lực lượng, nhà Mạc đã có những chế độ ưu đãi cho quân đội
qua việc lập nên chế độ “lộc điền” (binh điền). Không giống với lộc điền thời Lê Sơ
chỉ dành cho các quan lại, lộc điền thời Mạc lại ưu tiên cho các binh sĩ, chủ yếu lấy từ
nguồn ruộng công ở các làng xã và ruộng chùa. Chế độ này tuy ban hành từ năm 1528

thời Mạc Thái Tổ nhưng đến năm 1543 thời Mạc Hiến Tơng mới thực hiện được. Do
đó, chính sách “ngụ binh ư nông” từ thời nhà Lý đã khơng cịn được sử dụng nữa, các
triều đại về sau cũng khơng cịn áp dụng chính sách này.
Tuy được hưởng chính sách đãi ngộ nhưng phần binh lính được hưởng vẫn đóng
khung trong khn khổ "khẩu phần" ruộng cơng từng làng. Chính sách này đã giúp
nhà Mạc tạo nên một đội ngũ quân sĩ khá đông đảo và trung thành để bảo vệ quyền lợi
triều đình.
b)

Ngoại giao
• Ngoại giao với nhà Lê Trung hưng:

Về ngoại giao với nhà Lê Trung hưng, đa phần các sử sách đều nhắc đến với
cuộc nội chiến Lê – Mạc (1533 – 1677) (còn được gọi là thời kỳ Phù Lê diệt Mạc).
Thời kỳ này được chia làm hai thời kỳ nhỏ:
-

-

1533 – 1592: thời kỳ Nam – Bắc triều diễn ra khi nhà Mạc làm chủ vùng
Bắc bộ, đóng đơ tại Thăng Long và nhà Lê làm chủ khu vực từ Thanh Hóa
trở vào.
1593 – 1677: nhà Mạc thất bại, tàn dư của họ Mạc phải rút chạy lên vùng
cát cứ ở Cao Bằng.


Đại Việt Nam – Bắc triều khoảng năm 1590
(Ảnh: Internet)
Trong 60 năm chiến tranh phân chia Nam – Bắc ở giai đoạn đầu, hai bên Lê – Mạc đã
diến ra tới 38 trận chiến lớn nhỏ. Cả hai bên đều huy động gần hết các lực lượng lao

động chính trong xã hội vào cuộc chiến cùng những nhân tài, vật lực trong tay. Sau
mỗi trận đánh, lực lượng mới lại được huy động để bù đắp cho lực lượng tổn thất trên
chiến trường. Cuộc chiến đã tác động tiêu cực đến đời sống nhân dân lao động. Sản
xuất bị đình trệ, ảnh hưởng đến đời sống kinh tế toàn quốc. Không những nông dân,
những người thợ thủ công cũng chịu mức thuế khóa nặng nề để cung ứng cho cuộc
chiến.
Tháng 11 năm 1592, Trịnh Tùng tiến đánh Thăng Long. Mậu Hợp thua chạy về Kim
Thành (Hải Dương). Thấy thế nguy cấp, Mậu Hợp lập con là Tồn lên ngơi, tự mình
làm tướng thống suất quân đội. Sau các cuộc chiến đẫm máu tại khu vực các phủ Nam
Sách, Hạ Hồng, Kinh Mơn trong tháng 11 và 12 thì qn đội nhà Mạc chịu tổn thất
cực kỳ nặng nề. Mạc Mậu Hợp phải bỏ trốn đến huyện Phượng Nhãn, bị bắt sống sau
đó ít ngày và bị hành hình.
Lúc này, nhà Mạc đã bị suy yếu nên phải dùng chính sách tăng cường ngoại giao,
cống nạp cho nhà Minh để tranh thủ sự ủng hộ, Nhờ đó, khi họ Mạc rút lên Cao Bằng
vẫn còn được nhà Minh bảo trợ, buộc họ Trịnh phải để vùng này cho họ Mạc cát cứ
nhiều năm, phải mãi tới 1677 mới dứt hẳn.


Sau khi thất thế, nhà Mạc tiếp tục dựa vào ảnh hưởng
của nhà Minh để tồn tại ở Cao Bằng, nhưng tuyệt nhiên không
mượn quân nhà Minh. Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư, đại thần
Mạc Ngọc Liễn (vốn là người khác họ được cải họ vua) trước khi
mất tại Trung Quốc đã dặn lại vua tôi họ Mạc rằng: "Nay khí
vận nhà Mạc đã hết, họ Lê lại phục hưng... Dân ta là dân vô tội
mà để phải mắc nạn binh đao, sao lại nỡ thế!... Nếu thấy quân
họ đến thì ta nên tránh, chớ có đánh nhau, nên cẩn thận mà
giữ là hơn. Lại chớ nên mời người Minh vào trong nước ta mà
để dân ta phải lầm than đau khổ, đó cũng là tội lớn khơng gì
nặng bằng".
Các đời sau họ Mạc đã làm đúng như Mạc Ngọc Liễn dặn

lại. Thua trận, phải rời khỏi ngôi cai trị nhưng không cố giành
giật lại bằng mọi giá, điều đó nhà Mạc hơn nhà Hậu Lê, nhà
Nguyễn sau này.


Ngoại giao với nhà Minh:

Năm 1540, Mạc Đăng Dung đầu hàng nhà Minh ở biên giới. Ở Thanh Hoá, nhà Lê
đánh ra, tại Tuyên Quang, chúa Bầu họ Vũ chưa dẹp được. Phía bắc, nhà Minh uy
hiếp. Kẻ thù nguy hiểm nhất chính là người phương Bắc. Mạc Đăng Dung khơng
muốn lặp lại thảm kịch của nhà Hồ sau khi thay ngôi nhà Trần nên buộc phải hành
động như vậy.
Sau khi lên ngôi, Mạc Đăng Dung sai người báo với nhà Minh rằng họ Lê đã khơng
cịn con cháu thừa tự, vì thế xin thuộc sứ đại thần là họ Mạc tạm trông coi việc nước,
cai trị dân chúng. Họ Mạc dùng lời lẽ văn hoa, lại đem nhiều vàng bạc đút lót cho sứ
giả và các quan trấn thủ vùng biên. Sứ giả về, mật tâu với vua Minh là con cháu Nhà
Lê đã hết, đã ủy thác cho họ Mạc, người trong nước đều theo phục cả. Vua Minh
mắng sứ giả, Mạc Đăng Dung sợ bị hỏi tội, bèn dâng đất hai châu Quy, Thuận và hai
hình người bằng vàng, bạc cùng châu báu tới xin đầu hàng. Từ đó con đường nam bắc
lại được lưu thơng trở lại.
Năm 1542 bắt đầu đánh dấu mốc bình thường hố trong quan hệ Mạc - Minh.
Thời Mạc Mậu Hợp, nhà Mạc đã suy yếu nên phải dùng chính sách tăng cường ngoại
giao, cống nạp cho nhà Minh để tranh thủ sự ủng hộ, Nhờ đó, khi họ Mạc rút lên Cao
Bằng vẫn còn được nhà Minh bảo trợ, buộc họ Trịnh phải để vùng này cho họ Mạc cát
cứ nhiều năm, phải mãi tới 1677 mới dứt hẳn.
Sau khi thất thế, nhà Mạc tiếp tục dựa vào ảnh hưởng của nhà Minh để tồn tại ở Cao
Bằng, nhưng tuyệt nhiên không mượn quân nhà Minh. Theo Đại Việt Sử ký Toàn thư,
đại thần Mạc Ngọc Liễn (vốn là người khác họ được cải họ vua) trước khi mất tại
Trung Quốc đã dặn lại vua tơi họ Mạc rằng: "Nay khí vận nhà Mạc đã hết, họ Lê lại
phục hưng... Dân ta là dân vô tội mà để phải mắc nạn binh đao, sao lại nỡ thế!... Nếu



thấy qn họ đến thì ta nên tránh, chớ có đánh nhau, nên cẩn thận mà giữ là hơn. Lại
chớ nên mời người Minh vào trong nước ta mà để dân ta phải lầm than đau khổ, đó
cũng là tội lớn khơng gì nặng bằng".
Các đời sau họ Mạc đã làm đúng như Mạc Ngọc Liễn dặn lại. Thua trận, phải rời khỏi
ngôi cai trị nhưng không cố giành giật lại bằng mọi giá, điều đó nhà Mạc hơn nhà Hậu
Lê, nhà Nguyễn sau này.
4.

Nhà Mạc cắt đất cho nhà Minh

Năm 1529 có hai bề tơi cũ của triều Lê là hai anh em Trịnh Ngung, Trịnh Ngang sang
tố với nhà Minh họ Mạc cướp nước, nhưng vì đã được đút lót nên khơng làm được gì,
hai anh em đều chết ở trên đất Minh. Nhưng sau khi Sau khi lập lập Lê Trang Tông
lên ngôi, Nguyễn Kim sai Trịnh Duy Liêu vượt biển sang Trung Quốc xin cầu viện
nhà Minh đánh nhà Mạc. Chúa Bầu Vũ Văn Uyên ở Tuyên Quang cũng sai người sang
tố cáo việc nhà Mạc cướp ngôi. Năm 1537, Minh Thế Tông giao quân cho Mao Bá Ơn
chuẩn bị tiến xuống phía nam. Nhà Mạc ở vào tình thế "lưỡng đầu thọ địch". Năm
1538, nhà Minh dứt khốt đi đến chủ trương phơ trương thanh thế bên ngồi, kích
động cuộc nội chiến giữa nhà Hậu Lê và nhà Mạc và ép nhà Mạc hàng phục. Tháng 2
năm 1539, nhà Mạc dâng biểu sang nhà Minh xin hàng.
Lấy danh nghĩa trừng phạt cha con Mạc Đăng Dung, nhà Minh rao rằng ai bắt giết
được cha con vua Mạc sẽ được phong thường. Cùng với đó, Mao Bá Ơn cũng gửi hịch
cho vua Mạc, nói rằng nếu nhận tội và dâng đất thì sẽ được tha chết. Để tránh đổ máu,
Mạc Đăng Dung chấp nhận đầu hàng. Ngày 3 tháng 11 năm 1540, Mạc Đăng Dung
cùng các bầy tôi đúng hẹn đến dâng biểu xin hàng.

(Ảnh: Internet)



Đại Việt Sử Ký Toàn Thư đã hai lần ghi chép về việc dâng đất của Mạc Đăng Dung
cho nhà Minh.
Lần thứ nhất: “Năm Mậu Tí (1528) (Mạc tiếm hiệu Minh Đức thứ 2 – Minh Gia Tĩnh
thứ 7) (...) Đăng Dung sai người sang Yên Kinh báo với nhà Minh rằng con cháu nhà
họ Lê khơng cịn ai thừa tự nữa, thuộc sứ đại thần là họ Mạc tạm trông coi việc nước,
cai trị dân chúng. Nhà Minh không tin , mật sai người sang dò thăm tin tức trong
nước, xét hỏi duyên do, ngầm tìm con cháu họ Lê để lập lên. Họ Mạc thường dùng lời
lẽ văn hoa, lại đem nhiều vàng bạc đút lót. Đến khi sứ giả về, mật tâu là con cháu họ
Lê đã hết, không ai nối ngôi được, ủy thác cho họ Mạc, người trong nước đều tôn
phục theo về họ Mạc cả, xin tha tội cho họ Mạc. Vua Minh mắng không nghe. Đăng
Dung sợ nhà Minh đem quân sang hỏi tội, bèn lập mưu cắt đất dâng nhân dân hai châu
Quy Thuận và hai hình người bằng vàng và bạc, cùng là châu báu của lạ vật lạ. Vua
Minh thu nhận. Từ đấy Nam, Bắc lại sai thông sứ đi lại.” (tr.825)
Lần thứ hai: “Canh Tý năm thứ 8 (1540) (Mạc Đại Chính năm thứ 11 - Minh Gia Tĩnh
năm thứ 19) (...) Mùa đông tháng 11, Mạc Đăng Dung cùng với cháu là Văn Minh và
bề tôi là bọn Nguyễn Như Quế, Đỗ Thế Khanh, Đặng Văn Trị, là Thuyên, Nguyễn
Tổng, Tô Văn Tốc, Nguyễn Kinh Tế, Dương Duy Nhất Bùi Trí Vĩnh qua Trấn Nam
quan, mỗi người đều cầm thước, buộc dây vào cổ, đi chân không đến bò rạp ở mạc
phủ nước Minh, dập đầu quỷ dâng tờ biểu xin hàng, biên hết đất đai quân dân quan
chức trong nước để xin xử phân, nộp các động Tê Phù, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát,
An Lương, La Phù của châu Vĩnh An trấn Yên Quảng xin cho nội thuộc, lệ vào Khâm
Châu, lại xin ban chính sóc, cho ấn chương và cẩn thận che chở giữ gìn để đợi đổi
định. Lại sai Văn Minh và bọn Nguyễn Văn Thái, Hứa Tam Tỉnh mang biểu đầu hàng
đến Yên Kinh.” (tr.834)
Từ đó tình hình biên giới phía bắc Đại Việt khá n ổn, nhà Mạc khơng cịn gặp phải
sự uy hiếp của nhà Minh nữa. Sự kiện đầu hàng cắt đất của Mạc Đăng Dung cũng là
sự kiện duy nhất xảy ra trong vấn đề biên giới phía bắc giữa nhà Mạc và nhà Minh
trong suốt 65 năm tồn tại của nhà Mạc.
II.


MẠC ĐĂNG DUNG CÓ DÂNG ĐẤT CHO NHÀ MINH HAY
KHÔNG?
2.1 Nhà Mạc và vấn đề nguỵ triều, cướp ngôi

Xưa nay sử chép rằng Thái Tổ nhà Mạc là Mạc Đăng Dung đã cắt đất Đại Việt dâng
cho nhà Minh để bảo vệ ngôi báu, lưu lại những tiếng xấu muôn đời. Trong một thời
gian dài, do ảnh hưởng của quan niệm “triều đại chính thống”, nhiều nhà nghiên cứu
sử học, văn học đã nhìn nhận vương triều Mạc và giai đoạn nhà Mạc trị vì một cách
cực đoan, phiến diện, đưa ra những ý kiến phủ nhận cả những đóng góp tích cực của
vương triều này đối với lịch sử dân tộc, thậm chí cịn quy cho dòng họ này nhiều “tội
danh” rất nặng.
Từ thập kỷ 80, nhất là từ năm 1985 đến nay, nhiều nhà sử học đã nghiên cứu và nhìn
nhận lại vấn đề nhà Mạc. Trong nhiều bài viết, hội thảo, các nhà khoa học để đánh giá


một cách công bằng, khách quan về vương triều Mạc và đã đưa ra một số ý kiến mới,
“minh oan” cho nhà Mạc cùng giai đoạn lịch sử này.

Nhà Hậu Lê suy thối, triều chính rối ren đánh giết lẫn nhau, các vua Uy Mục, Tương
Dực và Chiêu Tông đều không đủ năng lực cầm quyền, các quyền thần họ Trịnh, họ
Nguyễn đều chứa chấp mưu đồ riêng, nông dân nổi dậy khởi nghĩa. Mạc Đăng Dung
đã xuất hiện trong bối cảnh đó và chỉ trong chưa đầy 10 năm ông đã dẹp yên tình hình
nước Đại Việt. Việc nhà Mạc thay thế một nhà Hậu Lê khơng cịn đủ năng lực và bị
thiên hạ chán ghét là tất yếu của lịch sử. Nếu dịng họ Mạc khơng nổi dậy thì các dịng
họ thế tộc khác cũng làm điều tương tự trong bối cảnh lúc đó. Giáo sư Trần Quốc
Vượng cho rằng sự thay thế nhà Lê của Mạc Đăng Dung là "hợp với đời và đạo".
Thời kỳ thịnh trị của Mạc Thái Tông cho thấy năng lực trị nước của nhà Mạc không
kém nhà Lê. Đời sống nhân dân no đủ, xã hội ổn định, không gây những xáo trộn như
khi nhà Hồ thay nhà Trần. Những lực lượng chống đối nhà Mạc chính là những thế

lực cũ thân nhà Lê. Theo sử sách, thời Mạc khơng có một cuộc khởi nghĩa nơng dân
nào. Điều đó cho thấy nhà Mạc được lịng dân. Sách Đại Việt Thơng Sử của Lê Quý
Đôn phải thừa nhận Thái Tổ Mạc Đăng Dung "được lịng người hướng về". Sau khi
Hiến Tơng qua đời, các vua Mạc lên thay đều là ấu chúa, biến loạn trong ngoài rất
nhiều nhưng nhà Mạc vẫn đứng vững. Ngồi năng lực của người phụ chính, hẳn phải
có nền tảng là sự ủng hộ của nhân dân Bắc Bộ lúc đó. Việc họ Mạc tiếp tục cát cứ tại
Cao Bằng, ngồi sự can thiệp của nhà Minh, nếu khơng được lịng người thì khơng thể
tồn tại tới hơn 60 năm. Đặc biệt, nhà Mạc rất coi trọng việc phát hiện nhân tài, do đó
dù chiến tranh liên miên nhưng các kỳ thi vẫn tổ chức khá đều đặn. Ngay cả khi cát cứ
trên Cao Bằng, việc thi cử vẫn cịn duy trì.
Một đặc điểm nữa là cả năm đời vua nhà Mạc khơng có nạn quyền thần trong thời
gian cai trị, dù nhà Mạc khởi nghiệp từ một quyền thần trong triều Lê. Đó là điều mà
các triều đại Ngô, Đinh, Lý, Trần, Hậu Lê và Nguyễn trong suốt chiều dài lịch sử Việt
Nam đều gặp phải. Do đó thời Mạc khơng có việc phế lập, khuynh lốt trong cung
đình. Duy nhất vụ "bất đồng chính kiến" trong việc lập người thừa kế (Mạc Phúc
Nguyên và Chính Trung) năm 1546 - 1551 đã bị đánh dẹp.
Và khi nhà Mạc bị mất ngôi, nhà Lê hồi phục nhờ sức quyền thần nên các sử gia của
triều đại thắng trận ra sức hạ thấp nhà Mạc trong sử sách. Do sự chi phối quan điểm
của nhà Lê và nhà Nguyễn, Nhà Mạc bị gọi là "ngụy triều". Tuy nhiên, nếu căn cứ vào
những gì nhà Mạc đã làm, đây thực sự là một vương triều có vai trị tích cực nhất định
trong lịch sử Việt Nam. Nhà Lê dù thắng trận nhưng về thực chất thì khơng cịn, cơ
nghiệp nhà Lê trung hưng thực ra là cơ nghiệp họ Trịnh. Giáo sư sử học Văn Tạo
trong Nhà Mạc và vấn đề ngụy triều đã vạch rõ: Họ Trịnh và họ Nguyễn lấy tiếng là
giúp nhà Lê nhưng thực ra là lo làm lợi cho mình. Họ Trịnh phù Lê nhưng lại phế truất
và giết các vua Lê. Họ Nguyễn phù Lê nhưng chỉ lo phát triển cơ đồ riêng và cái cớ
chống họ Trịnh. Giáo sư Tạo nhấn mạnh: "Mạc là ngụy công khai, Trịnh- Nguyễn là


ngụy giấu mặt". Cách nói "nguỵ" cũng chỉ là theo quan điểm của các sử gia thời
phong kiến. Các nhà sử học ngày nay đã thay đổi quan điểm này và nhà Mạc đã được

nhìn nhận như một triều đại bình đẳng với các triều đại "chính thống" khác.
Việc nhà Mạc thay thế nhà Lê là hoàn toàn hợp với quy luật lịch sử. Giáo sư Phan
Huy Lê trong bài tổng kết Hội thảo khoa học về vương triều Mạc năm 1994 khẳng
định: “Nên xoá bỏ thành kiến và định kiến về nhà Mạc. Nên đối xử với nhà Mạc một
cách công bằng như các triều đại khác. Hãy trả lại cho nhà Mạc những đóng góp
khách quan”. Giáo sư Lê cũng khẳng định: “Nhà Mạc là một vương triều ra đời và tồn
tại sau nhà Lê. Việc nhà Lê sụp đổ, thay thế nhà Mạc là một hiện tượng có ý nghĩa tiến
bộ, được nhiều người ủng hộ. Khơng nên coi sự việc này là sự cướp ngôi”.
“Việc lên ngơi của Mạc Đăng Dung từng được coi là thốn đoạt, nhưng sự “thốn
đoạt” trong lúc triều đình nhà Lê hồn tồn suy sụp; vì vậy cũng khơng nên coi hành
động này của Mạc Đăng Dung là cướp ngôi”
(Đinh Khắc Thuân, Lịch sử triều Mạc qua thư tịch và văn bia, Nxb Khoa học Xã hội,
Hà Nội, tr 87-88)
Tiến sĩ Trần Thị Vinh cũng đã nhận xét rằng “Sự kiện Mạc Đăng Dung phế bỏ triều Lê
– một triều đại mà Mạc Đăng Dung từng gửi gắm ba phần tư quãng đời để lập ra triều
đại mới của dòng họ Mạc không phải là một điều sỉ nhục như nhiều sử thần thời
phong kiến đã gán cho Mạc Đăng Dung. Đã đến lúc Mạc Đăng Dung và triều đại nhà
Mạc phải được trả về vừa tầm với vị trí của mình. Tơi đồng tình với một số ý kiến của
giới sử học gần đây trong cách đánh giá Mạc Đăng Dung và nhà Mạc. Tức chúng tơi
nhìn nhận Mạc Đăng Dung không phải như một kẻ “nghịch thần” và cũng nhìn nhận
một cách tương đối có cơ sở về những đóng góp của vương triều Mạc trong tiến trình
lịch sử nói chung. Nếu coi Mạc Đăng Dung là kẻ “thốn đoạt”, là “nghịch thần”… và
coi nhà Mạc là “nguỵ triều” tức là đã phủ nhận những đóng góp của nhà Mạc trên các
lĩnh vực kinh tế, văn hoá, giáo dục và nghệ thuật”…
2.2 Về mối quan hệ giữa nhà Mạc với nhà Minh (Trung Quốc)
a) Vấn đề đầu hàng:
Rút kinh nghiệm từ thất bại của nhà Hồ do việc cướp ngôi nhà Trần, ngay sau khi
giành ngôi nhà Lê, Mạc Thái Tổ đã chủ động tìm giải pháp thương lượng với nhà
Minh. Tháng 2 năm 1528, ông sai sứ sang Yên Kinh. Đại Việt sử ký toàn thư và Đại
Việt thông sử của Lê Quý Đôn đều chép sự kiện này. Sứ bộ có nhiệm vụ rất quan

trọng và khó khăn phải thuyết phục nhà Minh rằng "Con cháu họ Lê khơng cịn ai
thừa tự nữa, thuộc sứ đại thần là họ Mạc tạm trông coi việc nước, cai trị dân chúng".
Nhà Minh tạm thời chưa có phản ứng nào đáng kể vì nội bộ cũng chưa hồn tồn nhất
trí về cách phản ứng với tình hình Đại Việt. Sự kiện bang giao giữa nhà Mạc và nhà
Minh này có một tầm quan trọng đáng kể, bởi lẽ đây là lần đầu tiên họ cử sứ thần sang
Trung Hoa đặt cơ sở ban đầu cho quan hệ giữa hai vương triều sau này.


Thành nhà Mạc (Lạng Sơn)
Ảnh: thethaovanhoa.vn
Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Đăng Dung sợ nhà Minh đem quân sang hỏi tội, bèn
lập mưu cắt đất, dâng nhân dân hai châu Quy, Thuận và hai hình người bằng vàng và
bạc cùng châu báu, của lạ, vật lạ. Vua Minh thu nhận. Từ đây Nam Bắc lại sai thông
sứ đi lại”. Đại Việt thông sử cũng chép sự kiện trên, nhưng không chép việc dâng cho
nhà Minh hai châu Quy, Thuận.

Việc ghi chép này hoàn toàn sai sự thật. Quy, Thuận chính là Châu Quy Hố và Châu
Thuận An. Hai châu này thuộc về Trung Hoa vào thời nhà Tống từ những năm 60 của
thế kỷ XI. Vấn đề này có thể lược thuật như sau: Quy Hoá và Thuận An là hai châu
nằm trong vùng cư trú của các bộ lạc mà bên Trung Hoa gọi là Nàng, còn bên Đại Việt
ta gọi là Thổ (ngày nay gọi là Tày) sát ngay ở biên giới của hai nước. Trong một thời
kỳ dài, vùng này đã được nhà Tống lẫn nhà Lý coi là đất phên dậu chứ khơng chính
thức sát nhập hẳn vào lãnh thổ của bên nào. Dân các bộ lạc này thường ốn ghét các
quan lại miền xi của cả nhà Tống cũng như nhà Lý vì thường tìm đến các nơi cư trú
của họ để sách nhiễu phú cống. Còn các thủ lĩnh của cư dân vùng này khi thì thần
phục Tống, lúc lại quy thuận nhà Lý, tuỳ theo áp lực và thế lực từng lúc của mỗi bên.
Như vậy là tuỳ theo hoàn cảnh cụ thể trong từng thời kỳ mà thủ lĩnh của các bộ lạc
vùng này có thể là phiên thần nhà Tống hoặc nhà Lý mà khơng có sự dứt khốt nhất
định. Cụ thể hơn, Nùng Tôn Đán là tù trưởng của động Lôi Hoả vẫn được nhà Lý xem
là phiên thần nối dõi của Nùng Trí Cao sau khi Nùng Trí Cao phát binh đánh Tống bị

thất bại và chết ở Đại Lý. Năm 1057, Nùng Tôn Đán lại muốn phát binh đánh Tống
nhưng quan nhà Tống là Tiêu Cố biết trước được chuyện này nên đã dụ Tôn Đán quy
hàng. Sau khi Đán quy phục, được vua Tống cho chức Trung Vũ tướng quân và cho


trơng coi châu Ơn Nhuận của Tống. Năm 1062, Đán và con trai lại đem các động của
mình là Lơi Hoả và Kế Thành-vốn bấy giờ đang là đất phên dậu của Đại Việt đem
dâng nhà Tống liền được Tống cho nhập vào Châu Thuận An và giao cho Đán trông
coi luôn cả. Nhưng Đán nguyên là phiên thần nhà Lý, bấy giờ lại cai quản vùng đất
vốn một phần là đất phên dậu cũ của Đại Việt nên y rất khơng n tâm. Do đó, năm
1064, theo lời dụ dỗ của viên quan Tống là Lục Sẵn, Tôn Đán chính thức xin cho châu
Thuận An thuộc hẳn vào nội địa Trung Hoa và đã được lĩnh chức Hữu Thiên ngự vệ
tướng qn. Sau đó khơng bao lâu, theo gương Tôn Đán và cũng theo kế dụ dỗ của
Lục Sẵn, Nùng Trí Hội cũng đã quy phục nhà Tống với việc đem nộp vùng đất Vật
Dương cho Tống vốn là đất phên dậu của nhà Lý mà Hội được cất cử làm phiên thần
trơng giữ. Sau khi có được vùng đất này, nhà Tống liền cải nhập vào Châu Quy Hố là
một châu đã có sẵn trị sở tại địa bàn của huyện Nghị Dương tỉnh Quảng Tây (Trung
Quốc) ngày nay. Sau hành động nêu trên của Nùng Tôn Đán và Nùng Trí Hội, suốt
gần 20 năm từ 1082 đến 1102 triều Lý đã năm lần cử sứ giả sang Tống để đòi lại
những phần đất phên dậu cũ mà Đán và Hội tự động nộp cho Tống nhưng đã không
kết quả. Như vậy, việc xảy ra đã hơn 450 trước khi Mạc Đăng Dung lên ngôi (1527)
nên rõ ràng là ơng hồn tồn vơ can đối với sự thể các vùng đất Lôi Hoả, Kế Thành và
Vật Dương đã mất về tay nhà Tống.
Ngoài việc đi sứ, Mạc Thái Tổ cịn sai người đút lót, tranh thủ sự đồng tình của các
quan vùng biên giới của nhà Minh. Năm 1529, hai anh em Trịnh Ngung, Trịnh Ngang
sang tố cáo nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê và cầu viện nhà Minh nhưng bị sự ngăn cản
của các quan trấn thủ vùng biên của nhà Minh, do đó ý định của hai anh em họ Trịnh
không thực hiện được, hai anh em đều chết ở đất Trung Hoa.
Đến năm 1537, Lê Trung Tôn sai Trịnh Duy Liêu vượt biển sang Trung Quốc xin cầu
viện nhà Minh đánh nhà Mạc, trình bày về việc cướp ngôi, giết vua của Mạc Đăng

Dung. Bấy giờ nhà Minh ý kiến bất nhất nên việc cử binh tạm đình. Đến tháng 3 năm
Gia Tĩnh thứ 17 (1538), đình thần mới bàn lại và cử Hàm Ninh hầu Cửu Loan làm
Tổng đốc quan vụ, Mao Bá Ôn làm Tham tán chỉ huy đạo quân “chinh phạt” họ Mạc.
Nhà Mạc rơi vào tình thế "lưỡng đầu thọ địch". Đứng trước nguy cơ bị đánh từ hai
phía: nhà Minh Chuẩn bị tiến đánh từ phía bắc xuống, và quân đội nhà Lê từ Thanh
Hóa sẵn sàng đánh ra Thăng Long, Mạc Đăng Dung phải bằng mọi cách thoát ra khỏi
tình trạng bế tắc đó, rơi vào thế bắt buộc phải “hịa” được với nhà Minh để có thể rảnh
tay đối phó với tập đồn ủng hộ nhà Lê ở phía Nam.
Đại Việt sử ký tồn thư cho biết: “Mậu Tuất năm thứ 6 (1538), mùa xuân, họ Mạc sai
Nguyễn Văn Thái sang nước Minh dâng biểu xin hàng và xin xét xử”. Tuy nhiên
chuyến đi sứ của Nguyễn Văn Thái khơng đạt được kết quả vì sau đó nhà Minh vẫn
tiếp tục điều động quân đội xuống phía Nam. Đầu năm Gia Tĩnh thứ 19 (1540), các
tướng Cừu Loan, Mao Bá Ôn đã kéo quân đến Quảng Tây, áp sát biên giới Đại Việt .
Trong bối cảnh tình hình trong nước đang phân liệt gay gắt, quân đội nhà Lê tấn cơng
khắp nơi ở phía Nam và quan hệ giữa nước An Nam nhỏ với nước Trung Hoa lớn


đang căng thẳng, đặc biệt khi hơn 20 vạn quân Minh do tướng Mao Bá Ôn chỉ huy đã
áp sát biên giới, và hơn nữa, trong khi “tang gia bối rối” (con trai là Mạc Đăng Doanh
vừa chết) thì việc Mạc Đăng Dung một mặt ngầm củng cố lực lượng phịng thủ dọc
biên giới và ở phía trong, mặt khác dẫn triều thần lên biên giới đầu hàng nhà Minh
vào năm 1540 là hành động bất đắc dĩ nhằm tránh khỏi cuộc binh đao lớn, phải chấp
nhận một số điều kiện do nhà Minh đặt ra nhưng độc lập cho dân tộc và hịa bình cho
đất nước vẫn được giữ vững.
Theo các nhà sử học, Mạc Đăng Dung đã dùng “khổ nhục kế”, tức tự trói mình lại,
mong đạt một mục đích cuối cùng là quân đội Cừu Loan, Mao Bá Ôn rút binh.
Nguyễn Minh Tường trong Quan hệ bang giao giữa nhà Mạc và nhà Minh thế kỉ XV
nhấn mạnh: “Sự việc Mạc Đăng Dung tự trói mình trước mạc phủ nhà Minh là có thật.
Có lẽ cũng chẳng cần phải làm giảm nhẹ việc tự trói ấy bằng những lời biện hộ nào đó
hồn tồn khơng cần thiết”. Sau việc tự trói mình ở Trấn Nam Quan, khơng bao lâu thì

Mạc Đăng Dung từ trần. Với hành động của mình, Mạc Đăng Dung đã gánh chịu nỗi
nhục nhã để có thể tránh khỏi tai họa của một cuộc chiến tranh khốc liệt.
Năm 1994, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam phối hợp với Viện Sử học, UBND Thành
Phố Hải Phòng tổ chức Hội thảo khoa học về vương triều Mạc. Trong bài tổng kết Hội
thảo, giáo sư Phan Huy Lê khẳng định: “Đã đến lúc chúng ta phải thay đổi về cách
đánh giá các chính sách đối nội và đối ngoại của nhà Mạc”. Cố giáo sư Trần Quốc
Vượng cũng nhấn mạnh: “Hành động “đầu hàng” của nhà Mạc do Minh sử chép là
một sự phóng đại để khoe khoang, hành động ấy vua Lê sau này cũng lặp lại gần
ngun xi thì lại khơng bị sử gia nhà Lê nêu lên để phê phán. Đó chẳng qua là một
hành động “tượng trưng”, một sự “nhún mình” của một nước nhỏ đối với nước lớn
trong điều kiện tương quan chính trị ngày xưa. Tất cả ứng xử của Mạc với Minh cũng
chỉ nằm trong một chiến lược ngoại giao hằng xuyên của Việt nhỏ Hoa lớn “thần phục
giả vờ, độc lập thực sự” (Vassalité fidive, Indépendance réelle). Mà thực sự ở thời
Mạc khơng có bóng một tên xâm lược nào trên đất nước ta, quan bảo hộ, dù hình thức
như chức “Đạt lỗ hoa xích” ở Thăng Long triều Trần cũng khơng. Thế tại sao người
này thì khen là khôn khéo, người khác lại chê là hèn hạ?”.
Đinh Khắc Thuân là người đã đánh giá lại vương triều Mạc một cách có hệ thống
trong cơng trình vốn là Luận án Tiến sĩ Sử học của ơng “Góp phần nghiên cứu lịch sử
vương triều Mạc (1527-1592) ở Việt Nam” (Contribution à l’histoire de la dynastie
des Mac (1527 – 1592) du Viet Nam) được bảo vệ thành công luận án với kết quả tối
ưu tại Trường Cao học Khoa học Xã hội Pháp vào tháng 3 – 2000. Ông đã khảo cứu
cơng phu, sử dụng nhiều tư liệu có giá trị và đi đến kết luận về nhà Mạc như sau:
“Tóm lại có 3 sự kiện nổi bật liên quan đến việc đánh giá nhà Mạc. Một là, lên ngôi
của Mạc Đăng Dung thường được coi là thoán đoạt, nhưng là sự “thốn đoạt” trong
lúc triều đình nhà Lê hồn tồn suy sụp. Vì vậy, cũng khơng nên coi hành động này
của Mạc Đăng Dung là cướp ngôi. Hai là, để tránh thảm hoạ chiến tranh xâm lược,
nhà Mạc đã chấp nhận giải pháp đầu hàng có tính nghi thức theo yêu sách của nhà
Minh. Ba là, bốn động biên giới nước ta đã bị nhà Minh lấy lại thành chuyện đã rồi



đối với nhà Mạc. Mạc Đăng Dung thực sự không hề mắc tội phản quốc, trái lại đã góp
phần quan trọng trong việc ổn định tình hình chính trị – xã hội trong nước cũng như
tái lập quan hệ bang giao với nhà Minh”.
Về chính sách đối ngoại của nhà Mạc với nhà Minh, nhiều nhà nghiên cứu như Ngô
Đăng Lợi, Lê Văn Lan, Nguyễn Danh Phiệt, Phan Huy Lê, Dương Trung Quốc, Phan
Văn Các, Hoàng Lê, Phan Đăng Nhật… đã khẳng định: Nhà Mạc thực sự không đầu
hàng, Mạc Đăng Dung không hề mắc tội phản quốc.
b) Vấn đề dâng đất:
Nhà nghiên cứu Huệ Thiên trong bài:“Mạc Đăng Dung có “dâng đất” cho nhà Minh
hay khơng?” in trong Báo nguyệt san Kiến thức ngày nay, phụ san của Tạp chí Văn,
Hội nhà văn thành phố Hồ chí Minh, số 70 ra ngày 15/10/1991 đã khẳng định: “Mạc
Đăng Dung trả đất chứ khơng hề có việc Mạc Đăng Dung dâng đất của Đại Việt cho
nhà Minh”. Ông đã chứng minh bốn động Tư Lẫm, Cổ Sâm, Liêu Cát và La Phù là
vùng đất hiểm trở nhà Tống đã đặt các chức động trưởng để trông coi và sang đời nhà
Minh, niên hiệu Hồng Vũ năm đầu (1368) vua Minh lại đặt chức tuần ti ở Như Tích để
thống lĩnh các động này một cách chặt chẽ hơn.
Đại Việt sử ký toàn thư ghi chép về việc “dâng đất” của Mạc Đăng Dung là như sau:
“Canh Tí (1540) Mạc Đại Chính năm thứ 11 (…) mùa đông, tháng 11, Mạc Đăng
Dung (…) dâng tờ biểu xin hàng, biên hết đất đai, quân dân quan chức trong nước để
xin xử phân, nộp các động Tê Phù, Lim Lạc, Cổ Sâm, Liêu Cát, An Lương, La Phù
của Châu Vĩnh An trấn Yên Quảng xin cho nội thuộc, lệ vào Khâm Châu…”
(Đại Việt sử ký toàn thư, tập IV, trang 131-132).
Đây là tư liệu chính mà các sách lịch sử về sau của ta luôn nhắc đến để kết tội Mạc
Đăng Dung. Trước hết cần nói rõ là số lượng và tên gọi các động ghi trong các sách có
chỗ đại đồng tiểu dị. Chẳng hạn Lê Thành Khơi thì căn cứ vào Đại Việt sử ký toàn thư
mà chép là 6 động, nhưng lại ghi Cổ Sâm thành Cổ Xung (Le Viet Nam Histore etcin
lisation, Leseditions deminuít, Paris, 1955, P.263); Trần Trọng Kim chỉ chép 5 độngkhơng có An Lương (Việt Nam), Trương Hữu Quýnh, Nguyễn Phan Quang và Nguyễn
Cảnh Minh thì ghi 5 động là: Tư Lẫm, Kim Lạc, Cổ Sâm, Liêu Cát và La Phù (sđd-92,
tập 1, Hà Nội, 1971, trang 75). Thực ra, sự việc chỉ liên quan đến 4 động là Tư Lẫm,
Cổ Sâm, Liễu Cát, La Phù và có chăng thì chỉ việc Mạc Đăng Dung trả đất chứ khơng

hề có việc Mạc Đăng Dung dâng đất của Đại Việt cho nhà Minh.
Sự thật bốn động nêu trên đều thuộc trấn Như Tích vốn là đất Trung Hoa ít nhất từ đời
Tống. Trấn này nằm cách Khâm Châu (Quảng Đơng) 160 dặm về phía Tây và cách
Châu Vĩnh An của Đại Việt 20 dặm. Đây là một vùng núi cao, địa thế hiểm trở. Đầu
đời Tống các động này dã đặt các chức động trưởng để trông coi và sang đời Minh,
niên hiệu Hồng Vũ năm đầu (1368), vua Minh lại đặt chức Tuần Ti ở Như Tích để
thống lĩnh các động này một cách chặt chẽ hơn. Như đã trình bày về hai châu Quy,
Thuận, các động trưởng dọc biên giới Việt –Trung thường tuỳ theo tình hình thực tế


mà thay đổi thái độ thần phục đối với Trung Hoa hoặc Đại Việt. Thí dụ năm Tuyên
Đức thứ 2 (1427) đời Minh, trước khi cuộc kháng chiến của Lê Lợi lãnh đạo thành
công non một năm, các động Tư Lẫm, Cổ Sâm, Liễu Cát và La Phù thuộc vào Đại
Việt bấy giờ chưa hoàn toàn độc lập do chưa đánh đuổi hết giặc Minh. Về việc này,
cho đến bây giờ chúng ta vẫn khơng có tư liệu lịch sử nào cho biết nhà Lê đã chính
thức chấp nhận hay khước từ lời thỉnh cầu thần phục của các động vừa nêu. Chỉ có thể
đốn định rằng hành động của các tù trưởng ở các động ấy như đã nêu khơng ngồi
mục đích nhằm tạo ra một tình trạng mập mờ để thuận lợi cho sự tự trị của họ mà thơi.
Chính vì thế mà mãi đến năm 1540, nhân cớ nhà Mạc muốn sớm được chính thức
cơng nhận về mặt ngoại giao nên nhà Minh mới đặt điều kiện địi hỏi Mạc Đăng Dung
phải cam kết chính thức trao trả quyền thống quản 4 động đó cho họ và có được như
vậy thì “thiên triều” mới “cho trơng coi đất An Nam”! Bằng dẫn giải này, một lần nữa
chứng minh rằng Mạc Đăng Dung chưa bao giờ cắt đất Tổ quốc dâng cho ngoại
bang…
Chính Đại Việt sử ký tồn thư cũng đã vơ tình thừa nhận việc làm này của Mạc Đăng
Dung là trả đất qua đoạn ghi chép: “Tháng 10 ngày 20 năm Tân Sửu (năm 1541), bọn
Mao Bá Ơn về n Kinh tâu nói rằng: Mạc Đăng Dung tự trói mình dâng lễ hàng ở
cửa ải, xin tn theo chính sóc, tước bỏ tiếm hiệu, trả lại đất 4 động đã xâm chiếm, xin
nội phụ xưng thần, hằng năm ban cho lịch đại thống, bù đủ số lễ vật cống hiến hàng
năm, cúi mình kính thuận”

(Đại Việt sử ký tồn thư, tập IV, tr 132)
Rõ ràng, chính Đại Việt sử ký toàn thư cũng hoàn toàn xác nhận rằng đây là việc trả
đất. Và cũng chính Đại Việt sử ký toàn thư đã thừa nhận rằng trấn Như Tích (nơi có 4
động hữu quan) đã là đất của Trung Hoa từ thời nhà Tống trong đoạn chép sau đây:
“Trước đây dân của trấn Triều Dương của ta là bọn Văn Dũng làm loạn, giết người
trốn sang Như Tích thuộc Khâm Châu nước Tống, trấn tướng là Hồng Lệnh tức giấu
bọn Văn Dũng. Vua sai trấn tướng Triều Dương là Hồng Thành Nhã đuổi bắt, lệnh
tức khơng chịu trả về. Nay Nghiêu Tẩu (là Quảng Tây vận sứ) đến Như Tích, ta ra
được chuyện chứa dấu ấy, đem hết bọn trai gái, già trẻ đã chứa giấu cộng 113 người,
gọi Thành Nhã sang giao cho nhận về”
(Đại Việt sử ký toàn thư, tập I, tr 176)
Vậy là ngay một số ghi chép trong Đại Việt sử ký toàn thư như đã trích dẫn trên cũng
đủ cho thấy hồn tồn khơng có chuyện Mạc Đăng Dung cắt đất của Đại Việt để dâng
cho nhà Minh. Có chăng chỉ là các sử thần Lê-Trịnh vì mục đích chính trị đã xuyên
tạc sự thật Lịch sử để hạ nhục nhà Mạc. Ngồi vấn đề này ra thì chung quanh việc
bang giao giữa nhà Mạc với nhà Minh cũng cịn có nhiều điều khác nữa cần được soi
xét lại, dù đó là đại sự hay tiểu tiết. Chẳng hạn như những điều ghi chép nói rằng Mạc
Đăng Dung cùng đồn tuỳ tùng đã “qua trấn Nam Quan, mỗi người đều cầm thước,
buộc dây vào cổ, đi chân khơng đến bị rạp ở Mạc phủ nước Minh; quỳ gối cúi đầu
dâng tờ biểu xin hàng(…)” (Đại Việt sử ký toàn thư, tập IV, tr 131). Với ghi chép này,


những chi tiết như “cầm thước’, “buộc dây vào cổ”, “đi chân không”... không khỏi
cho rằng đây chỉ là những chuyện thêu dệt để bôi nhọ người sáng lập ra Vương triều
Mạc. Nhà nghiên cứu Huệ Thiên mong muốn rằng “các vị sử gia và các nhà nghiên
cứu lịch sử hãy vì chữ trung trong chữ sử mà định lại công hoặc tội của nhân vật lịch
sử này để cho những trang sử về nhà Mạc được chính thức là những trang sử khách
quan”.
Trong Luận án tiến sĩ của mình, Đinh Khắc Thuân cũng đã chứng minh: “Quả là Mạc
Đăng Dung chưa hề cắt đất cho nhà Minh, nhưng ông đã phải bó tay và buộc chấp

nhận sự kiện các động trưởng của bốn động ở sát biên giới Đông Bắc trở lại với nhà
Minh. Với những vùng đất này, nhà Mạc cũng không thể tránh khỏi đối mặt với lời
viện cớ có tính tiền lệ có từ thời Tống rằng: “Những đất mà nhà Tống chiếm đóng, thì
sẽ trao trả lại cho Giao Chỉ, nhưng những đất mà thủ lĩnh của nó tự theo về thì khơng
thể trả lại được… Tương tự như vậy, làm sao nhà Mạc có thể giữ lại được bốn động
trên khi mà các động trưởng đã bỏ về với nhà Minh?”.
Đặc biệt Cố giáo sư Trần Quốc Vượng cũng khẳng định, họ Mạc thi hành chiến lược
“thần phục giả vờ, độc lập thực sự”. Giáo sư đã dẫn Minh sử rằng: “Họ Mạc nộp tồn
đất khống (có địa danh mà khơng có thực) hoặc là đất nhà Minh từ trước rồi, mà
tương kế tựu kế đem nộp. Các quan nhà Minh không hay cứ yên trí đem dâng đất về
kinh sư. Khi đi kiểm tra để thu hồi mới hay sự thật là họ Mạc “nộp vờ”.
Trong Kiến văn tiểu lục, nhà bác học Lê Quý Đôn viết: “Xem tập Thù vực chu tư lục
(Nghiêm Tịng Giản nhà Minh biên soạn), thì về nghi lễ sai sứ thần đi sính vấn của đời
trước, về gốc ngọn việc nhà nguỵ Mạc xin hàng, về sự khó khăn trong việc khi gây
dựng cơ nghiệp trung hưng, về lòng thành khẩn tố cáo của di thần triều trước và đại
cương quan chế, binh chế nước ta, đều có thể biết rõ được”.
Nghiêm Tịng Giản, q ở Gia Hồ, làm quan Cấp sự trung Hình khoa, giữ chức hành
nhân đời Minh, là một thành viên trong phái đoàn của nhà Minh, chứng kiến lễ “đầu
hàng” của nhà Mạc chép nguyên văn biểu xin hàng của Mạc Đăng Dung gửi hồng đế
nhà Minh: “Cịn việc quan thú Khâm Châu thuộc Quảng Đông tâu rằng bốn động Triết
Lâm, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liêu Cát là đất cũ của Khâm Châu, Quảng Đơng. Nếu quả
thực như lời ấy, thì đó là lỗi mạo nhận của họ Lê trước, nay thần xin giao trả lại”.
Mạc Đăng Dung là một trong những nhân vật gây nhiều tranh cãi nhất trong lịch sử
Việt Nam. Sử sách triều Lê – Trịnh và triều Nguyễn sau này vốn ln lên án Mạc
Đăng Dung là “thốn nghịch” hay “nghịch thần” đồng thời coi nhà Mạc là “ngụy
triều” nhưng cũng phải ghi lại một thực tế lịch sử khi Mạc Đăng Dung lên ngôi là
“bấy giờ thần dân trong nước đều theo Mạc Đăng Dung, đến đón vào kinh sư” (Đại
Việt sử ký toàn thư, tr.118) hay “lúc này thần dân phần nhiều xu hướng về Đăng
Dung, đều ra đón về kinh đơ” (Đại Việt thơng sử, tr.264). Nhiều nhà nghiên cứu khẳng
định: Việc nhà Mạc thay thế nhà Lê là hoàn toàn hợp với quy luật lịch sử. Họ Mạc đã

thực sự không dâng đất cho nhà Minh, hành động của Mạc Đăng Dung không phải là
dâng đất mà rằng đó là việc trả đất. Các ý kiến của các nhà nghiên cứu đương đại phần


lớn đã thay đổi theo hướng đồng tình với các luận giải hợp lý và tư liệu cập nhật.
Mặc dầu vậy nó cũng khơng phải ý kiến cuối cùng và cần tiếp tục được nghiên cứu.
Dù có khen chê hay định đoạt cơng tội của Mạc Đăng Dung thì người ta cũng phải
thừa nhận ơng là một người có tài thao lược, trí dũng hơn người, là người có sức thu
phục nhân tâm lớn, là người dám hy sinh cả danh dự cá nhân vì đại cục quốc gia.
3 CÁC NHẬN ĐỊNH ĐÁNH GIÁ VỀ NHÀ MẠC
“...Nên xóa bỏ thành kiến và định kiến về nhà Mạc. Nên đối xử với nhà Mạc một cách
công bằng như các triều đại khác. Hãy trả lại cho nhà Mạc những đóng góp khách
quan.
Đã đến lúc chúng ta phải thay đổi về cách đánh giá các chính sách đối nội và đối
ngoại của nhà Mạc. Không nên đánh giá nặng nề về nhà Mạc như trước đây do nhận
thức của một số người nghiên cứu còn hạn chế.
Nhà Mạc là vương triều ra đời và tồn tại sau nhà Lê. Việc nhà Lê sụp đổ, nhà Mạc lên
là một hiện tượng có ý nghĩa tiến bộ, được nhiều người ủng hộ. Không nên coi sự việc
này là sự cướp ngôi. Sau khi ra đời và tồn tại, nhà Mạc đã có những đóng góp nhất
định về mặt văn hóa, về mặt tư tưởng và một phần nào đó về mặt kinh tế...”
(Trích tổng kết Hội thảo về Vương triều Mạc tại Hải Phòng, ngày 18/7/1994)

GS. Anh hùng lao động Vũ Khiêu:
“Nhìn lại những tư tưởng và việc làm của Mạc Đăng Dung ta thấy ông xuất hiện như
một bông hoa xuyến tuyết, chọc thủng lớp dày băng giá mùa đơng để chào đón mùa
xuân của đất nước”.

GS. Sử học Văn Tạo - Nguyên Viện trưởng Viện Sử học
“...Tồn bộ cơng tích của nhà Mạc cống hiến cho dân tộc đã được sử sách ghi chép.
Riêng cơng trạng của Mạc Đăng Dung có thể tóm tắt như sau:

Khi khủng hoảng cung đình diễn ra trầm trọng, triều đình đổ nát, kinh tế suy sụp, dân
tình cực khổ, Mạc Đăng Dung đã dẹp được các phe phái phân chia, cát cứ, lên ngôi,
tạo dựng được cơ nghiệp cho con cháu nối đời, góp phần ổn định đời sống xã hội, xây
dựng và phát triển đất nước về mọi mặt: kinh tế, văn hóa, xã hội trong hơn nửa thế kỷ.
Thành tựu của nhà Mạc không ai có thể phủ nhận được.
Xét về sự nghiệp dựng nước thì bao giờ cũng là “Vạn sự khởi đầu nan”, cơng lao đó
thuộc về Mạc Đăng Dung.
Nhân dân ta một khi đã thừa nhận là nhà Mạc có những cống hiến nhất định cho dân
tộc thì khơng thể khơng thừa nhận công lao của nhà Mạc Đăng Dung.


Nói tóm lại, với 65 năm tồn tại và phát triển, nhà Mạc đã có cống hiến nhất định vào
lịch sử dân tộc. Công lao sự nghiệp của Mạc Đăng Dung đối với nhà Mạc là lớn lao và
sự nghiệp dựng nước của nhà Mạc đã được sử sách ghi nhận. Hậu thế chúng ta cần
trân trọng và phát huy”.
(Trích bài “Nhà Mạc (1527-1592) - Thái tổ Mạc Đăng Dung (1527-1529)”. Phát biểu
tại Lễ tưởng niệm 458 năm ngày mất của Mạc Thái tổ, tổ chức tại Từ đường họ Mạc ở
Cổ Trai, Kiến Thụy, Hải Phòng, ngày 22-8 năm Kỷ Mão (1999).

Cố GS Trần Quốc Vượng
“...Khơng nên chỉ nhìn nhận và đánh giá sự nghiệp nhà Mạc qua những gì sử thần nhà
Lê viết. Triều đình Lê-Trịnh đối địch với triều Mạc từ đầu đến cuối thế kỷ XVI, và
còn tiếp tục đối địch với triều Mạc thu nhỏ ở Cao Bằng ba đời nữa cho đến hết nửa
đầu thế kỷ XVII; do vậy sứ thần nhà Lê-Trịnh bôi xấu triều Mạc là chuyện tất nhiên.
“Yêu nên tốt, ghét nên xấu” là chuyện thường tình...
Ta cần bổ sung bằng các tư liệu điền dã trong nước, tư liệu nước ngoài để “hiểu” về
nhà Mạc ngày càng cụ thể, sâu sắc hơn...
Tuy vậy, đọc Đại Việt sử ký toàn thư, ta vẫn lọc được vài thông tin quý về đời Mạc.
Đại Việt thông sứ của Lê Quý Đôn bổ sung rất nhiều cho Toàn thư về diễn biến lịch sử
thế kỷ XVI.

Mạc Đăng Dung lấy ngôi vua nhà Lê không phải từ tay một vua Lê anh hùng như Lê
Lợi, một vua Lê có học vấn và tài năng lớn như Lê Thánh Tông mà là từ những vua
lợn, vua quỷ... Sự thay thế đó là hợp lẽ Đời và Đạo.
Toàn thư (tập IV, KHXH, 1968, tr.118) chép: “Bấy giờ thần dân trong nước theo Mạc
Đăng Dung đều đón vào kinh sư”. Bài chiếu nhường ngôi, do Đông các Đại học sĩ
Nguyễn Văn Thái thảo viết, việc ấy là “theo lẽ phải”! Lễ phải chính trị, nhân văn...”
(Trích bài Mấy vấn đề về nhà Mạc trong cuốn Nhà Mạc và dòng họ trong lịch sử).

“...Nếu Dương Kinh của nhà Mạc được xây dựng thành công, nếu nhà Mạc tồn tại lâu
hơn nữa thì Đại Việt lần đầu tiên có kinh đơ - cảng thì cơng thương nghiệp miền Hải
Dương và cả nước phát triển mạnh mẽ hơn và chắc trong lòng xã hội quản chủ quan
liêu đã nảy sinh được những nhân tố mới của một phương thức sản xuất mới, quản lý
mới...
Tiếc thay nhà Mạc đã thổi “tiếng kèn ngập ngừng” trong hành động hướng biển và
hướng ngoại và các phần tử thủ cựu nhất của hàng ngũ quan liêu - địa chủ - sĩ phu
Nho giáo đã tập hợp nhau ở xứ Thanh - nơi dân sinh dân trí cịn kém phát triển hơn cư
dân châu thổ Bắc bộ - để quay ngược bánh xe lịch sử, dưới hình thức “trung hưng nhà


Lê” cùng cái nhìn hướng nội và trọng nơng trọng sĩ, tôn sùng Nho giáo. Chúng ta
chứng kiến một thời kỳ quân chủ suy tàn rồi mất nước cho thực dân...”
(Trích bài Hải Phịng nhìn từ thủ đơ Hà Nội trong cuốn Việt Nam cái nhìn địa - văn
hóa, Nxb Văn hóa dân tộc - Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, Hà Nội - 1998, tr.212)

Nhà sử học Lê Văn Hòe:
“...Cái khuyết điểm lớn nhất của cuốn Việt Nam sử lược là ở chỗ đã nặng lời biếm
nhục Mạc Đăng Dung - vua Thái Tổ nhà Mạc... Sự thật khác hẳn. Mạc Đăng Dung bị
hiểu lầm. Mạc Đăng Dung là một người anh hùng lập thân trong thời loạn. Mạc Đăng
Dung là người yêu nước thương dân. Mạc Đăng Dung là người có tài ngoại giao”.
(Trích Hồ Q Ly - Mạc Đăng Dung, Quốc học thư xã, Hà Nội-1959, tr.25)


Dương Trung Quốc – Tổng thư ký Hội Khoa học lịch sử Việt Nam:
“Nhà Mạc là một triều đại lịch sử tồn tại trên tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc...
chỉ có 65 năm nhưng một triều đại để lại những dấu ấn đậm nét trên nhiều phương
diện của lịch sử dựng nước (giáo dục, kinh tế, an ninh xã hội, nghệ thuật kiến trúc...).
Lịch sử cũng ghi nhận trong 65 năm trị vì của nhà Mạc những nhân tố của một thời kỳ
phát triển (thịnh trị).
(Tạp chí Cửa biển năm 2004)

PGS.TS Trần Thị Vinh - Viện sử học
“...Nhiều nhà viết sử và nghiên cứu lịch sử cho Mạc Đăng Dung là kẻ “cướp ngơi”, là
“thốn đoạt”, là “nghịch thần”, ...và... Nhưng hãy hỏi nếu như trong tình thế lịch sử
lúc đó ở triều đình nhà Lê, vua khơng ra vua, tôi không ra tôi, vậy ai sẽ là người đứng
lên gánh lấy sứ mệnh trọng đại này? Nếu khơng là Mạc Đăng Dung thì sẽ là một
người nào đó. Vì vậy sự kiện Mạc Đăng Dung đã từng gửi gắm ba phần tư quãng đời
để lập ra triều đại mới của dịng họ Mạc khơng phải là một điều sỉ nhục như nhiều sử
thần thời phong kiến đã gán cho Mạc Đăng Dung và triều đại nhà Mạc phải được trả
về với vị trí của mình. Tơi đồng tình với một số ý kiến của giới sử học gần đây trong
cách đánh giá Mạc Đăng Dung và nhà Mạc. Tức chúng tơi nhìn nhận Mạc Đăng Dung
khơng phải như một kẻ “nghịch thần” và cũng nhìn nhận một cách tương đối có cơ sở
về những đóng góp của vương triều Mạc trong tiến trình lịch sử nói chung. Nếu coi
Mạc Đăng Dung là kẻ “thoán đoạt”, là “nghịch thần”,... và coi nhà Mạc là “ngụy
triều” tức là đã phủ nhận những đóng góp chung của nhà Mạc trên các lĩnh vực kinh
tế, văn hóa, giáo dục và nghệ thuật. Cịn nếu coi những hoạt động chính trị của Mạc
Đăng Dung ở cuối thế kỷ XV đầu thế kỷ XVI dẫn tới việc thiết lập vương triều Mạc là
có tội thì trước kia vào cuối thời Lý đầu thời Trần, Trần Thủ Độ cũng dùng mưu mẹo


thậm chí dùng cả hành động độc ác ép Lý Chiêu Hồng nhường ngơi cho Trần Cảnh,
giành cơ đồ về tay nhà Trần đưa nhà Trần lên trường chính trị tương tự như vậy tại sao

lại không bị lịch sử lên án? Nói tóm lại trong lịch sử chế độ quân chủ Việt Nam, việc
triều đại này đổ, triều đại kia lên là một tất yếu lịch sử. Như triều Lê thay triều Đinh,
triều Lý thay triều Lê, triều Trần thay triều Lý, triều Hồ thay triều Trần, và triều Mạc
thay triều Lê cũng là điều tất yếu lịch sử. Một số nhân vật như Trần Thủ Độ, Hồ Quý
Ly hay Mạc Đăng Dung gắn liền với các sự kiện thay đổi của các triều đại nói trên
cũng là tất yếu lịch sử. Những nhân vật đó khơng thể bị coi là có tội trước lịch sử như
quan niệm cũ”.
(Trích bài “Thể chế chính trị ở Việt Nam cuối thế kỷ XV đầu XVI và những hoạt động
chính trị của Mạc Đăng Dung tiến tới thành lập Vương triều Mạc” trong cuốn Vương
triều Mạc).

“...Vương triều Mạc chính thức tồn tại với một thể chế quân chủ, bao gồm đủ cơ cấu,
đủ thành phần giai cấp trong bộ máy lãnh đạo nhà nước.
Nhà nước quản chủ thời Mạc tuy bận rộn nhiều về chiến sự, nhưng đã chú ý tới các
lĩnh vực khác của đời sống xã hội như: kinh tế, văn hóa, giáo dục và nghệ thuật. Phải
chăng việc làm đó đã tạo cơ sở cho Vương triều Mạc tồn tại trong tình hình chính trị
bất ổn định ở thế kỷ XVI.
Vương triều Mạc cần phải được thừa nhận như một vương triều của chế độ quân chủ
tập trung. Tất nhiên chế độ quân chủ tập trung của nhà Mạc không thể so sánh được
với chế độ quân chủ tập trung thời Lê sơ, nhưng đặt trong bối cảnh lịch sử thế kỷ
XVI-thế kỷ người ta thường gọi là loạn phong kiến thì chế độ quân chủ tập trung nhà
Mạc về mặt nào đó mang tính chất tích cực nhất định đối với xã hội Việt Nam lúc bấy
giờ”.
(Trích bài Chế độ quân chủ thời Mạc (1527-1592) và thể chế chính trị đương thời
trong cuốn Vương triều Mạc)

Cố GS.TS Trương Hữu Quýnh – Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
“...Chính Đại Việt sử ký toàn thư cũng viết: “Bấy giờ thần dân trong nước đều theo
Mạc Đăng Dung, đến đón vào kinh sư” (Sđđ, tr.118). Tác giả Đại Việt thông sử cũng
họa theo: “Lúc này thần dân phần nhiều xu hướng về Đăng Dung, đều ra đón về kinh

đơ” (Sđđ, tr.264)
Như vậy, có thể thấy rằng Mạc Đăng Dung đã cướp ngôi không phải vào lúc nhà Lê
đang được suy tôn, kiểu như ở thời Lê Nghi Dân, mà vào lúc nhà Lê đã quá suy yếu,
nhân dân chán nản cảnh chiến tranh giữa các phe phái phong kiến, mong muốn vãn
hồi hịa bình để xây dựng lại cuộc sống. Nếu đúng như sử cũ đã ghi lại thì ít nhất có
một bộ phận nhân dân đã tin ở họ Mạc và sẵn sàng ủng hộ họ Mạc. Chính vì vậy mà


trong hơn 10 năm đầu của triều đình Mạc, đất nước trở lại n bình. Đại Việt thơng sử
ghi: “Đăng Doanh thấy trong nước có nhiều trộm cướp, bèn ra lệnh cấm nhân dân các
xứ không được mang gươm giáo, dao nhọn và các đồ binh khí ngồi đường. Nếu kẻ
nào trái lệnh, cho Pháp ty bắt trị tội. Từ đấy, những người đi buôn bán chỉ đi tay
không, không phải đem theo khí giới tự vệ, trong khoảng mấy năm, trộm cướp biệt
tăm, súc vật chăn nuôi tối đến không phải dồn vào chuồng, cứ mỗi tháng một lần kiểm
điểm mà thôi. Mấy năm liền được mùa, nhân dân bốn trấn đều được yên ổn” (Sđđ,
tr.276). Đại Việt sử ký tồn thư ghi thêm: “Đường sá khơng nhặt của rơi, cổng ngồi
khơng đóng” (tr.126).
Tóm lại, nhà Mạc là một sản phẩm của tình hình xã hội Đại Việt đầu thế kỷ XVI, khi
mà phương thức sản xuất phong kiến đi vào thế ổn định, cơ sở kinh tế xã hội của chế
độ trung ương tập quyền đã bị phá vỡ. Nhà Mạc là nhà nước đầu tiên của giai đoạn
mới này của chế độ phong kiến Việt Nam chứ không phải là triều đại gây nên sự suy
tàn của xã hội phong kiến, gây nên sự sụp đổ của chính quyền qn chủ tập trung, tình
trạng chiến tranh và chia cắt đất nước sau này”.

(Trích bài Nhìn lại một số việc làm của nhà Mạc trong cuốn Nhà Mạc và dòng họ Mạc
trong lịch sử).

PGS Chu Quang Trứ - Viện Mỹ thuật
“ Các bộ sử xưa thường coi nhà Mạc là “ngụy triều”, khơng cơng nhận là chính thống
nhưng cũng không phủ nhận được, nên trong khi viết về nhà Lê đã “phụ chép” về các

vua nhà Mạc. Tuy nhiên, với tính khách quan của ngọn bút chép sử, các sử gia xưa đã
dành nhiều dòng ca ngợi sự thịnh trị và nền nếp của triều đình Mạc cũng như sự được
lòng dân của nhà Mạc. Nếu chiếu sử biên niên với những di tích và di vật may mắn
cịn lại của nhà Mạc, chúng ta có cơ sở chắc chắn để đặt niềm tin và tình cảm vào
vương triều này. Ở đây, chúng tôi dưới gốc độ mỹ thuật, dựa vào những di vật mới
phát hiện và chỉ tuyển chọn, nhất là trên địa bàn Hải Phòng để khẳng định có thật một
giai đoạn “Mỹ thuật Mạc”. Qua đó, hiểu thêm chính sách xã hội và kinh tế của nhà
Mạc..
...Như vậy mỹ thuật Mạc là có thật với sự phát triển rộng và phong cách riêng (trong
đó đất căn bản la xứ Đơng), nó góp phần tạo nên bộ mặt đặc sắc của xã hội Việt Nam
thế kỷ XVI”.
(Trích bài Hiều về xã hội Mạc qua mấy phát hiện về mỹ thuật Mạc ở xứ Đông trong
cuốn Nhà Mạc và dòng họ Mạc trong lịch sử).
Còn đây là một nhận định khác trên web />

×