Vấn Đề Phân Kỳ Lịch Sử Trong Sử học Mác-xít
I) Cơ Sở Lý Luận
1) Khái Niệm Phân Kì Lịch Sử
- Phân kỳ lịch sử (Tiếng Anh: periodization) là sự phân chia quá khứ thành các phân đoạn
thời gian – các thời kỳ, các kỷ nguyên, các giai đoạn, và cứ thế.
1
- Phân kỳ lịch sử là sự phân chia lịch sử loài người (cũng như lịch sử của từng quốc gia, dân
tộc) ra thành những thời kỳ, giai đoạn nhằm giúp cho chúng ta nhận thức sự phát triển đi lên
của lịch sử; sự kế tục giữa các thời kỳ, giai đoạn lịch sử; mối quan hệ tác động qua lại giữa
các thời kỳ, giai đoạn lịch sử.
2
Sự phân kỳ lịch sử có từ lâu đời. Trong thần thoại và tôn giáo, chúng ta bắt gặp nhiều kiểu
hình phân kỳ lịch sử
3
2)
Chẳng hạn, sự phân đơi theo lối hồi cổ chia thời gian thành các thời đại vàng son và các
thời kỳ suy tàn sau đó.
Các sơ đồ tuần hồn của sự nảy sinh và lụi tàn, và các sơ đồ bộ bốn dựa trên sự loại suy về
bốn mùa, các giai đoạn của đời người,…tác phẩm thơ bằng tiếng Hy Lạp Công việc với
tháng ngày (khoảng 650 TCN?)
Khuynh hướng Sử học mácxít
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX hình thành khuynh hướng Sử học mácxít. Sử học mácxít ra
đời dưới ảnh hưởng trực tiếp của chủ nghĩa Mác và sau đó là những luận điểm của Lênin.
Chủ nghĩa Mác – Lênin là tư tưởng, là nền tảng để các nhà sử học mácxít trình bày lịch sử
và giải thích lịch sử. Khác với quan điểm tư sản về lịch sử phủ nhận sự tồn tại của hiện thực
lịch sử, chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định sự tồn tại khách quan của quá khứ. Điều này
được thể hiện ở những điểm sau:
1) Chủ nghĩa Mác coi lịch sử (quá trình phát triển của xã hội lồi người) là một hiện thực
(tính vật chất) đã diễn ra trong quá khứ, tồn tại độc lập khách quan, là đối tượng nghiên cứu
của một số ngành khoa học trong đó có sử học. Để xây dựng mơ hình phương pháp nghiên
cứu lịch sử, chủ nghĩa Mác đã kết hợp được hai luận điểm, một là, quá trình lịch sử được
nghiên cứu giống hệt như quá trình tự nhiên và hai là, quá trình lịch sử được nghiên cứu
hồn tồn theo những đặc thù của xã hội loài người. Kết hợp hai luận điểm này, chủ nghĩa
Mác chỉ rõ quá trình lịch sử vừa phải chịu sự tác động bởi những quy luật tổng quát của tự
nhiên vừa phải chịu sự chi phối bởi các qui luật đặc thù của xã hội.
2) Chủ nghĩa Mác đã khám phá ra cơ chế của sự phát triển, đưa ra mơ hình giải thích sự
phát triển của lịch sử qua việc diễn giải ba mâu thuẫn nội tại của xã hội và cũng có thể hiểu
như là những quy luật cơ bản của sự phát triển xã hội.
Mâu thuẫn chủ yếu quy định sự phát triển của xã hội là mâu thuẫn giữa con người với tự
nhiên. Đó là mâu thuẫn của ý thức và vơ thức.
Mâu thuẫn thứ hai là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Mâu thuẫn thứ ba xảy ra giữa các quan hệ sản xuất và thượng tầng kiến trúc xã hội.
3) Trong những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Lênin đã tiến hành hồn thiện nhận
thức luận duy vật biện chứng. Ơng đã xây dựng học thuyết mác xít về sự phản ánh. Theo
học thuyết này, nhận thức con người luôn luôn là sự phản ánh của tồn tại, khái niệm là sự
phản ánh của thực tế. Tuy nhiên, sự phản ánh này không phải là gương ảnh.
Lênin đã đưa ra những nguyên tắc trong nhận thức lịch sử như sau: Thứ nhất là xem xét cái
chung và cái riêng trong thể thống nhất biện chứng như là chúng vốn có trong thực tế. Thứ
hai là thừa nhận thực tiễn là tiêu chuẩn chân lý khách quan chủ yếu của bất kỳ mọi nhận
thức bao gồm cả nhận thức lịch sử.
4) Nhận thức lịch sử, theo Lênin, phải dựa vào sự kiện lịch sử. Sự kiện lịch sử được coi như
vật chất, tồn tại khách quan với nhà sử học. Các sự kiện lịch sử cần được hiểu trong một
tổng thể hay như một hệ thống vì tồn tại cá biệt chỉ là một mặt của chân lý, chân lý đòi hỏi
nhiều mặt khác của hiện thực và trong mối quan hệ của chúng thì chân lý mới được thể
hiện. Chỉ có thể nhận thức đúng đắn các sự kiện nếu xem xét chúng trong cái toàn bộ sinh
động mà chúng là những bộ phận cấu thành. Xuất phát từ thực tế khách quan của tồn tại lịch
4 xã hội loài người là "một quá trình thống nhất và thường
sử, VI. Lê-nin khẳng định lịch sử
xuyên, mặc dù quá trình này diễn ra vô cùng phức tạp và đầy mâu thuẫn"
5) Lênin đã phát triển thêm một bước và cụ thể hóa quan điểm mácxít về vai trị quyết định
của đấu tranh giai cấp trong lịch sử và cách tiếp cận các hiện tượng thông qua quan điểm
giai cấp. Lênin nhấn mạnh khoa học lịch sử là một khoa học có tính đảng, bản thân chủ
nghĩa duy vật vốn bao hàm cái gọi là tính đảng. Khoa học lịch sử mácxít kết hợp được chặt
chẽ tính đảng và tính khách quan vì quan điểm mácxít thể hiện lập trường của một giai cấp
tiên tiến nhất của xã hội – giai cấp công nhân.
II) NHỮNG NGUYÊN TẮC, VAI TRÒ, Ý NGHĨA VÀ QUAN ĐIỂM PHÂN KỲ LỊCH
SỬ.
1)Những nguyên tắc phân kỳ.
Từ thời khi loài người xuất hiện đến nay, lịch sử luôn vận động liên tục và biến đổi khơng
ngừng. Vốn dĩ, q trình phát triển của xã hội lồi người có tính đa dạng, phức tạp và khơng
đồng đều, có nhiều sự biến chuyển từ thấp đến cao, từ cái thô sơ đến hiện đại, từ đơn giản
đến phức tạp. Hay nói cách khác, quá trình phát triển của lịch sử lồi người là q trình
“thống nhất đầy mâu thuẫn”. Mà q trình đó bao gồm nhiều giai đoạn, thời kỳ có sự biến
chuyển khác nhau, với mỗi giai đoạn là một “nấc thang đi lên” của sự phát triển xã hội loài
người. Để nghiên cứu một cách đầy đủ, khách quan và khoa học các sự kiện, hiện tượng lịch
sử, chúng ta cần đặt chúng vào một hoàn cảnh lịch sử cụ thể, cần phải phân kì lịch sử theo
một nguyên tắc nhất định, quan niệm riêng của mỗi nhóm, mỗi thời đại. Với mỗi nhà sử
học, có cách chia khác nhau tùy thuộc vào quan điểm chủ quan của mỗi người.
Một trong những phương thức phân kỳ lịch sử dựa theo hình thái kinh tế - xã hội
(HTKTXH) của Maxist. Dựa vào cơ cở vật chất của sản xuất, có thể phân kỳ lịch sử của loài
người thành: HTKTXH cộng sản nguyên thủy, HTKTXH chiến hữu nô lệ, HTKTXH phong
kiến, HTKTXH tư bản chủ nghĩa, HTKTXH cộng sản chủ nghĩa. Đây là quá trình kế tiếp
nhau của quá trình phát triển trong lịch sử của lồi người chính vì sự mâu thuẫn của lực
lượng sản xuất và quan hệ sản xuất cho nên đã dẫn đến Ở từng giai đoạn của lịch sử thì mỗi
hình thái kinh tế xã hội sẽ ra đời để đáp ứng nhu cầu và mang những đặc điểm tính chất của
thời kỳ đó. Với những quan điểm phân kỳ của k.marx đã ảnh hưởng đến đại bộ phận sử gia
trong đó có sử gia Việt Nam. Tính đến thời điểm hiện tại học thuyết hình thái kinh tế xã hội
trải qua nhiều thời gian dài tuy còn hạn chế nhưng cũng là một phương thức khoa học để
nhận thức đúng đắn về đời sống xã hội.
Các nhà xã hội học và sử học đều đưa ra nhiều tiêu chuẩn khác nhau để giải quyết nhiều
vấn đề các mốc phân kì lịch sử nhưng nhìn chung lại thì chỉ có lý luận đấu tranh về giai cấp
mới là lý luận được nhiều người tán đồng. Thể hiện rõ việc chỉ có đấu tranh giai cấp mới là
hình thức biểu hiện trực tiếp, tức thời phản ánh đầy đủ những xung đột, mâu thuẫn của các
phương thức sản xuất. Bên cạnh đó đấu tranh giai cấp cịn quy định trực tiếp mối quan hệ và
tác động qua lại giữa kinh tế và kiến trúc thượng tầng của xã hội.
Đấu tranh giai cấp là mốc tiêu chuẩn cơ bản để chia ra mốc lịch sử phân chia thời kì và phát
triển xã hội. dù đấu tranh giai cấp là biểu hiện hình thức cao nhất để phân chia mốc lich sử
phân kỳ nhưng chúng ta cũng cần phải đi sâu vào và xem xét lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất, tính chất cách mạng của sự quá độ, tính chất cách mạng của tổ chức nhà nước
mới,..
5
Các nhà sử học đã chọn các triều đại của các vị vua làm ngun tắc phân kì lịch sử, lấy chế
độ chính trị làm cơ sở. Hiển nhiên, các nhà sử học phương Đơng và phương Tây có sự nhận
thức khác nhau trong việc sử dụng nguyên tắc này. Ở phương Đông, ảnh hưởng bởi chế độ
phong kiến, coi chế độ quân chủ luôn tồn tại, các nhà sử học Việt Nam, Trung Quốc hay ở
quốc gia nào bị tác động bởi yếu tố phong kiến, nguyên tắc phân kỳ được chia theo triều đạị,
theo các vị vua.
Phương Tây mặc dù đất nước đi theo chế độ quân chủ nhưng tư tưởng quan trọng hóa vua
lại khơng có, mặc dù họ phân kì lịch sử theo triểu đại.
Một trong những nguyên tắc kế tiếp được các nhà sử học phương Tây phân kỳ, dựa vào kim
loại để phân kỳ. như thời đại sắt, thời đại đồng, thời đại vàng…Ngồi ra, Việc phân kỳ lịch
sử cịn dựa vào sự thay đổi trong công cụ lao động để chia thành từng giai đoạn như công cụ
bằng đá, công cụ bằng đồng, công cụ bằng sắt,..
Trong những thập niên gần đây, xuất hiện một nguyên tắc phân kỳ mới, đó là dưa vào đặc
điểm của các nền văn minh để phân kỳ và nghiên cứu sự vật hiện tượng ở nền văn minh đó.
Lịch sử lồi người được chia thành văn minh nông nghiệp, văn minh công nghiệp, văn minh
hậu công nghiệp (hay văn minh tin học, văn minh trí tuệ). đẫn chứng Nhà tương lai học
người Mỹ, Alvin Toffler đã dựa vào trình độ phát triển nhân loại phân thành ba nền văn
minh hay còn gọi là ba làn sóng: văn minh nơng nghiệp, văn minh cơng nghiệp và văn minh
hậu công nghiệp. Hay một số lý thuyết phân kỳ sự phát triển xã hội theo cách tiếp cận phát
triển kinh tế. Lý thuyết của Giáo sư Walter Wiliam Rostow được trình bày trong tác phẩm
“Các giai đoạn tăng trưởng kinh tế” (The Stages of Economic growth – 1961) nhằm nhấn
mạnh các giai đoạn tăng trưởng kinh tế của một quốc gia. Và lý thuyết về “cái vịng luẩn
quẩn” và “cú hích” từ bên ngồi” của nhà kinh tế học người Mỹ Samuellson cho rằng một
quốc gia muốn đạt.
Một số sử gia lại phân kỳ lịch sử theo tiến trình thời gian thành các giai đoạn: cổ - trung –
cận – hiện. Thường các nhà nghiên cứu có quan điểm phân kỳ như trên thường lấy một mốc
thời gian, những sự kiện hiện tượng trong cùng một giai đoạn thường có cùng một bối cảnh
lịch sử cụ thể chung. Như lịch sử thế giới được chia dựa theo các mốc thời gian như sau: cổ
đại từ khi có sự xuất hiện của nhà nước đến thế kỷ 476, thời trung đại từ thế kỷ thứ V - XV,
thời cận đại từ thế kỉ thứ XV – 1917, và thời hiện đại từ 1917 đến nay. Về lịch sử Việt Nam,
thời kỳ cổ đại được bắt đầu từ thế kỉ VII TCN – 938, thời trung đại từ X – XIX, thời cận đại
từ XIX – 1945, thời hiện đại từ 1945 đến nay.
Nguyên tắc phân kỳ lịch sử còn dựa vào các sự kiện lớn, những sự kiện này có tác động to
lớn đến đời sống của loài người.Việc phân kỳ dựa này thường được gắn liền với phân kỳ
theo trục thời gian. Phân kỳ dựa vào các sự kiện như nhà nước ra đời, cuộc cách mạng tư
sản Hà Lan bùng nổ, cách mạng tháng Mười Nga hay Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc.
Đối với lịch sử Việt Nam thì điển hình như Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, Cách mạng
tháng Tám thành công, Chiến thắng Điện Biên Phủ,…Điểm chung của các mốc thời gian
này là đánh dấu sự chuyển biến của tình hình thế giới sang một cục diện mới.
6
Một nguyên tắc phân kỳ khác của một số sử gia, đó là dựa vào sự phát triển về ngành nghề
lao động. Có thể thấy được rằng sự phân kỳ này dựa vào sự tiến bộ trong ngành nghề của
loài người để phân chia lịch sử loài người thành thời kỳ săn bắt hái lượm, chăn nuôi, trồng
trọt, thủ công nghiệp,…
Nhìn chung, mỗi cách phân kỳ tùy theo quan điểm của mỗi nhà nghiên cứu. Việc phân kỳ
lịch sử chỉ mang yếu tố tương đối, phục vụ cho việc nghiên cứu q trình phát triển của xã
hội lồi người, mỗi cách phân kỳ đều mang những ưu điểm và nhược điểm khác nhau.Tuy
nhiên, nghiên cứu và phân kỳ lịch sử theo bất kỳ nguyên tắc nào, đều phải tuân theo các
nguyên tắc lớn dưới đây:
Thứ nhất, lịch sử loài người hay lịch sử của một dân tộc, trừ những trường hợp đặc biệt, dù
có lúc lên lúc xuống, yếu mạnh khác nhau, đều phát triển theo xu hướng đi lên, tiếp nối
nhau và ngày càng tiến triển.
Thứ hai, theo quan điểm của sử học Marxist, sự phát triển đó của lịch sử loài người chịu sự
chi phối của những quy luật khách quan, thống nhất.
Thứ ba, khi phân kỳ lịch sử cần kết hợp nhuẫn nhuyễn hai phương pháp logic và phương
pháp lịch sử.
Cuối cùng, dù nghiên cứu trên bất kỳ lập trường, quan điểm nào thì việc phân kỳ cần phải
khoa học, người nghiên cứu cần phải có thái độ khách quan, cái nhìn đối với việc nhìn nhận
sự thay đổi của xã hội lồi người đó.
2)Vai trị việc phân kỳ lịch sử theo sử học Mácxít
Việc phân chia các thời kỳ, giai đoạn của lịch sử loài người hay của lịch sử dân tộc là một
công việc hết sức cần thiết đối với nhà nghiên cứu, người làm công tác giảng dạy lịch sử.
Không phải chỉ các nhà nghiên cứu lịch sử mới cần biết sự kiện đã nảy sinh ra ở đâu, vào
giai đoạn nào. Người thầy giáo lịch sử cũng rất cần biết điều đó. Giảng dạy lịch sử phải gây
lại được khơng khí lịch sử, phải xuất phát từ hoàn cảnh, giai đoạn xảy ra sự kiện để giải
thích nó và trình bày nó. Như vậy, người thầy giáo lịch sử cũng như các nhà sử học nói
chung cần phải hiểu những quy tắc nguyên lý chung của phân kỳ lịch sử để xử lý đúng đắn
những kết quả của giới sử học về phân kỳ lịch sử cụ thể.
Hơn thế nữa, ngày nay khi học thuyết Mác-Lênin ngày càng chinh phục được đông đảo các
nhà khoa học, nhân dân lao động trên toàn thế giới thì giới sử học, xã hội học tư sản phản
động đủ mọi màu sắc càng tung ra nhiều lý thuyết khác nhau về sự phát triển của xã hội lồi
người. Chúng phủ định tính thống nhất của thế giới, phủ định tính quy luật của sự phát triển
xã hội, chúng lập lại "ý niệm tuyệt đối" thần bí của Hêghen và phủ định cả tính khách quan
khoa học của khoa học lịch sử,... Đứng trước tình hình đó, người làm cơng tác sử học chúng
ta càng cần phải có những quan niệm đúng đắn khách quan khoa học về phân kỳ lịch sử,
7 của sự phân chia các giai đoạn phát triển từ thấp lên cao
phải biết những nguyên lý cơ bản
của xã hội lồi người nói chung cũng như của một dân tộc nói riêng. Đó là một lĩnh vực của
cuộc đấu tranh để bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin trong giai đoạn hiện nay. 'Góp
phần vào cuộc đấu tranh để bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin trong giai đoạn hiện
nay.'
Việc phân chia các giai đoạn và thời kỳ lịch sử giữ một vị trí rất quan trọng trong sử học
mácxít. Việc phân chia các giai đoạn và thời kỳ lịch sử một cách đúng đắn, khoa học sẽ giúp
chúng ta thấy rõ tính quy luật thống nhất của thế giới, đồng thời cũng thấy rõ tính đa dạng,
mn hình mn vẻ của sự vận động lịch sử. Nó sẽ giúp chúng ta hình dung một cách khái
quát những nét đặc trưng lớn của từng thời kỳ, từng giai đoạn mà chúng ta quan tâm, cũng
như giúp chúng ta nhìn thấy xu thế tiến lên của sự vận động lịch sử và tin tưởng vào sự
thắng lợi tất yếu của sự nghiệp cách mạng chúng ta. Yêu cầu giảng dạy lịch sử địi hỏi các
thầy, cơ giáo lịch sử phải hiểu những nguyên tắc chỉ đạo việc phân kỳ lịch sử để có thể tự
mình xác định tinh thần của nội dung bài giảng.
Phân kỳ lịch sử theo chủ nghĩa Mác-Lênin là sự kết hợp một cách chặt chẽ, nhuần nhuyễn
phương pháp logic và phương pháp lịch sử. Khi tiến hành phân chia các thời kỳ và giai đoạn
lịch sử phải có một cái nhìn tổng qt, phải phân tích được mối quan hệ logic của các sự
kiện, hiện tượng để tìm ra cái bản chất chung của các giai đoạn lịch sử ở các dân tộc khác
nhau. Chỉ có sự kết hợp chặt chẽ như vậy của hai phương pháp lịch sử và logic mới cho
chúng ta một cách phân kỳ lịch sử đúng đắn, hợp lý. Như vậy trong nghiên cứu và giảng dạy
lịch sử, chúng ta mới cung cấp cho người đọc, người học bức tranh sinh động cụ thể một
cách khách quan, khoa học. 'Nhờ phân kỳ lịch sử đúng đắn và hợp lý, chúng ta có thể cung
cấp cho người đọc, người học bức tranh sinh động, cụ thể một cách khách quan, khoa học
trong quá trình nghiên cứu và giảng dạy lịch sử.'
Phân kỳ lịch sử phản ánh một trình độ nhận thức nhất định về tiến trình phát triển khách
quan của xã hội loài người. Phân kỳ lịch sử là khoa học, là nhận thức chân lý khách quan.
Phân kỳ lịch sử phải phản ánh đúng đắn sự phát triển của hiện thực khách quan. Đồng thời,
phân kỳ lịch sử cũng thể hiện quan điểm, tính chất, mục đích nghiên cứu, hoạt động của nhà
nghiên cứu lịch sử.
Việc phân chia các thời kỳ và giai đoạn lịch sử không phải là một việc làm tùy tiện, chủ
quan mà phải được xây dựng trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin và bám chắc nhiệm vụ chân
chính của khoa học lịch sử. Phân kỳ lịch sử đánh dấu một chặng đường phát triển của khoa
học lịch sử và mở ra những triển vọng mới để đi sâu hơn vào lịch sử.
3) Ý nghĩa của việc phân kỳ lịch sử trong sử học Marxist.
*Ý nghĩa khoa học:
Phân kỳ lịch sử trong sử học Marxist giúp chúng ta thấy rõ tính quy luật thống nhất của thế
giới. Khơng chỉ vậy, nó cịn giúp chúng ta thấy rõ tính đa dạng, mn hình mn vẻ của sự
vận động lịch sử.
Phân kỳ lịch sử trong sử học Marxist cũng thể hiện quan điểm, tinh chất, mục đích nghiên
cứu, hoạt động của nhà nghiên cứu lịch sử. Phân kỳ lịch sử là sản phẩm của sự phát triển
cao của sử học và xã hội học. Nó phản ánh một trình độ nhận thức nhất định định về tiến
trình phát triển khách quan của xã hội lồi người. Chính vì vậy, phân kỳ lịch sử là khoa học,
là nhận thức chân lý khách quan.8
Phân kỳ lịch sử đánh dấu một chặn đường phát triển của khoa học lịch sử và mở ra những
triển vọng mới để đi sâu hơn vào lịch sử.
*Ý nghĩa thực tiễn:
Về mặt thực tiễn, phân kỳ lịch sử trong sử học Marxist giúp cho người đọc, người học lịch
sử có thể hình dung về lịch sử một cách khách quan và khoa học.
Hiểu biết về vấn đề phân kỳ lịch sử giúp cho người giảng dạy, người nghiên cứu lịch sử thể
hiện được rõ ràng nội dung mà bản thân muốn đề cập đến.
Sự phân kỳ lịch sử là một vấn đề quan trọng của phương pháp luận sử học và có ý nghĩa
thực tiến lớn. Bởi vì sự phân kỳ lịch sử không chỉ để nhận thức sự phát triển của xã hội loài
người và dân tộc qua các thời kỳ, giai đoạn khác nhau, mà còn để thấy được sự phát triển
trong tương lai của xã hội.
4. Quan điểm phân kỳ lịch sử
4.1 Quan Điểm phân kỳ lịch sử của trường phái sử học phi Mác-xit
Trong xu hướng phát triển chung của thế giới ngày nay, sử học thế giới cũng ngày càng xích
lại gần nhau để cùng tìm ra sự thực lịch sử và hướng tới tương lai. Sử học mácxít trong
những năm 50 - 70 của thế kỉ XX cũng phát triển ở các nước tư bản, đế quốc, các nước độc
lập dân tộc. Cuộc đấu tranh chống các khuynh hướng sử học phi mácxít đã diễn ra gay go,
phức tạp, song sử học mác xít cũng tỏ rõ sức mạnh, ưu thế của mình. Vì vậy những cuộc
gặp gỡ, trao đổi giữa các nhà sử học là điều kiện cần thiết cho sự hiểu biết, giúp đỡ nhau
trong nghiên cứu và giáo dục lịch sử. Phải biết trân trọng và tự hào với truyền thông dân tộc,
với những thành tựu nghiên cứu, biên soạn lịch sử của cha ông ta để lại mà chúng ta đã
được kê thừa và phát triển. Phải công bằng và công minh trong việc đánh giá và tiếp tục
những thành tựu sử học của loài người đạt được từ thời cổ đại, phong kiến, tư bản và ở các
nước xã hội chủ nghĩa được hình thành.
Sự chuyển biến nhận thức lịch sử thời Phục hưng thể hiện rõ ở quan niệm về sự biến chuyển
của lịch sử, chống lại quan điểm của nhiều nhà khoa học còn cho thế giới là bất di bất dịch
và xã hội chuyển động theo vòng tròn. Nhà sử học Guicciardini (1483 - 1540), trong “Bút kí
về những cơng việc chính trị và dân sự”, đã viết: “Các sự kiện của quá khứ soi sáng cho
tương lai, bởi vì thế giới bao giờ cũng là một, tất cả những gì đang có và sẽ có đã tồn tại ở
một thời gian khác, cịn cái gì đã qua sẽ được lặp lại dưới những tên gọi và những hình thức
khác, nhưng khơng phải bất cứ ai cũng có thể nhận biết được nó mà chỉ có những nhà thông
thái đã quan sát và suy nghĩ một cách kỹ lưỡng mới có thể nhận ra”. Chống lại các quan
điểm phi lịch sử như trên, dần dần đã xuất hiện những tư tưởng về sự phát triển theo thời
gian, về tính biến đổi của thế giới.
Dù có nhiều điểm khác nhau, tùy trường phái, nhưng có điểm chung trong các lý thuyết
phân kỳ lịch sử của các trường phái sử học phi mác xít là họ khơng thừa nhận tính quy luật
khách quan trong sự phát triển của xã hội lồi người và phủ nhận học thuyết hình thái kinh
9
tế – xã hội của chủ nghĩa Mác – Lênin. Từ đó mà, hoặc vơ tình hoặc hữu ý, họ đã sa vào chủ
nghĩa duy tâm trong vấn đề phân kỳ lịch sử. Điển hình cho trường hợp này là quan điểm của
nhà sử học Đức F. San- cơ. Theo ơng, phân kỳ lịch sử là q trình tự phân định của con
người, một q trình mang tính hệ tư tưởng, phản ánh sự xung đột của những quan điểm
khác nhau về lịch sử. F San- cơ đã viện dẫn ra sự phát sinh khái niệm “Chủ nghĩa nhân đạo”
(Humanism) và sự tồn tại của thời đại nhân văn, làm ví dụ. Khái niệm “Chủ nghĩa nhân
đạo” (hoặc nhân văn) xuất hiện bên cạnh khái niệm “Thời trung cổ” đã tạo nên mối tương
quan của nó với “Thời Cổ đại”. Nhận thức các quan hệ thông qua sự phân chia – đó là cơ sở
lý luận phân kỳ lịch sử theo quan điểm của F. San- cơ.
Khác với F. San- cơ, một lý thuyết phân kỳ lịch sử khác trong giới Sử học và xã hội học
phương Tây lại dựa trên sự tương tự hay loại suy (analogic) một cách máy móc khi xem xét
các sự kiện diễn ra trong các thời kỳ lịch sử khác nhau. Điển hình cho lý thuyết này là các
quan điểm của Oswald Spengler và Arnold J. Toynbee. Chẳng hạn, Arnold J. Toynbee xem
xét tiến trình lịch sử như là sự thay thế của các nền văn minh (Civilizations) khơng có quan
hệ gì với nhau và dường như độc lập với nhau. Với Arnold J. Toynbee, “Văn minh là những
đơn vị khảo sát có thể quan niệm được”. Ông chia lịch sử thế giới thành mấy chục nền văn
minh khác nhau, mà tương quan giữa chúng được xem xét chủ yếu trong sự khác nhau về
các quan điểm tôn giáo. Tất cả các nền văn minh đó hầu như khơng có quan hệ với nhau xét
trên bình diện khơng gian và thời gian. Việc chống chủ nghĩa lịch sử ở Arnold J. Toynbee
thể hiện rõ rệt nhất ở việc ơng hồn tồn coi thường vấn đề niên đại và quan điểm lịch đại.
Xáo trộn, lẫn lộn các thời đại lịch sử, thực chất Arnold J. Toynbee đã xuất phát từ sự kiến
giải mang tính thần học về lịch sử. Chính vì vậy mà ngay cả các nhà sử học phương Tây vốn
bác bỏ tính quy luật trong phân kỳ lịch sử, cũng đã không thể tán đồng các quan điểm trên
đây của Arnold J. Toynbee.
Ngày nay, ngoài Arnold J. Toynbee, thuộc trường phái tiếp cận lịch sử theo nền văn minh,
người ta ngày càng hay nhắc đến tên tuổi của Alvin Toffler. Toffler đã chia lịch sử loài
người thành ba thời kỳ tương ứng với ba nền văn minh là: Văn minh Nông nghiệp (hay tiền
công nghiệp), Văn minh Công nghiệp, Văn minh Hậu cơng nghiệp (hay văn minh trí tuệ).
Cần lưu ý rằng, phương pháp tiếp cận lịch sử theo các nền văn minh có những ưu điểm của
nó rất đáng được quan tâm nghiên cứu. Không phải ngẫu nhiên mà bắt đầu từ nửa sau thập
niên 90 trở đi môn “Lịch sử văn minh thế giới” (phương Đông và phương Tây) đã được
chính thức đưa vào giảng dạy ở nhiều trường đại học của Việt Nam. Tuy nhiên, cũng lại cần
lưu ý rằng, chúng ta không thể tán đồng việc tiếp thu phương pháp tiếp cận lịch sử theo nền
văn minh để thay thế hoặc phủ nhận phương pháp tiếp cận hình thái kinh tế – xã hội. Việc
giới Sử học theo trường phái phi mác xít đề cao phương pháp tiếp cận theo nền văn minh
không phải là ngẫu nhiên. Họ muốn dùng nó để phủ nhận phương pháp tiếp cận lịch sử theo
hình thái kinh tế – xã hội của chủ nghĩa Mác – Lênin. Rùm beng nhất gần đây trong thập
niên 90 là quan điểm của Samuel P. Huntington về cái gọi là “Sự va chạm giữa các nền văn
minh” đã chứng minh điều đó. Dễ hiểu là họ sợ, bởi học thuyết của Mác và Lênin đã chỉ ra
hết sức thuyết phục và đúng đắn tính quy luật phổ biến trong sự phát triển của nhân loại,
10 các hình thái kinh tế – xã hội kế tiếp nhau từ thấp đến
trong sự thay thế hợp quy luật của
cao, theo đó, chủ nghĩa tư bản hiện đại ngày nay cũng không phải là đỉnh cao của văn minh
nhân loại; không phải là mùa xuân mà nhân loại sẽ vĩnh viễn dừng lại ở đó, mà nó sẽ tất yếu
bị thay thế bởi một hình thái kinh tế – xã hội cao hơn và đó là hình thái kinh tế – xã hội
Cộng sản chủ nghĩa. Vấn đề chỉ là thời gian và phương thức thay thế mà thôi.
4.2 Quan điểm của sử học Mác-xit
11
Quan phân kỳ lịch sử của trường phái sử học Mác-xít
12
13
Đối với trường phái Sử học Marxist, phân kỳ lịch sử là việc xác định thực chất nội dung cơ
bản của các thời kỳ, giai đoạn hình thành và phát triển của tiến trình lịch sử đặc trưng cho
một dân tộc, một quốc gia, một khu vực hay toàn thể xã hội lồi người nói chung.
14
Những ý kiến đầu tiên về phân kỳ lịch sử trong sử học Marxist được nhắc đến trong tác
phẩm “Hệ tư tưởng Đức” xuất bản 1846, Marx và Engels đã chia lịch sử lồi người thành
những hình thức sở hữu nối tiếp nhau từ “thị tộc ”, “cổ đại”, sang “phong kiến”, “tư bản”.
Và sau nhiều năm nghiên cứu sâu hơn những nhân tố chi phối sự phát triển của xã hội loài
người, Marx đã lấy “phương thức sản xuất” làm tiêu chí phân kỳ lịch sử lồi người. Lần đầu
tiên vấn đề lịch sử kinh tế và trình độ phát triển của sản xuất vật chất trong cơ sở của việc
phân kỳ tồn bộ q trình lịch sử được Marx và Engels đặt ra.
15
16
Trong “Lời nói đầu” của tác phẩm “Phê phán khoa kinh tế – chính trị” xuất bản năm 1859,
Marx đã viết như sau: “Tôi xem xét sự phát triển của một hình thái kinh tế – xã hội như xem
xét một q trình lịch sử tự nhiên”.Sau đó đến năm 1881, trong bản thảo thứ ba của bức thư
gửi V.Datxuhit , ơng nói rõ hơn về các hình thái “thứ hai” (tức là sau thời kỳ nguyên thuỷ) là
có ba thời kỳ phát triển của xã hội loài người: xã hội chiếm hữu nô lệ, xã hội phong kiến và
xã hội tư bản chủ nghĩa.
17
18
Quan điểm của Marx-Engels lấy “cơ sở kinh tế ” và sau đó là “phương thức sản xuất” và
“hình thái kinh tế – xã hội” làm tiêu chí cơ bản để phân kỳ lịch sử xã hội loài người đã được
giới sử học marxist sau nầy thừa nhận.
19
20
Mặc dù cịn những điểm khác nhau nhưng nhìn chung giới sử học và xã hội học hầu như
thừa nhận “hình thái kinh tế – xã hội ” là tiêu chí cơ bản của phân kỳ lịch sử xã hội lồi
người. Nội dung của những thời đại đó có thể quy ước theo “cổ đại ”, “trung đại ”, “cận đại
”, “hiện đại ” ứng với những hình thái kinh tế – xã hội kế tiếp nhau trong lịch sử.
21
22
Trong phân kỳ còn phải chú ý đến việc phân chia giai đoạn lịch sử. Việc phân chia giai đoạn
lịch sử này là một bộ phận của phân kỳ lịch sử chung .
23
24
Vấn đề phân chia giai đoạn cũng không đơn giản, cũng như việc phân kỳ lịch sử chung, nó
phải lấy cơ sở kinh tế hay phương thức sản xuất làm tiêu chí. Trong trường hợp này, việc
phân kỳ phải xuất phát từ sự hiểu và đánh giá đúng đặc điểm chủ yếu của phương thức sản
xuất hay hình thái kinh tế – xã hội cần phân tích. Bên cạnh tiêu chí kinh tế, tiêu chí “đấu
tranh giai cấp” cũng mang ý nghĩa rất quan trọng, nhất là khi xác định mốc đánh dấu giai
đoạn suy vong của hình thái kinh tế xã hội.
25