TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI NGỮ - TIN HỌC
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT
TIỂU LUẬN HỌC PHẦN
ĐẠI CƯƠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM
TÊN ĐỀ TÀI TIỂU LUẬN:
Câu 1: Vi phạm pháp luật của sinh viên hiện nay. Những vấn đề lý luận và thực
tiễn.
Câu 2: Xây dựng một tình huống pháp luật và phân tích các yếu tố cấu thành
của vi phạm pháp luật.
Giáo viên hướng dẫn
:
Sinh viên thực hiện
:
MSSV
:
Lớp
:
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2021
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI NGỮ - TIN HỌC
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT
TIỂU LUẬN HỌC PHẦN
ĐẠI CƯƠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM
TÊN ĐỀ TÀI TIỂU LUẬN:
Câu 1: Vi phạm pháp luật của sinh viên hiện nay. Những vấn đề lý luận và thực
tiễn.
Câu 2: Xây dựng một tình huống pháp luật và phân tích các yếu tố cấu thành của vi
phạm pháp luật.
Giáo viên hướng dẫn
Sinh viên thực hiện
MSSV
Lớp
:
:
:
:
TS. Phạm Hoàng Linh
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của cá nhân tôi và được sự hướng dẫn khoa
học của TS. Phạm Hoàng Linh. Các nội dung nghiên cứu trong đề tài “Câu 1: Vi phạm pháp
luật của sinh viên hiện nay. Những vấn đề lý luận và thực tiễn. Câu 2: Xây dựng một tình
huống pháp luật và phân tích các yếu tố cấu thành của vi phạm pháp luật.” của tôi là trung
thực và chưa công bố dưới bất kỳ hình thức nào trước đây. Các kết quả, số liệu trong đề tài là
trung thực và hoàn toàn khách quan, được thu thập từ các nguồn khác nhau, có ghi rõ nguồn
gốc. Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm về nội dung bài
tiểu luận của mình.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày 30 tháng 12 năm 2021
Sinh viên
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU............................................................................................................................1
NỘI DUNG........................................................................................................................1
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VI PHẠM PHÁP
LUẬT CỦA SINH VIÊN HIỆN NAY..............................................................................1
1. Những vấn đề lý luận về vi phạm pháp luật...............................................................1
1.1 Khái niệm vi phạm pháp luật....................................................................................1
1.2 Cấu thành vi phạm pháp luật....................................................................................2
1.2.1 Mặt khách quan của vi phạm pháp luật................................................................3
1.2.2 Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật....................................................................3
1.2.3 Chủ thể......................................................................................................................4
1.2.4 Khách thể..................................................................................................................5
1.3 Các loại vi phạm pháp luật........................................................................................5
1.3.1 Vi phạm hình sự.......................................................................................................5
1.3.2 Vi phạm hành chính.................................................................................................5
1.3.3 Vi phạm dân sự.........................................................................................................6
1.3.4 Vi phạm kỷ luật........................................................................................................6
2. Thực tiễn vấn đề vi phạm pháp luật của sinh viên hiện nay.....................................6
2.1 Thực trạng vi phạm pháp luật của sinh viên hiện nay............................................6
2.1.1 Một số ưu điểm.........................................................................................................6
2.1.2 Những tồn tại, hạn chế.............................................................................................7
2.1.3 Nguyên nhân dẫn tới vi phạm pháp luật của sinh viên hiện nay.........................8
2.2 Một số giải pháp để khắc phục tình trạng vi phạm pháp luật của sinh viên hiện
nay......................................................................................................................................9
CHƯƠNG II: XÂY DỰNG TÌNH HUỐNG PHÁP LUẬT VÀ PHÂN TÍCH CÁC
YẾU TỐ CẤU THÀNH CỦA VI PHẠM PHÁP LUẬT..............................................10
1. Tình huống...................................................................................................................10
2. Các yếu tố cấu thành của vi phạm pháp luật...........................................................10
2.1 Chủ thể.......................................................................................................................10
2.2 Khách thể...................................................................................................................10
2.3 Mặt khách quan........................................................................................................10
2.4 Mặt chủ quan.............................................................................................................11
KẾT LUẬN......................................................................................................................11
TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................................11
MỞ ĐẦU
Trong xã hội ta, pháp luật thể hiện ý chí của nhân dân, đem lại hạnh phúc cho nhân dân, nên
các quy định của pháp luật được đông đảo nhân dân tôn trọng và tự giác thực hiện nghiêm
minh. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong xã hội vẫn còn nhiều hiện tượng vi
phạm pháp luật, xâm hại đến các lợi ích vật chất và tinh thần của nhà nước, của xã hội và của
nhân dân. Thời gian qua, các lực lượng chức năng của tỉnh đã nỗ lực thực hiện nhiều giải pháp
nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho người dân. Ở nước ta, thanh niên chiếm khoảng hơn
20% trong cơ cấu dân số. Đây là thế hệ sẽ kế thừa sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc,
lớp người xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Trong những năm qua Đảng và nhà Nước đã
có nhiều nỗ lực để phổ biến, giáo dục pháp luật cho sinh viên Việt Nam. Tuy nhiên, thực tế hiện
nay ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận thanh, thiếu niên trẻ, nhất là thế hệ sinh viên
còn nhiều vấn đề cần phải lưu tâm.
Những hành vi vi phạm pháp luật của sinh viên hiện nay là những hành vi nguy hiểm, tác
động tiêu cực đến các mặt của đời sống xã hội. Do vậy, việc nghiên cứu vấn đề vi phạm pháp
luật, đặc biệt là biết phân tích các yếu tố cấu thành của vi phạm pháp luật sẽ có ý nghĩa rất lớn
trong việc góp phần đề ra những biện pháp hữu hiệu để đấu tranh phòng và chống vi phạm pháp
luật trong xã hội. Xuất phát từ lý do này, tôi quyết định chọn đề tài: “Câu 1: Vi phạm pháp
luật của sinh viên hiện nay. Những vấn đề lý luận và thực tiễn. Câu 2: Xây dựng một tình
huống pháp luật và phân tích các yếu tố cấu thành của vi phạm pháp luật.” để làm chủ đề
tiểu luận của mình.
1
NỘI DUNG
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ VI PHẠM PHÁP LUẬT
CỦA SINH VIÊN HIỆN NAY
1. Những vấn đề lý luận về vi phạm pháp luật
1.1 Khái niệm vi phạm pháp luật
Vi phạm pháp luật là hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật, do người có năng lực trách
nhiệm pháp lý thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm hại hoặc đe doạ xâm hại đến các quan hệ
xã hội được nhà nước xác lập và bảo vệ. Vi phạm pháp luật là một loại sự kiện pháp lý và là cơ
sở để truy cứu trách nhiệm pháp lý. Nó có những dấu hiệu cơ bản sau:
Thứ nhất: Vi phạm pháp luật luôn là hành vi xác định của các chủ thể pháp luật. Bởi vì các
quy định của pháp luật được Nhà nước đặt ra là để nhằm điều chỉnh hành vi của các chủ thể
pháp luật. Hành vi đó có thể là xử sự của con người được thể hiện dưới dạng hành động hoặc
không hành động.
Thứ hai: Vi phạm pháp luật không những là hành vi xác định của con người mà hành vi đó
phải trái với các quy định của pháp luật, xâm hại tới các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ.
Hành vi trái pháp luật là hành vi không phù hợp với quy định của pháp luật như khơng thực
hiện những gì mà pháp luật yêu cầu hoặc sử dụng quyền hạn vượt quá giới hạn mà pháp luật
cho phép.
Thứ ba: Vi phạm pháp luật là hành vi trái pháp luật nhưng hành vi trái pháp luật đó phải chứa
đựng lỗi của chủ thể của hành vi. Để xác định hành vi vi phạm pháp luật phải xem xét cả mặt
chủ quan của hành vi, tức là xác định lỗi của học, biểu hiện trạng thái tâm lý của người thực
hiện hành vi đó. Trạng thái tâm lý có thể là cố ý hay vô ý. Lỗi là yếu tố không thể thiếu được để
xác định hành vi vi phạm pháp luật và lỗi cũng là cơ sở để xác định trách nhiệm pháp lý đối với
chủ thể của hành vi vi phạm pháp luật.
2
Thứ tư: Hành vi trái pháp luật đó do chủ thể có năng lcự hành vi thực hiện. Người có năng
lực hành vi là người có khả năng nhận thức, điều khiển được hành vi, việc làm của mình và
chịu trách nhiệm về hành vi của mình đã thực hiện.
Vi phạm trong lĩnh vực bảo vệ môi trường là những hành vi vi phạm các quy định quản lý nhà
nước trong lĩnh vực bảo vệ môi trường do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý.
1.2 Cấu thành vi phạm pháp luật
Khái niệm: Là tổng thể các dấu hiệu cơ bản đặc thù cho một loại vi pháp pháp luật cụ thể,
được nhà nước quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật, do các cơ quan nhầ nước có
thẩm quyền ban hành. Mọi vi phạm pháp luật đều có cấu thành pháp lý của nó, Tất cả các dấu
hiệu trên hợp thành bốn yếu tố của khái niệm “cấu thành vi phạm pháp luật” đó là:
1.2.1 Mặt khách quan của vi phạm pháp luật
Mặt khách quan của vi phạm pháp luật là toàn bộ những dấu hiệu bên ngồi của nó, gồm hành
vi vi phạm pháp luật, hậu quả của hành vi và mối quan hệ nhân quả giữa chúng. Vi phạm pháp
luật trước hết là hành vi thể hiện bằng hành động hoặc không hành động. Mọi hành vi trái pháp
luật đều là hành vi xâm phạm trật tự pháp luật, gây thiệt hại cho xã hội hoặc thiệt hại trực tiếp
cho từng thành viên của xã hội, nhưng ở những mức độ khác nhau và đều nguy hại chung cho
xã hội.
Dấu hiệu cần thiết trong mặt khách quan của vi phạm pháp luật là tồn tại quan hệ nhân quả
giữa hành vi và hậu quả của nó; nói cách khác, thiệt hại cho xã hội xảy ra là do kết quả tất yếu
của hành vi trái pháp luật. Dấu hiệu này là căn cứ cần thiết trong việc áp dụng các biện pháp
trách nhiệm pháp lý đối với nhiều loại vi phạm pháp luật cụ thể gây thiệt hại trực tiếp cho xã
hội và công dân. Trong nhiều trường hợp, để xác định mặt khách quan của vi phạm pháp luật
làm cơ sở cho việc truy cứu trách nhiệm pháp lý một cách phù hợp, cần phải tính đến các yếu tố
như thời gian, địa điểm xảy ra vi phạm và cách thức thực hiện vi phạm đó.
1.2.2 Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật
Mặt chủ quan của vi phạm pháp luật gồm yếu tố lỗi và các yếu tố có liên quan đến lỗi là
3
động cơ, mục đích của chủ thể thực hiện vi phạm pháp luật. Như vậy, lỗi là trạng thái tâm
lý phản ánh thái độ tiêu cực của chủ thể đối với hành vi trái pháp luật của mình, cũng như
đối với hậu quả của hành vi đó, tại thời điểm thực hiện hành vi đó.
Lỗi được thể hiện dưới hai hình thức: cố ý và vơ ý. Lỗi cố ý có thể là cố ý trực tiếp và cố
ý gián tiếp. Lỗi vơ ý có thể là vơ ý do quá tự tin hoặc vô ý do cẩu thả.
Lỗi cố ý trực tiếp: chủ thể vi phạm nhận thấy trước hậu quả thiệt hại cho xã hội do hành
vi của mình gây ra, nhưng mong muốn điều đó xảy ra.
Lỗi cố ý gián tiếp: chủ thể vi phạm nhận thấy trước hậu quả thiệt hại cho xã hội do hành
vi của mình gây ra, tuy khơng mong muốn nhưng để mặc cho nó xảy ra.
Lỗi vơ ý do q tự tin: chủ thể vi phạm nhận thấy trước hậu quả thiệt hại cho xã hội do
hành vi của mình gây ra, nhưng tin tưởng rằng điều đó khơng xảy ra.
Lỗi vô ý do cẩu thả: chủ thể vi phạm do khinh suất, cẩu thả mà không nhận thấy trước
hậu quả thiệt hại cho xã hội do hành vi của mình gây ra, mặc dù có thể nhận thấy và cần
phải nhận thấy trước.
Qua đó, dấu hiệu để phân biệt các yếu tố lỗi là:
- Khả năng nhận thức về mức độ nguy hiểm của hành vi (1)
- Mức độ mong muốn hay không mong muốn hậu quả xảy ra (2).
Lỗi
Cố ý
Vơ ý
Phân loại
Nhận thức (1)
Mong muốn (2)
1. Trực tiếp
Có
Có
2. Gián tiếp
Có
Khơng, để mặc
Có
Tin rằng khơng
Khơng
Khơng
3. Tự tin
4. Cẩu thả
- Động cơ vi phạm pháp luật: là những nguyên nhân bên trong (các nhu cầu cần thoả
mãn) thúc đẩy chủ thể vi phạm pháp luật.
- Mục đích vi phạm pháp luật: là những mục tiêu mà chủ thể cần đạt tới khi thực hiện
hành vi vi phạm pháp luật.
4
Trong các yếu tố trên, mục đích và động cơ khơng là yếu tố bắt buộc phải có trong tất cả
các hành vi vi phạm pháp luật. Động cơ, mục đích chỉ đặt đối với trường hợp vi phạm với
lỗi cố ý. Ngược lại, lỗi là yếu tố duy nhất, bắt buộc phải hiện diện trong tất cả loại các
hành vi vi phạm pháp luật. Tuy nhiên mức độ của lỗi thì tuỳ từng ngành luật để xem
xét. Thậm chí, trong vi phạm pháp luật hành chính, khi truy cứu đối với một số hành vi,
cũng không cần xem xét mức độ lỗi là: lỗi cố ý hay lỗi vô ý. Ví dụ: Hành vi vượt đèn đỏ.
1.2.3 Chủ thể
Đó là cá nhân hoặc tổ chức thực hiện vi phạm pháp luật. Hành vi trái pháp luật có lỗi mới là
vi phạm pháp luật, vì vậy, chủ thể của vi phạm pháp luật phải là người có năng lực hành vi (tổ
chức thì bao giờ cũng có năng lực hành vi). Năng lực hành vi trách nhiệm pháp lý của con
người phụ thuộc vào độ tuổi, tình trạng sức khoẻ (có bị bệnh làm mất hoặc hạn chế khả năng
nhận thức về hành vi của mình hay khơng) và tuỳ theo từng loại trách nhiệm pháp lý năng lực
hành vi đó được pháp luật quy định cụ thể. Như vậy, các yếu tố cấu thành và các dấu hiệu nói
trên của vi phạm pháp luật là căn cứ thực tế để truy cứu trách nhiệm pháp lý.
1.2.4 Khách thể
Khách thể của vi phạm pháp luật là các quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh và bảo vệ bị
hành vi vi phạm pháp luật xâm hại tới và gây ra các thiệt hại hoặc đe dọa trực tiếp gây thiệt hại.
Ví dụ: quyền sở hữu tài sản hợp pháp; quyền được bảo đảm an tồn tín mạng, sức khoẻ... Trong
khi đó, đối tượng là những vật chất cụ thể, bị hành vi vi phạm trực tiếp xâm hại. Ví dụ: tài sản,
mạng sống con người...
Tóm lại, mọi hành vi vi phạm pháp luật đều là sự kiện pháp lý, gây nên những hậu quả pháp
lý nhất định. Nó có thể dẫn đến việc xuất hiện, thay đổi hoặc đình chỉ những quan hệ pháp luật
nhất định. Vi phạm pháp luật là cơ sở truy cứu trách nhiệm pháp lý.
5
1.3 Các loại vi phạm pháp luật
1.3.1 Vi phạm hình sự
Vi phạm hình sự (Tội phạm) là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật
hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm
phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính
trị, chế độ kinh tế... xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật
xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, tội phạm là những hành vi xâm phạm tới những quan hệ xã hội quan trọng nhất do
những quy phạm luật hình sự điều chỉnh. Chủ thể của vi phạm hình sự (tội phạm) ln là các cá
nhân cụ thể. Chủ thể tội phạm không thể là pháp nhân
1.3.2 Vi phạm hành chính
Vi phạm hành chính cũng là những hành vi nguy hại cho xã hội, nhưng khác với tội phạm ở
mức độ nguy hiểm cho xã hội và thiệt hại cho xã hội do nó gây nên. Vi phạm hành chính là
hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm các quy tắc quản lý
nhà nước mà không phải là tội phạm hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt
hành chính.
1.3.3 Vi phạm dân sự
Vi phạm dân sự là những hành vi nguy hại cho xã hội xâm phạm tới những quan hệ tài sản và
những quan hệ nhân thân phi tài sản có liên quan với chúng trong lĩnh vực hợp đồng hoặc
ngoài hợp đồng. Trách nhiệm do vi phạm pháp luật dân sự được quy định bởi các quy phạm
pháp luật của Luật dân sự và một số ngành luật khác như Luật hơn nhân và gia đình, Luật đất
đai, Luật hợp tác xã.
Vi phạm dân sự thể hiện ở việc không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ các nghĩa vụ
trong hợp đồng và các nghĩa vụ ngoài hợp đồng, gây thiệt hại tài sản cho nhà nước, cơ quan nhà
nước, tổ chức xã hội hoặc công dân, hoặc trong việc ký kết các giao kèo có mục đích trái pháp
6
luật... Xuất phát từ tính chất của vi phạm dân sự, pháp luật dân sự quy định trách nhiệm dân sự
là nhằm phục hồi những quan hệ đã bị vi phạm, nhằm thực hiện những nghĩa vụ chưa được
thực hiện.
1.3.4 Vi phạm kỷ luật
Vi phạm kỷ luật là những hành vi xâm hại tới chế độ kỷ luật lao động, kỷ luật công vụ, kỷ luật
học tập, kỷ luật quân sự..., gây thiệt hại cho hoạt động bình thường của các cơ quan nhà nước,
tổ chức kinh tế, đơn vị sự nghiệp, trường học và những tổ chức công khác. Vi phạm kỷ luật thể
hiện ở chỗ người vi phạm không tôn trọng kỷ luật nhà nước, quy chế nội bộ cơ quan, tổ chức.
2. Thực tiễn vấn đề vi phạm pháp luật của sinh viên hiện nay
2.1 Thực trạng vi phạm pháp luật của sinh viên hiện nay
2.1.1 Một số ưu điểm
Hiện nay trong các hoạt động của pháp luật, ý thức của sinh viên Việt Nam đã nâng lên. Sự
hiểu biết về pháp luật của sinh viên đã biểu hiện rõ nét, sinh viên ý thức được trách nhiệm,
quyền hạn của mình đối với nhà nước thơng qua pháp luật do đó họ tích cực tham gia vào các
hoạt động để thực hiện quyền lợi hợp pháp của mình.
2.1.2 Những tồn tại, hạn chế
Theo thống kê của các cơ quan pháp luật gần đây cho thấy rằng tình hình vi phạm pháp luật
của thanh niên, sinh viên ngày càng tăng. Các loại vi phạm pháp luật không chỉ tăng về số
lượng mà chủ thể và tính chất nguy hiểm của vụ việc cũng tăng lên. Đáng báo động là tình trạng
vi phạm pháp luật của thanh niên diễn ra ở nhiều lĩnh vực của đời sống như: kinh tế, xã hội, an
ninh trật tự, văn hóa…. Theo số liệu của Cục cảnh sát điều tra tội phạm hình sự – Bộ Công An,
chỉ riêng trong 5 năm (2000 – 2005) thực hiện đề án 4 Đấu tranh phòng chống tội phạm xâm hại
trẻ em và phạm tội trong lứa tuổi vị thành niên thuộc Chương trình quốc gia phòng chống tội
phạm, đã phát hiện 47.000 vụ vi phạm pháp luật hình sự do 64.500 người trong độ tuổi vị thành
niên gây ra. Trong đó, đối tượng từ 16 – 18 tuổi chiếm 52%. Phạm tội giết người có 616 người,
chiếm 1,3%; phạm tội cướp, cưỡng đoạt, cướp giật có 5169 người, chiếm 11%; phạm tội trộm
7
cắp tài sản có 30.235 người, chiếm 64,3%; phạm tội cố ý gây thương tích, gây mất trật tự cơng
cộng có 10.188 người, chiếm 21,6%.
Thực tế cho thấy, thời gian gần đây trên địa bàn các tỉnh, tình trạng thanh, thiếu niên nói
chung và học sinh, sinh viên nói riêng vi phạm pháp luật diễn ra khá phổ biến, thậm chí có xu
hướng gia tăng, gây ảnh hưởng khơng nhỏ đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Đáng
chú ý là tình trạng bạo lực học đường có dấu hiệu phức tạp với những vụ việc có tính chất, mức
độ nghiêm trọng, gây bức xúc trong xã hội. Sự việc hai nhóm nữ sinh của trường Trung tâm
giáo dục nghề nghiệp - giáo dục thường xuyên huyện Hoa Lư gồm khoảng 50 dùng dao, gậy,
túyp sắt và mũ bảo hiểm để đánh nhau giải quyết mâu thuẫn trên đê Hoàng Long xảy ra chiều
ngày 12/9 vừa qua, trong q trình xơ xát, một trong số đối tượng trên đã bị nữ sinh sinh năm
2005 gây thương tích phải điều trị tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh, khiến dư luận khơng khỏi phẫn
nộ và bàng hồng. Đáng nói hơn là nhiều học sinh mặc nhiên đứng chứng kiến và quay lại cảnh
đánh nhau, sau đó đưa lên mạng xã hội để chứng tỏ sức mạnh của phe phái, hoặc đơn giản chỉ
để câu like.
Đau xót hơn, có những vụ việc nguyên nhân chỉ vì mâu thuẫn rất nhỏ hoặc trêu đùa quá trớn,
nói "đểu"... mà dẫn tới đánh nhau, thậm chí có những đứa trẻ phải vào tù, hoặc ra đi khi mái đầu
còn xanh, để lại bao ước vọng của tuổi trẻ, nỗi đau cho gia đình và xã hội. Như vụ việc xảy ra
vào ngày 16/12/2020 tại khu vực cổng Trường THPT Nho Quan B. Do mâu thuẫn cá nhân giữa
Bùi Thanh Phong và Phạm Văn Diện tại lớp học ngày 14/12/2020 và khơng thể hịa giải được.
Khoảng 11h30 ngày 16/12/2020, sau khi tan học tại khu vực cổng Trường THPT Nho Quan B,
Phong bị Diện lao vào đánh, Phong đã dùng lưỡi kéo mang đi từ trước đâm vào cổ và vào tay
Diện. Khi thấy Diện bị Phong đánh trả, Vũ Anh Thắng đã lao về phía Diện, tay cầm 1 vật màu
đen dài khoảng 20cm đẩy vào người Diện thì bị Bùi Đồn Quang Huy cầm gậy 3 khúc bằng
kim loại đập vào đầu Thắng. Hậu quả làm Phạm Văn Diện tử vong, Vũ Anh Thắng bị thương ở
đầu. Thời điểm phạm tội các đối tượng này mới chỉ từ 16 đến chưa đủ 18 tuổi và còn đang ngồi
trên ghế nhà trường. Ngày 21/9/2021, Tòa án nhân dân tỉnh đã mở phiên tòa xét xử và tuyên
phạt bị cáo Bùi Thanh Phong (sinh năm 2004) 12 năm tù giam; Bùi Đoàn Quang Huy (sinh năm
8
2002) 15 tháng tù và Vũ Anh Thắng (sinh năm 2004) 12 tháng tù cho hưởng án treo. Có thể
thấy chỉ vì chút mâu thuẫn nhỏ mà đã để lại hậu quả rất lớn.
Bên cạnh đó, tình trạng thanh, thiếu niên, trong đó có học sinh, sinh viên vi phạm pháp luật về
trật tự an tồn giao thơng trên địa bàn cũng đáng lo ngại, nhất là tình trạng lạng lách, đánh
võng, đua xe tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây mất trật tự an tồn giao thơng và tai nạn giao thông
nghiêm trọng. Ngày 21/9/2021, Công an thành phố Ninh Bình đã triệu tập, xử lý một nhóm
thanh, thiếu niên gồm 22 đối tượng đi trên 12 xe mô tô, xe gắn máy thường tụ tập đua xe trên
các tuyến đường. Trong đó, có tới 21 đối tượng trong độ tuổi từ 13 -17 tuổi, thường trú tại thành
phố Ninh Bình và các huyện Yên Khánh, Kim Sơn, Nho Quan, Gia Viễn. Thực tế cho thấy, các
hành vi vi phạm pháp luật trong lứa tuổi thanh, thiếu niên, trong đó có học sinh, sinh viên
khơng cịn là câu chuyện mới, tình trạng bạo lực học đường đã tồn tại từ nhiều năm trước, tuy
nhiên theo thời gian, tính chất, mức độ ngày càng nghiêm trọng và nguy hiểm hơn.
2.1.3 Nguyên nhân dẫn tới vi phạm pháp luật của sinh viên hiện nay
Do phần lớn các đối tượng có hồn cảnh gia đình khó khăn hoặc cha mẹ ly hơn, gia đình
thường xảy ra bạo lực, thiếu sự quan tâm, quản lý giáo dục hoặc bố mẹ nuông chiều con quá
mức. Bên cạnh đó, đây là lứa tuổi có nhiều thay đổi cả về tâm sinh lý, thích thể hiện cái tôi, dẫn
đến những biến đổi về mặt tâm lý. Mặt khác, do việc nhận thức của các em còn hạn chế, thiếu
hiểu biết về pháp luật, việc tiếp cận phim ảnh, trò chơi bạo lực… quá dễ dàng, lại thêm lối sống
thực dụng, đua địi, thích hưởng thụ nên các em rất dễ bị lôi kéo, dụ dỗ thực hiện các hành vi vi
phạm pháp luật.
Bên cạnh đó, trong các tình huống xung đột, các em chưa biết cách giải quyết, dẫn đến hành
vi lệch chuẩn về đạo đức, quan hệ xã hội. Gia đình, nhà trường và xã hội chỉ là một phần, cái
chính là xuất phát từ ý thức chủ quan của cá nhân người thanh niên. Sống trong một môi trường
tốt, được tạo điều kiện hết sức để phát triển nhưng nếu những thanh niên đó cố tình đi lệch lạc
thì điều tất yếu khơng tránh khỏi là gây ra tai họa cho mình và ảnh hưởng nghiêm trọng tới
người bị hại. Do nhận thức về pháp luật cịn hạn chế, cơng tác giáo dục pháp luật chưa thực sự
hiệu quả nên mới dẫn tới việc thanh niên, sinh viên vi phạm pháp luật. Từ điều đó, nhà trường
9
và xã hội cấp thiết phải quan tâm tới việc giáo dục pháp luật cho sinh viên ngay từ lúc mới bắt
đầu những bài học căn bản để ý thức pháp luật có thời gian ngấm sâu vào nhận thức của giới
trẻ.
2.2 Một số giải pháp để khắc phục tình trạng vi phạm pháp luật của sinh viên hiện nay
Do nhận thức về pháp luật cịn hạn chế, cơng tác giáo dục pháp luật chưa thực sự hiệu quả
nên mới dẫn tới việc thanh niên, sinh viên vi phạm pháp luật. Từ điều đó, nhà trường và xã hội
cấp thiết phải quan tâm tới việc giáo dục pháp luật cho sinh viên ngay từ lúc mới bắt đầu những
bài học căn bản để ý thức pháp luật có thời gian ngấm sâu vào nhận thức của giới trẻ. Để làm
tốt cơng tác này ngồi việc giáo dục ở nhà trường thì cần phải có sự kết hợp hài hịa trong giáo
dục gia đình và cộng đồng.
Bên cạnh đó, hệ thống Pháp luật của nước nhà cũng cần phải mạnh mẽ hơn nữa trong việc sử
phạt các hành vi vi phạm pháp luật. Đồng thời cũng cần phát triển hệ thống pháp luật một cách
chặt chẽ, hồn thiện để khơng có những lỗ hổng khiến cho thanh niên bám vào đó mà ngang
nhiên thực hiện hành vi vi phạm của mình. Điều quan trọng là bản thân mỗi sinh viên phải tự ý
thức được hành vi của bản thân, học tập và rèn luyện để nhân cách phát triển một cách lành
mạnh và tồn diện.
CHƯƠNG II: XÂY DỰNG TÌNH HUỐNG PHÁP LUẬT VÀ PHÂN TÍCH CÁC YẾU TỐ
CẤU THÀNH CỦA VI PHẠM PHÁP LUẬT
1. Tình huống
Bà Vũ Thị T. trở về từ vùng có dịch Covid-19 là huyện Hóc Mơn (TP HCM) vào ngày 26-6.
Tuy nhiên, khi đi qua chốt kiểm dịch huyện Đạ Tẻh (đóng tại thơn 4, xã Đạ Kho, huyện Đạ
Tẻh), vì lo sợ phải bị cách ly y tế tập trung 21 ngày theo quy định, nên bà Vũ Thị T và bạn trai
đã khai báo gian dối là vừa đi từ Phương Lâm (Tân Phú, Đồng Nai) đến. Sau đó bà Vũ Thị T.
được cơ quan chức năng địa phương đưa đi cách ly tập trung, lấy mẫu xét nghiệm và phát hiện
dương tính với SARS-CoV-2. Hậu quả của việc khai báo y tế gian dối này đã làm lây lan dịch
bệnh cho ít nhất 4 người khác, cùng đó xuất hiện hàng trăm ca F1, F2 liên quan tại huyện Đạ
10
Tẻh. Đến khi được yêu cầu khai báo y tế, bà Vũ Thị T vẫn tiếp tục viết tờ khai y tế với nội dung
gian dối.
2. Các yếu tố cấu thành của vi phạm pháp luật
2.1 Chủ thể
+ Cá nhân.
+ Có năng lực trách nhiệm pháp lý.
+ Đủ tuổi chịu trách nhiệm pháp lý.
+ Có nhận thức hồn tồn bình thường.
2.2 Khách thể
+ Tính mạng.
+ Sức khỏe con người.
2.3 Mặt khách quan
+ Hành vi: Lây lan dịch bệnh
+ Hậu quả: 4 người bị nhiễm, hàng trăm người khác bị lây.
+ Mối quan hệ nhân quả: Khai báo gian dối làm lây lan dịch bệnh cho ít nhất 4 người khác,
cùng đó xuất hiện hàng trăm ca F1, F2 liên quan.
+ Thời gian: Vào ngày 26-6-2021.
2.4 Mặt chủ quan
+ Lỗi: Cố tình làm lây lan dịch bệnh.
+ Mục đích: Trốn tránh. Vì lo sợ phải bị cách ly y tế tập trung 21 ngày.
11
KẾT LUẬN
Vấn đề vi phạm pháp luật của sinh viên hiện nay luôn là một đề tài rộng lớn đối với chúng ta.
Việc nghiên cứu các yếu tố cấu thành vi phạm pháp luật có ý nghĩa vơ cùng quan trọng trong
quá trình xét xử, phán xét các vi phạm pháp luật xảy ra trong cuộc sống thường ngày. Ta cần
xác định đúng đắn và chính xác các mặt cấu thành vi phạm pháp luật, để từ đó đề ra những biện
pháp chế tài phù hợp với chủ thể vi phạm pháp luật. Để làm tốt cơng tác này ngồi việc giáo
dục ở nhà trường thì cần phải có sự kết hợp hài hịa trong giáo dục gia đình và cộng đồng. Bên
cạnh đó, hệ thống pháp luật của nước nhà cũng cần phải mạnh mẽ hơn nữa trong việc sử phạt
các hành vi vi phạm pháp luật. Đồng thời cũng cần phát triển hệ thống pháp luật một cách hồn
thiện để khơng có những lỗ hổng khiến cho thanh niên bám vào đó mà ngang nhiên thực hiện
hành vi vi phạm của mình. Điều quan trọng là việc mỗi thanh niên, sinh viên phải tự ý thức
được hành vi của bản thân, học tập và rèn luyện để nhân cách phát triển một cách lành mạnh và
toàn diện.
Và trong bài tiểu luận trên, em cũng đã trình bày cụ thể những vấn đề lý luận và thực tiễn về
vi phạm pháp luật của sinh viên hiện nay, từ đó xây dựng một tình huống pháp luật và phân tích
cụ thể các yếu tố cấu thành của vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, do vốn kiến thức và kinh nghiệm
hạn chế nên bài tiểu luận không tránh khỏi những thiếu sót. Em hy vọng sẽ nhận được những
nhận xét, đóng góp của thầy (cơ) giáo giảng dạy bộ mơn để bài tiểu luận được hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] TS. Nguyễn Thị Thanh Thủy, Giáo trình pháp luật đại cương, Nhà xuất bản Giáo dục Việt
Nam
[2] />[3] />12