Chương 4:
THỰC TRẠNG AN NINH TÀI CHÍNH VIỆT
NAMGIAI ĐOẠN 2000-2018
4.1. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH AN NINH TÀI CHÍNH VĨ MƠ Ở
VIỆT NAM QUA CÁC CHỈ TIÊU
4.1.1. Sức mạnh và hoạt động kinh tế
Chỉ tiêu này được đo lường bởi các yếu tố sau:
(1) Mức độ giàu có của người dân:
Đồ thị 4.1: GDP bình quân đầu người của Việt Nam và các quốc gia
trong khu vực (USD)
Nguồn: World Bank
( />PCAP.CD/1ff4a498/Popular-Indicators)
54
Để đo lường mức độ giàu có của người dân người ta thường dùng chỉ
tiêu Chỉ số GDP (Gross Domestic Product). Theo nghiên cứu của Cheng
(2015) và nhiều tác giả khác khi đánh giá “sức mạnh và hoạt động kinh tế”
đã sử dụng chỉ tiêu GDP bình quân đầu người thực như là thước đo sự giàu
có của người dân. Vì vậy, nhóm tác giả sử dụng chỉ tiêu GDP bình quân
thực (thực tế - đã loại bỏ những ảnh hưởng của thay đổi giá cả) trên đầu
người nhằm mục đích so sánh GDP bình qn đầu người theo thời gian và
so sánh sự thịnh vượng của Việt Nam với các quốc gia với quy mô dân số
khác nhau. Trên cơ sở đó, căn cứ trên dữ liệu cơng bố của ngân hàng thế
giới (World Bank) để so sánh, đánh giá mức độ giàu có của Việt Nam với
một số quốc gia trong khu vực và trên thế giới.
Theo dữ liệu công bố của ngân hàng thế giới (World Bank), GDP
bình qn thực tính trên đầu người của Việt Nam tăng nhanh kể từ năm
2000 trở lại đây. Cụ thể, năm 2000 GDP thực bình quân của người Việt
Nam đạt 390,1 USD/người/năm thì đến năm 2010 đã đạt 1317,9 USD, tăng
3,37 lần so với năm 2010. Năm 2018 GDP thực bình quân đầu người của
Việt Nam đạt 2.566,6 USD, tăng 6,5 lần so với năm 2000 và tăng 1,9 lần
so với năm 2010, tăng 1,08 lần so với năm 2017. Bình quân GDP thực đầu
người của Việt Nam giai đoạn 2000-2018 đạt 1.824,6 USD/người/năm,
GDP bình quân thực đầu người giai đoạn 2010-2018 đạt 1967,1 USD/
người/năm. Nhìn chung, sự phát triển của Việt Nam trong 30 năm qua
rất đáng ghi nhận. Đổi mới kinh tế và chính trị từ năm 1986 đã thúc đẩy
phát triển kinh tế nhanh, nhanh chóng đưa Việt Nam từ một trong những
quốc gia nghèo nhất trên thế giới trở thành quốc gia thu nhập trung bình
thấp. Từ 2000 đến 2018, hơn 45 triệu người đã thoát nghèo, tỷ lệ nghèo
giảm mạnh từ hơn 70% xuống còn dưới 6% (3,2 USD/ngày theo sức mua
ngang giá). GDP đầu người tăng 2,5 lần vào năm 2018. Tuy nhiên, so với
các quốc gia trong khu vực ASEAN như Thái Lan, Indonesia và Malaysia,
thì GDP thực bình quân đầu người của Việt Nam khá thấp. Cụ thể, theo số
liệu thống kê của World Bank, GDP thực bình quân đầu người trong năm
2018 của Singapore gấp 25,8 lần Việt Nam, Brunei gấp 12,6 lần, Malaysia
gấp 4,5 lần và Thái Lan có GDP thực bình quân đầu người gấp gần 2,8 lần
Việt Nam, Indonesia gấp 1,5 lần. GDP thực bình quân đầu người của Việt
Nam chỉ cao hơn so với Lào và Myanmar. Từ năm 2008, GDP thực bình
55
quân đầu người đạt 1.148,4 USD, đến năm 2018 tăng lên 2566 USD. Với
mức GDP thực bình quân này, Việt Nam tiếp tục thuộc nhóm nước có GDP
thực bình qn đầu người trung bình thấp và chỉ ngang bằng mức GDP
thực bình quân đầu người của Malaysia năm 1988, Thái Lan năm 1993,
Indonesia năm 2008, Philippines năm 2010 và Hàn Quốc năm 1982. Trong
khu vực ASEAN, GDP thực bình quân đầu người của Việt Nam chỉ hơn
Lào, Campuchia, Myanmar. Ngoài ra, các nước ASEAN rất khác nhau về
chính trị và thể chế, nền kinh tế phát triển giữa các nước khơng đồng đều.
Như vậy, GDP thực bình qn đầu người của Việt Nam so với các quốc
gia trong khu vực cịn có khoảng cách khá xa, tức là mức độ giàu có của
người dân Việt Nam so với các quốc gia trong khu vực cịn khá thấp và có
khoảng cách khá xa.
Tuy nhiên, hiện ở Việt Nam vẫn còn vấn đề đáng quan tâm đó là
hiện trạng bất bình đẳng kinh tế (hay cịn gọi là bất bình đẳng thu nhập,
khoảng cách giàu nghèo) là chênh lệch giữa các cá nhân, các nhóm trong
xã hội hay giữa các quốc gia trong việc phân phối lại tài sản hay thu nhập.
Bất bình đẳng thu nhập khơng những gây ra những hệ lụy xã hội mà cịn
có ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình tăng trưởng kinh tế (Berg, Ostry
và Zettelmeyer, 2008). Các nghiên cứu trên thế giới cho thấy, bất bình
đẳng thu nhập có ảnh hưởng tiêu cực đến q trình phát triển nói chung,
gây tổn hại đến sự gắn kết xã hội như ảnh hưởng xấu tới chất lượng
cuộc sống của người dân, làm tăng tỷ lệ nghèo đói, cản trở tiến bộ y
tế - giáo dục nói chung. Riêng đối với những người nghèo, bất bình
đẳng cịn góp phần làm gia tăng tình trạng tội phạm. Theo John W.
(2003), tăng trưởng kinh tế đạt 10% thì người nghèo chỉ được hưởng
lợi khoảng ¼ trong số đó. Trong khi đó, người giàu có cơ hội khai thác
nhiều hơn để gia tăng phúc lợi cho mình. Điều đó có nghĩa là, khi tăng
trưởng kinh tế góp phần vào xóa đói giảm nghèo thì nó lại làm gia tăng
thêm khoảng cách chênh lệch giàu nghèo. Tác giả Võ Hồng Đức (2019)
cũng khẳng định rằng bất bình đẳng thu nhập ảnh hưởng tiêu cực đến
phát triển kinh tế, đồng thời chính sự gia tăng của bất bình đẳng kinh tế đã
dẫn đến kinh tế tăng trưởng chậm.
Trong giai đoạn 2000-2018, nền kinh tế Việt Nam đã có những cải
56
thiện đáng kể, đời sống của người dân, chất lượng cuộc sống ngày càng
được nâng lên, người dân được hưởng nhiều dịch vụ với chất lượng ngày
càng cao. Tuy nhiên, để xem xét thực trạng bình đẳng trong thu nhập giữa
các nhóm dân cứ hay để đo lường bất bình đẳng trong phân phối thu nhập,
có nhiều thước đo khác nhau như hệ số Gini, hệ số giãn cách thu nhập, tiêu
chuẩn 40WB… Hệ số giãn cách thu nhập được tính bằng tỷ số giữa thu
nhập của 20% dân số có thu nhập cao nhất trên thu nhập của 20% dân số
có thu nhập thấp nhất. Hệ số này càng lớn, tình trạng bất bình đẳng càng
cao. Tiêu chuẩn 40WB do Ngân hàng Thế giới đề xuất, được tính bằng tỷ
lệ thu nhập (chi tiêu) của 40% dân số có mức thu nhập (chi tiêu) thấp nhất
trong xã hội trên tổng thu nhập (chi tiêu) của toàn bộ dân cư. Nếu tỷ lệ này
trên 17%, ta có bất bình đẳng ở mức thấp, từ 12% đến 17%, ta có bất bình
đẳng ở mức vừa, dưới 12% là bất bình đẳng ở mức cao.
Sử dụng hệ số Gini cho thấy, mức độ bất bình đẳng trong phân phối
thu nhập của cả nước đang có xu hướng tăng lên. So với mức thấp nhất tại
năm 2002, sơ bộ năm 2018, mức độ bất bình đẳng đã tăng 0,4 điểm phần
trăm, con số chính thức có thể cịn cao hơn. Trong cả 2 giai đoạn, có 2 chu
kỳ tăng đạt đỉnh vào năm 2008 và 2016. Năm 2008 là năm diễn ra cuộc
khủng hoảng kinh tế thế giới, ảnh hưởng đến nền kinh tế của tất cả các
quốc gia. Năm 2016 diễn ra trong bối cảnh nền kinh tế thế giới vô cùng ảm
đạm với các biến cố xảy ra như cuộc khủng hoảng người di cư, nước Anh
quyết định rời khỏi EU.
Hệ số giãn cách thu nhập và tỷ trọng thu nhập 40% nghèo nhất lại
cho thấy một khía cạnh hồn tồn khác. Bất kể khủng hoảng hay biến cố có
xảy ra hay khơng thì cũng khơng ảnh hưởng đáng kể đến xu hướng của bất
bình đẳng, bất bình đẳng tăng rõ rệt qua các năm và khơng có biến động
đột biến. Theo tính tốn từ số liệu của Tổng cục thống kê vào năm 2018,
bất bình đẳng đã đạt ở mức cao nhất trong cả giai đoạn. Nhóm giàu nhất có
thu nhập gấp 10 lần nhóm nghèo nhất, thay vì 8 lần ở năm 2002. Mặc dù
so với tiêu chuẩn 40WB của Ngân hàng Thế giới, chúng ta luôn ở mức trên
17%, cho thấy bất bình đẳng ở mức thấp so với thế giới và có xu hướng
giữ ổn định trong cả giai đoạn. Song mức độ bất bình đẳng thu nhập ở Việt
Nam hiện nay là khá cao.
57
Đồ thị 4. 2: Mức độ bất bình đẳng thu nhập khu vực nông thôn và thành thị
Nguồn số liệu: Tổng cục Thống kê (Trích theo Nguyễn Thanh Hằng)
Các phân tích trên cho thấy, bất bình đẳng thu nhập vẫn đang gia tăng
hầu hết trên cả nước và nhóm dân cư nghèo nhất vẫn đang là nhóm chịu tổn
thương. Ngồi ra, đối chiếu theo tiêu chí “Mức độ giàu có của người dân” của
Chen (2015) thì giai đoạn 2000-2018 Việt Nam đạt mức thứ 2 tức là mức an
ninh tài chính thấp. Như vậy, xét theo tiêu chí sự giàu có của người dân thì Việt
Nam đạt mức thấp và từ đó mức độ an ninh tài chính cũng thấp.
(2) Quy mô kinh tế và mức độ phát triển
Đồ thị 4.3: GDP thực và tốc độ tăng GDP của Việt Nam giai đoạn 2000 - 2018
Nguồn: World Bank
( />CD/1ff4a498/Popular-Indicators)
58
Quy mô kinh tế được đo lường thông qua chỉ tiêu GDP thực. GDP thực
của Việt Nam liên tục gia tăng qua các năm kể từ năm 2000 đến nay. Năm
2000, GDP thực của Việt Nam đạt 31,17 tỷ USD, đến năm 2010 GDP thực của
Việt Nam đạt 115,93 tỷ USD. Năm 2018 GDP thực của Việt Nam đạt 245,21
tỷ USD, tăng 2,11 lần so với năm 2010 và tăng 7,86 lần so với năm 2000.
Xét về quy mô GDP thực, nền kinh tế Việt Nam xếp vị trí thứ 5 trong
khu vực ASEAN, đứng sau Indonesia, Thái Lan, Malaysia, Philippines. So
với các nước trong khu vực ASEAN, quy mô nền kinh tế của Việt Nam
cịn có khoảng cách khá lớn. GDP thực của Việt Nam thấp hơn nhiều nước
trong khu vực như Indonesia năm 2018 dẫn đầu đạt 1042,17 tỷ USD, cao
gấp 4,2 lần Việt Nam; GDP thực của Thái Lan đạt 504,99 tỷ USD, cao gấp
2 lần Việt Nam; Malaysia và Philippines cũng có GDP cao hơn Việt Nam
khoảng hơn 1,3 lần.
Đồ thị 4.4: GDP thực của Việt Nam và số nước trong khu vực ASEAN
năm 2018
Nguồn: World Bank
( />CD/1ff4a498/Popular-Indicators)
59
Như vậy, quy mô kinh tế của Việt Nam liên tục gia tăng trong suốt
giai đoạn 2000 - 2018. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng kinh tế lại có nhiều
biến động. Bình quân giai đoạn 2000 - 2018 tốc độ tăng trưởng kinh tế của
Việt Nam đạt 7,2%/năm. Giai đoạn 2005-2010: Tăng trưởng GDP bình
quân giai đoạn 2005-2010 đạt 7%. Trong những năm từ 2005 đến 2007,
tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt mức cao nhất 7,1%. Đến 2008, 2009 và tiếp
tục 2010, tốc độ tăng trưởng chậm lại. Trong những năm này, một trong
những lý do ảnh hưởng tới tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm là cuộc khủng
hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 tác động tới kinh tế Việt Nam và nhiều
nước trên thế giới. Giai đoạn 2011-2015: tăng trưởng GDP bình quân năm
của Việt Nam đạt 5,88% và là mức tăng thấp nhất kể từ năm 2000 tới nay
(giai đoạn 2006-2010, tăng trưởng bình quân đạt 7%, giai đoạn 2001-2005
là 7,51%) nhưng trong điều kiện cụ thể với tình hình kinh tế thế giới trì trệ
thì đây là mức tăng trưởng thành công của Việt Nam. Kinh tế có dấu hiệu
phục hồi vào năm 2013 và có thể tạo đà tăng trưởng cho những năm tiếp
theo. Đến năm 2018 tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đạt 7,1%/
năm. Đây là mức tăng trưởng cao nhất trong 10 năm qua và được xếp vào
nhóm các quốc gia có tốc độ tăng trưởng hàng đầu thế giới và khu vực.
Về mức độ phát triển của nền kinh tế: kể từ khi Việt Nam chính thức gia
nhập WTO vào năm 2007, đồng nghĩa với việc Việt Nam tham gia vào một
thị trường mở và toàn cầu. Tuy nhiên, vào năm 2008 cuộc khủng hoảng tài
chính tồn cầu đã diễn ra và lan rộng trên toàn thế giới và cả Việt Nam cũng
không ngoại lệ khi nền kinh tế bị suy thoái. Kinh tế thế giới vẫn sụt giảm, tăng
trưởng chậm; những cải cách kinh tế không mang lại hiệu quả, cụ thể như thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta chậm được
hoàn thiện, nhiều bất cập, thiếu đồng bộ, chưa tạo ra được mơi trường kinh
doanh bình đẳng, lành mạnh; nợ cơng cao, đầu tư tồn xã hội giảm… đã tác
động không thuận đến nền kinh tế Việt Nam. Trong giai đoạn này, tốc độ tăng
trưởng kinh tế suy giảm mạnh so với giai đoạn trước, chỉ đạt mức 6,07%/năm,
trong khi tăng trưởng trung bình 2 năm 2006-2007 đạt 8,35%. Những hạn
chế, yếu kém của nền kinh tế cùng với những mặt trái của chính sách hỗ trợ
tăng trưởng đã làm cho lạm phát tăng cao (năm 2010 lạm phát tăng 11,75%,
năm 2011 tăng vọt lên 18,13%) ảnh hưởng không nhỏ đến ổn định kinh tế vĩ
60
mô, sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và tăng trưởng kinh tế. Hệ quả là
lãi suất tín dụng tăng cao (24-25%/năm trong năm 2011), điều này tác động
nghiêm trọng đến sự ổn định của hệ thống tài chính. Bên cạnh việc chịu ảnh
hưởng lây lan từ khủng hoảng tài chính, sự suy giảm kinh tế trong nước cịn
bắt nguồn từ nguyên nhân là nền kinh tế quá tập trung vào tăng trưởng theo
chiều rộng mà ít chú trọng đến chiều sâu, các nền tảng kinh tế và cơ cấu kinh
tế không hợp lý, thể chế kinh tế yếu kém, cùng với các chính sách ứng phó với
khủng hoảng khơng hiệu quả, mang tính ngắn hạn và hệ quả là bất ổn kinh tế
vĩ mơ và theo đó là xuất hiện hàng loạt các dấu hiệu bất ổn về an ninh tài chính
(Trần Thọ Đạt, 2015).
Kể từ năm 2011 mục tiêu tái cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mơ hình tăng
trưởng đã được đưa ra và bắt đầu thực hiện. Đến năm 2013, Chính phủ thực
hiện quyết liệt tái cơ cấu nền kinh tế; Tái cơ cấu các doanh nghiệp nhà nước,
xử lý nợ doanh nghiệp, nợ xấu của các ngân hàng thương mại đã đạt được
những kết quả khả quan, các biến số kinh tế vĩ mô bắt đầu có dấu hiệu dần hồi
phục, tăng trưởng kinh tế mực dù có thấp hơn thời kỳ trước khủng hoảng tài
chính tồn cầu nhưng dần được cải thiện. Qua đó có thể thấy, đã có dấu hiệu
của sự phục hồi kinh tế, đây là tiền đề tạo đà tăng trưởng trong hai năm 2014
và 2015 với tốc độ tăng trưởng kinh tế của năm 2014 đạt 6% và năm 2015 là
6,5%. Ngoài ra, theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong giai đoạn 2011-2015, tăng
trưởng kinh tế chủ yếu dựa trên tăng vốn, đóng góp từ lao động vào TFP cịn
hạn chế trong khi Việt Nam có lợi thế về lao động hơn là lợi thế về vốn. Yếu tố
trình độ cơng nghệ, chất lượng lao động, trình độ quản lý cải thiện chưa đáng
kể. Giai đoạn 2011-2015, hiệu quả tăng trưởng kinh tế thấp, khi TFP đóng góp
vào tăng trưởng GDP chỉ là 28,94%, vốn đóng góp 51,28% và lao động đóng
góp 19,78%. Đến năm 2016, tăng trưởng kinh tế giảm nhẹ xuống 6,2% trong
bối cảnh tỷ lệ lạm phát vừa phải và tình hình kinh tế đối ngoại vững chắc. Hoạt
động kinh tế ở Việt Nam chững lại trong năm 2016. Nguyên nhân GDP tăng
chững lại trong năm qua là do sụt giảm trong các ngành nông nghiệp và khai
khoáng, trong khi sản lượng chế tạo chế biến và dịch vụ tăng trưởng tốt. Đến
năm 2017, kinh tế Việt Nam cho thấy một dấu hiệu khởi sắc hơn với mức tăng
trưởng cả năm 2017 đạt 6,81%. 2017 có thể nói là một năm thành cơng của
kinh tế Việt Nam khi là năm đầu tiên sau nhiều năm hoàn thành và hoàn thành
61
vượt mức cả 13/13 chỉ tiêu kinh tế - xã hội do Quốc hội đề ra. Kinh tế vĩ mô
tiếp tục ổn định cùng với những cải cách thể chế nhằm cải thiện mơi trường
đầu tư được Chính phủ chỉ đạo quyết liệt kỳ vọng sẽ phát huy hiệu quả, hỗ trợ
tích cực hơn cho hoạt động kinh doanh trong năm 2018. Đặc biệt, việc tổ chức
thành công sự kiện APEC cũng như đạt được thỏa thuận Hiệp định Đối tác
tồn diện và Tiến bộ xun Thái Bình Dương (CPTPP) cũng sẽ mở ra nhiều
cơ hội cho nền kinh tế Việt Nam trong những năm tới. Năm 2018 kinh tế Việt
Nam tiếp tục tăng trưởng với mức tăng trưởng GDP đạt 7,1%/năm, chúng ta
đã đạt và vượt toàn bộ 12 chỉ tiêu chủ yếu, với mức tăng trưởng GDP này Việt
Nam thuộc quốc gia có mức tăng trưởng cao nhất kể từ năm 2008, thuộc nhóm
các nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao nhất khu vực và thế giới.
(3) Triển vọng tăng trưởng kinh tế
Chỉ tiêu triển vọng tăng trưởng kinh tế được sử dụng để đánh giá tình
trạng sức mạnh tài chính ở giai đoạn hiện tại và khả năng đảm bảo an ninh
tài chính trong tương lai. Dựa trên nghiên cứu của Cheng (2015), chỉ tiêu
này được cụ thể hóa thơng qua chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng GDP thực bình
quân đầu người. Tốc độ tăng trưởng GDP thực bình quân đầu người ở Việt
Nam tăng trưởng liên tục trong suốt giai đoạn 2000 - 2018 và đạt bình quân
11,3%/năm, được thể hiện qua đồ thị sau:
Đồ thị 4.5: Tốc độ tăng trưởng GDP thực bình quân đầu người hàng
năm của Việt Nam giai đoạn 2000 - 2018 (ĐVT: %)
(Nguồn: Tính tốn từ dữ liệu của World Bank)
62
Mặc dù đạt tốc độ tăng trưởng liên tục qua các năm song tốc độ tăng
trưởng GDP thực bình quân đầu người ở Việt Nam có sự biến động qua các
năm. Tốc độ tăng trưởng GDP thực bình quân đầu người giai đoạn 20002008 đạt mức bình quân 13,91%/năm. Dưới tác động của khủng hoảng
kinh tế toàn cầu vào năm 2008, chỉ tiêu này đã giảm chiều tăng trưởng
và đạt mức 8,26%/năm vào năm 2009 và 2010. Sau đó, nhờ những chính
sách phục hồi nền kinh tế sau khủng hoảng, thu nhập của người dân tăng
lên và tốc độ tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người cũng gia tăng và
đạt mức bình quân 8,8%/năm vào giai đoạn 2011-2018. Điều này cho thấy
mức sống của người dân từng bước được cải thiện và gia tăng, sự giàu có
của người dân đang có chiều hướng gia tăng là dấu hiệu tích cực để tăng
cường an ninh kinh tế và tài chính quốc gia, từ đó quốc gia có nhiều nguồn
lực hơn để đối phó với những bất ổn.
Mặc dù tình hình thế giới có nhiều biến cố như cuộc khủng hoảng
tài chính tồn cầu năm 2008, cuộc chiến tranh thương mại Mỹ - Trung
năm 2019 được xem là có tác động mạnh đến kinh tế toàn cầu và kinh tế
Việt Nam nói chung lẫn tình hình an ninh tài chính nói riêng. Trong bối
cảnh kinh tế tồn cầu gặp khó khăn, kinh tế Việt Nam năm 2009 tiếp tục
đạt tốc độ tăng trưởng 7%, cùng với nền kinh tế vĩ mô và chất lượng tăng
trưởng kinh tế dần cải thiện, năng lực cạnh tranh quốc gia được nâng cao,
các yếu tố căn bản của nền kinh tế được giữ vững, môi trường kinh doanh
được cải thiện mạnh mẽ, lạm phát được kiểm soát do Ngân hàng Nhà nước
áp dụng các chính sách tiền tệ khá phù hợp và linh hoạt có thể hỗ trợ tốt
cho sự tăng trưởng. Điều này cho thấy triển vọng kinh tế Việt Nam là tích
cực trong những năm tiếp theo. Tuy nhiên, Bối cảnh thế giới tiếp tục diễn
biến phức tạp, khó lường, khó dự báo, Quan hệ giữa các nước lớn thay đổi,
cạnh tranh chiến lược giữa các cường quốc sẽ tiếp tục diễn ra gay gắt, nhất
là giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, đồng thời vai trị của châu Á - Thái Bình
Dương và khối ASEAN, Ấn Độ, Trung Quốc ngày càng lớn; Xu hướng đan
xen giữa tự do hóa thương mại với bảo hộ mậu dịch tiếp tục kéo dài; vai
trò của các thể chế kinh tế quốc tế bị suy yếu. Các hiệp định thương mại
sẽ giúp thúc đẩy tự do hóa thương mại đi liền với việc gia tăng các hàng
rào bảo hộ thương mại phi thuế quan. Từ đó, có thể nhận thấy kinh tế Việt
Nam có nhiều triển vọng tăng trưởng trong thời gian sắp tới song cũng đối
63
mặt với khơng ít khó khăn, thách thức khi những yếu kém nội tại của nền
kinh tế chưa được giải quyết triệt để.
(4) Ổn định kinh tế
Chỉ tiêu này được đo lường thơng qua mức biến động của GDP
bình qn đầu người và tỷ lệ thất nghiệp. Trong đó biến động GDP
bình quân đầu người được đo lường bằng độ lệch chuẩn của chỉ tiêu
GDP bình quân đầu người 5 năm trước liền kề. Kể từ năm 2000 đến
2007, nền kinh tế khá ổn định nên mức biến động GDP thực bình qn
đầu người ở Việt Nam là khơng đáng kể. Kể từ năm 2007, Việt Nam
hội nhập ngày càng sâu rộng thông qua việc gia nhập WTO và tham
gia nhiều Hiệp định thương mại song phương và đa phương, điều này
làm cho nền kinh tế dễ bị ảnh hưởng bởi các biến động trên thị trường
quốc tế, điều đó một phần làm cho kinh tế tăng trưởng chưa vững và
chưa đều, hiệu quả và tính bền vững chưa cao. Nhìn chung, tiến trình
hội nhập kinh tế quốc tế giai đoạn 2007-2018 có ảnh hưởng khơng nhỏ
đối với thể chế kinh tế nói chung và phương thức điều hành kinh tế xã hội nói riêng. Trong những năm đầu sau khi gia nhập WTO, những
điểm yếu cố hữu của nền kinh tế - như mất cân đối đầu tư - tiết kiệm,
thâm hụt thương mại, khả năng cạnh tranh chậm cải thiện,… bộc lộ rõ
nét hơn dưới tác động của hội nhập kinh tế quốc tế. Do đó, dù mức tăng
trưởng trung bình chỉ đạt 6,04%/năm trong giai đoạn 2007-2018 (thấp
hơn so với 7,51%/năm trong 2000-2006), song chất lượng và đà phục
hồi tăng trưởng kinh tế ngày một vững chắc hơn. Hơn nữa, trước những
thách thức lớn từ những bất ổn kinh tế vĩ mơ, Chính Phủ đã thực hiện
nhiều biện pháp cải cách nền kinh tế dựa trên điều chỉnh lại mục tiêu
của chính sách tiền tệ và tài khóa. Nhờ đó từ năm 2013 đến nay mức độ
ổn định của nền kinh tế đã gia tăng, biến động thu nhập bình quân đầu
người giảm, mức sống của dân cư được ổn định, tạo niềm tin cho cho
dân chúng về hiệu lực của chính sách.
Về tỷ lệ thất nghiệp: Thất nghiệp là vấn đề kinh tế xã hội phổ biến
của các quốc gia, tỷ lệ thất nghiệp phần nào phần nào phản ánh mức sống
64
và tình hình ổn định kinh tế, xã hội của một quốc gia. Tình trạng thất
nghiệp xảy ra khơng chỉ ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh tế mà còn
tác động và gây ra nhiều vấn đề bất cập như tệ nạn xã hội, tỷ lệ lạm phát.
Theo quy luật Okun (hay quy luật 2,5 - 1): Nếu tỷ lệ thất nghiệp tăng 1%
thì GDP thực tế sẽ giảm 2,5% và ngược lại. Tuy vậy, trong một chừng mực
nào đó thất nghiệp cũng có những tác động tích cực. Nhìn chung tỷ lệ thất
nghiệp sẽ tác động tiêu cực đến hiệu quả kinh tế, xã hội và cá nhân người
thất nghiệp sẽ mất việc làm, kéo theo thu nhập bình quân đầu người giảm,
ảnh hưởng đến mức độ giàu có chung của người dân. Thất nghiệp tăng lên
cũng có nghĩa là nền kinh tế đang suy thoái - suy thoái do tổng thu nhập
quốc gia thực tế thấp hơn tiềm năng; suy thối do thiếu vốn đầu tư (vì vốn
ngân sách bị thu hẹp do thất thu thuế, do phải hỗ trợ người lao động mất
việc làm…). Thất nghiệp tăng lên cũng là nguyên nhân đẩy nền kinh tế đến
(bờ vực) của lạm phát.
Kể từ năm 2000 đến nay, kinh tế Việt Nam tăng trưởng khá đã tạo
ra nhiều việc làm cho lao động trong tất cả các lĩnh vực. Theo số liệu của
Tổng cục thống kê năm 2018, lực lượng lao động trong độ tuổi lao động
(15 tuổi trở lên) chiếm 59% trong tổng dân số và hàng năm Việt Nam đã
tạo ra khoảng 1,2 triệu việc làm cho người lao động. Tỷ nghiệp thất nghiệp
ở Việt Nam có xu hướng giảm kể từ năm 2000 đến nay và đạt mức trung
bình 2% vào năm 2018. Theo đánh giá của Tổng cục thống kê, nền kinh
tế khởi sắc với sự phát triển mạnh của khu vực công nghiệp và dịch vụ là
một trong những nguyên nhân chủ yếu làm giảm tỷ lệ thất nghiệp ở khu
vực thành thị từ mức 4,29% năm 2010 giảm còn 3,1% vào năm 2018. Tuy
nhiên, tỷ lệ thất nghiệp ở các khu vực của nền kinh tế có sự khác nhau,
khu vực thành thị ln có tỷ lệ thất nghiệp cao hơn, đạt mức 3,1% vào
năm 2018, trong khi đó tỷ lệ thất nghiệp của khu vực nông thôn là 1,7%
năm 2018. Nguyên nhân tỷ lệ thất nghiệp cao ở khu vực thành thị là do thị
trường lao động phát triển sâu rộng địi hỏi chất lượng lao động cao, trong
khi đó khơng ít ngành nghề đào tạo lại không phù hợp với u cầu của thị
trường. Cùng đó, lao động khơng nghề nghiệp có tỷ trọng lớn nên càng
ngày càng khó có cơ hội tìm việc làm.
65
Bảng 4.1: Tỷ lệ thất nghiệp của Việt Nam và các quốc gia trong
khu vực năm 2018 (%)
Quốc gia
Tỷ lệ thất nghiệp (%)
Trung bình
Nam
Nữ
Việt Nam
2
2,1
2
Brunei Darussalam
8,7
7,7
10,1
Indonesia
4,4
4,5
4,2
Lao PDR
9,4
10,8
7,8
Malaysia
3,3
3,1
3,6
Myanmar
0,9
0,7
1
Philippines
2,3
2,1
2,7
Singapore
4,1
3,8
4,5
Thailand
0,7
0,7
0,7
Cambodia
0,7
0,6
0,9
ASEAN
3,7
3,7
3,7
Thế giới
5,7
5,5
6,2
(Nguồn: ILO)
Kinh tế các nước ASEAN đã có sự phục hồi mạnh mẽ trong những
năm gần đây. Tỷ lệ thất nghiệp trong khối ASEAN đã giảm nhẹ còn 3,7%
vào năm 2018, thấp hơn so với tỷ lệ thất nghiệp trung bình của thế giới
là 6,2%. Tuy nhiên, tỷ lệ thất nghiệp ở nhóm thanh niên rất cao (chiếm
13,5%). Trong khu vực ASEAN, Việt Nam là quốc gia có tỷ lệ thất nghiệp
thấp, Việt Nam đứng thứ 8 trong số các nước có tỷ lệ thất nghiệp thấp nhất
(2%), tức là lọt vào top 5% của các nước và vùng lãnh thổ. Nói tóm lại, thất
nghiệp là một hiện tượng xã hội tồn tại khách quan và gây ra những hậu
quả xấu ngăn cản sự phát triển của tồn bộ nền kinh tế. Vì vậy, vấn đề giải
quyết thất nghiệp là vấn đề cấp bách hơn bao giờ hết, giảm bớt thất nghiệp
không những tạo điều kiện để phát triển kinh tế mà còn thúc đẩy ổn định
xã hội. Một xã hội có nền kinh tế phát triển, tỷ lệ thất nghiệp thấp thì tệ nạn
xã hội sẽ bị đẩy lùi, đời sống nhân dân được nâng cao.
66
4.1.2. Năng lực hành chính và hiệu quả chính sách
Để đánh giá năng lực hành chính và hiệu quả của các chính sách điều
hành của Chính phủ trong việc đảm bảo an ninh tài chính, các chỉ tiêu được
sử dụng bao gồm tình hình vay nợ của chính phủ, nợ cơng của quốc gia và
tình hình thâm hụt ngân sách, cụ thể như sau:
(1) Tình hình vay nợ của Quốc gia và Chính phủ
Nội dung này chỉ đề cập đến tình hình vay nợ nước ngồi của Việt
Nam, bao gồm nợ nước ngồi của khu vực cơng và nợ nước ngồi của
khu vực tư nhân. Trong đó, nợ nước ngồi của chính phủ là một bộ
phận của nợ cơng. Việc vay nợ nước ngoài nhằm bổ sung nguồn vốn
đầu tư cho đầu tư phát triển kinh tế quốc gia, song nó cũng tiềm ẩn
nhiều rủi ro đối với việc đảm bảo an tồn nợ và an ninh tài chính cho
nền kinh tế quốc gia.
Ngân hàng thế giới cũng đã đưa ra các tiêu chí để đánh giá mức
độ nợ như sau:
Bảng 4.2: Các chỉ số dùng để đánh giá mức độ nợ của Ngân hàng
thế giới
STT
Chỉ số
Mức nợ
trầm
trọng
Mức nợ
khó khăn
Mức nợ
bình
thường
1
Tổng số nợ /GDP
> 50%
30-50%
< 30%
2
Tổng số nợ/XK hàng
hóa và dịch vụ
> 200%
165-200%
< 165%
3
Trả nợ hàng năm/XK
hàng hóa và dịch vụ
> 30%
18-30%
< 18%
4
Trả nợ hàng năm/GDP
> 4%
2-4%
< 2%
5
Trả lãi nợ hàng năm/
XK hàng hóa và dịch
vụ
> 20%
12-20%
< 12%
Nguồn: World Bank
67
Dựa trên các chỉ số đáng giá về mức độ nợ nêu trên, đối chiếu với
Việt Nam ta thấy mức độ nợ nước ngoài của Việt Nam thuộc mức 2 (mức
nợ khó khăn). Giai đoạn 2000 - 2010, mức nợ nước ngồi/GDP bình qn
của Việt Nam đạt 35,94%, kể từ năm 2010 trở đi mức nợ nước ngoài
của Việt Nam có xu hướng tăng và đạt bình qn 42%/năm giai đoạn
2010-2018, mức tăng nợ nước ngoài của Việt Nam trong giai đoạn này đạt
16,7%/năm. Riêng năm 2017, mức nợ nước ngoài đạt 48,9%/GDP, gần sát
với ngưỡng mức nợ trầm trọng và sát với ngưỡng 50% được quốc hội cho
phép. Đến năm 2018 mức nợ này đã giảm xuống còn 46%.
Về nghĩa vụ trả nợ so với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hóa,
dịch vụ và nghĩa vụ trả nợ của chính phủ so với thu NSNN đều đảm bảo
quy định và trong mức ngưỡng cho phép. Tuy nhiên, xét theo quy mơ thì
nợ nước ngồi của nước ta có xu hướng gia tăng, trong đó chủ yếu nợ nước
ngồi của doanh nghiệp và các tổ chức tài chính, tín dụng theo hình thức tự
vay tự trả (chiếm 48,4%). Điều này sẽ tác động đến khả năng trả nợ ngoài
của quốc gia.
Bảng 4.3: Một số chỉ tiêu chính về nợ nước ngồi của Việt Nam
giai đoạn 2006-2018
Dư nợ
chính
phủ so
với GDP
(%)
Nợ nước
ngồi/
GDP (%)
Nghĩa vụ
trả nợ của
Chính phủ
so với thu
NSNN (%)
Nghĩa vụ
trả nợ
nước ngồi/
kim ngạch
XNK (%)
Nợ
cơng/
GDP
2006
26,7
31,4
15,1
3,7
42,9
2007
28,2
32.5
16,4
3,6
45,6
2008
25,1
29,8
16,8
3,5
43,9
2009
29,3
39
17,2
5,1
49
2010
44,6
42,2
17,6
3,4
56,3
2011
43,2
41,5
15,6
3,5
54,9
Năm
68
(%)
Dư nợ
chính
phủ so
với GDP
(%)
Nợ nước
ngồi/
GDP (%)
Nghĩa vụ
trả nợ của
Chính phủ
so với thu
NSNN (%)
Nghĩa vụ
trả nợ
nước ngồi/
kim ngạch
XNK (%)
Nợ
cơng/
GDP
2012
39,4
37,4
14,6
3,5
50,8
2013
42,6
37,3
12,6
4,3
54,5
2014
46,4
38,3
13,8
4,1
58
2015
49,2
42
14,9
4
61
2016
52,7
44,8
20,5
3,9
63,7
2017
51,7
48,9
18,3
6,1
61,4
2018
50
46
17,1
7
58,4
Năm
(%)
Nguồn: Niên giám thống kê tài chính 2018, Bộ Tài chính
Để đánh giá tính bền vững của nợ cơng, tiêu chí nợ cơng/GDP được
sử dụng phổ biến để đánh giá tình hình nợ cơng của một quốc gia, đánh
giá mức độ an tồn của nợ công. Theo tác giả Trần Thọ Đạt (2015) để đảm
bảo an tồn của nợ cơng, các quốc gia thường sử dụng các chỉ tiêu sau làm
giới hạn vay và trả nợ:
(1) Giới hạn nợ công
< 50%-60% GDP
< 150% - 200% kim ngạch xuất khẩu
< 300% giá trị tổng thu NSNN
(2) Giá trị trả lãi phục vụ nợ <25% kim ngạch xuất khẩu
< 35% thu NSNN
(3) Dịch vụ trả nợ của chính phủ < 10% chi ngân sách
Ngân hàng thế giới cũng đưa ra mức ngưỡng an tồn nợ cơng là 50%
GDP. Đồng thời theo khuyến nghị của Grib (2015) đưa ra mức tỷ lệ tăng
trưởng nợ công /tăng trưởng GDP > 1 nhằm đảm bảo quốc gia không rơi
69
vào tình trạng “bẫy nợ” và giảm được mức gánh nặng nợ cho ngân sách.
Tuy nhiên, trên thực tế các nền kinh tế có các đặc điểm khác nhau nên
khơng có hạn mức an tồn chung cho các nền kinh tế mà mức độ an tồn
của nợ cơng phụ thuộc vào tình trạng của nền kinh tế vĩ mơ (mạnh hay
yếu). Chính vì vậy, ngồi chỉ tiêu nợ cơng/GDP thì để xác định đúng mức
an tồn của nợ cơng cần phải xem xét nợ cơng một cách tồn diện trong
mối liên hệ với các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô khác của nền kinh tế như tốc độ
và chất lượng tăng trưởng kinh tế, năng suất lao động tổng hợp, hiệu quả
sử dụng vốn, tỷ lệ thâm hụt ngân sách, mức tiết kiệm nội địa và mức đầu
tư an toàn xã hội. Ở Việt Nam theo Luật quản lý nợ công (khoản 2, điều
21) số 20/2017/QH14 ngày 23 tháng 11 năm 2017 và Quyết định số 958/
QĐ-TTg ngày 27 tháng 7 năm 2012 của Thủ tướng chính phủ phê duyệt
chiến lược nợ cơng và nợ nước ngồi của quốc gia giai đoạn 2011 - 2020
và tầm nhìn đến năm 2030 đã quy định chi tiết các chỉ tiêu để đánh giá an
tồn nợ cơng bao gồm:
(1) Nợ cơng
< 65% GDP
(2) Dư nợ chính phủ
< 55% GDP
(3) Nợ nước ngồi của quốc gia < 50% GDP
(4) Nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ (khơng kể cho vay lại)/
Tổng thu NSNN
< 25% GDP
(5) Nghĩa vụ trả nợ nước ngồi của quốc gia/Giá trị xuất khẩu hàng
hóa, dịch vụ
< 25% GDP
Theo Luật Quản lý nợ công (khoản 2, điều 1) của Việt Nam năm 1999,
nợ công bao gồm: nợ chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh và nợ chính
quyền địa phương. Theo số liệu cơng bố của Bộ Tài chính, cơ cấu nợ cơng của
Chính phủ tính đến ngày 31/12/2018 như sau: nợ chính phủ chiếm 80%, nợ
được Chính phủ bảo lãnh chiếm 19% và nợ chính quyền địa phương chiếm
1%. Về tình hình nợ cơng của Việt Nam trong giai đoạn 2000 - 2018 theo số
liệu công bố từ Niên giám thống kê của Bộ Tài chính cho thấy tỷ lệ nợ cơng/
GDP có xu hướng tăng qua các năm và duy trì ít nhất từ mức 30%/GDP trở
lên. Cụ thể, năm 2000 nợ công của Việt Nam đạt 11,5 tỷ USD tương đương
36% GDP, đến năm 2010 nợ công đã tăng lên 55,2 tỷ USD, tương đương
56,6% GDP. Đến năm 2018, mức nợ công của Việt Nam đạt 149,58 tỷ USD,
70
tương đương mức 58,4%/GDP và Việt Nam có nhóm nước có mức nợ cơng
trên trung bình. Như vậy, trong vịng 10 năm từ năm 2000 đến năm 2010
quy mô nợ công đã tăng gấp 5 lần với tốc độ tăng trưởng nợ tăng 15% mỗi
năm. Từ năm 2010 đến 2018, quy mô nợ công đã tăng 1,79 lần với tốc độ
tăng trưởng nợ công đạt 12,2%/năm. Mặc dù tỷ lệ nợ công vẫn nằm trong
giới hạn cho phép ( < 50%-60% GDP) nhưng đây là vấn đề đáng lo ngại vì
Việt Nam nằm trong những quốc gia có tỷ lệ nợ công trên GDP tăng nhanh
nhất (tăng trên 10%/năm) cho dù tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt mức cao.
Ngoài ra, theo báo cáo của Bộ Tài chính, mức nợ của Chính phủ cũng tăng
nhanh trong giai đoạn 2000-2018, từ mức 23,1%/GDP năm 2000 tăng lên
mức 52,1%/GDP ở năm 2018, trong khi mức trần là 55%/GDP. Như vậy,
Chính phủ đã khơng giữ được mục tiêu duy trì nợ Chính phủ ở mức dưới
50% GDP và nguồn gốc chủ yếu làm phát sinh nợ Chính phủ chính là do
bội chi ngân sách. Điều này sẽ ảnh hưởng lớn đến việc trả nợ nước ngồi
của chính phủ và ảnh hưởng đến tình hình an ninh tài chính nói chung.
Ngồi ra, khi so sánh với các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á
cho thấy Việt Nam hiện nằm trong nhóm nước có mức nợ cơng trung bình
trong khu vực và thế giới. Tổng mức nợ công của Việt Nam đạt 149,58 tỷ
USD, tăng 12,7% so với năm trước. Mức nợ cơng bình quân đầu người của
Việt Nam là 798,92 USD. Tuy nhiên, khi xét theo mức tương đối thì tỷ nợ
nợ cơng/GDP của Việt Nam khá cao, xếp vị trí thứ 2 sau Singapore. Tuy
nhiên, để đánh giá mức độ an toàn nợ công của một quốc gia không chỉ
dựa vào chỉ tiêu nợ cơng/GDP mà cịn phụ thuộc vào các yếu tố kinh tế vĩ
mô khác như tốc độ tăng GDP, lạm phát, lãi suất, mức thâm hụt tài khoản
vãng lai và dự trữ ngoại hối của quốc gia… Theo đánh giá của Ngân hàng
thế giới, Việt Nam không nằm trong nhóm các nước có mức gánh nặng về
nợ cơng cao nhưng hiệu quả quản lý và sử dụng nợ công vẫn chưa thực sự
hiệu quả. Để việc quản lý và sử dụng hiệu quả nợ cơng thì chính phủ cần
có chiến lược kiểm sốt đầu tư trong khu vực cơng, giảm thâm hụt ngân
sách để có thế kiểm sốt được nợ vay nước ngồi. Bên cạnh đó, quản lý nợ
cơng phải gắn chặt với quản lý kinh tế vĩ mô, quản lý được các yếu tố kinh
tế vĩ mô như lãi suất và tỷ giá, lạm phát, lãi suất, thâm hụt ngân sách, mức
thâm hụt tài khoản vãng lai và dự trữ ngoại hối của quốc gia nhằm giảm
thiểu rủi ro về nợ công.
71
Đồ thị 4.6: Nợ công/GDP của Việt Nam và một số quốc gia khu vực
Đông Nam Á năm 2018
Nguồn: />GDD/PHL/VNM
(2) Thâm hụt ngân sách
Đồ thị 4.7: Tỷ lệ thâm hụt ngân sách trên tổng thu ngân sách ở Việt Nam
giai đoạn 2000-2018
Nguồn: Niên giám thống kê tài chính - Bộ Tài chính
72
Đây cũng là một trong những chỉ tiêu quan trọng được sử dụng để
đánh giá năng lực hành chính và hiệu quả điều hành chính sách tài khóa.
Theo Grib (2015) khi đánh giá hiệu quả điều hành chính sách tài khóa cần
xem xét mức thâm hụt ngân sách trên tổng thu ngân sách để cho thấy mức
độ tự hoạt động trong khả năng của nền kinh tế và sự thận trọng của các
nhà điều hành chính sách. Tác giả cũng đưa ra mức thâm hụt ngân sách
< 15% tổng thu ngân sách. Nếu vượt qua mức này thì nguồn thu ngân sách
là khơng bền vững và quốc gia có thể lâm vào tình trạng kiệt quệ tài chính,
điều này làm cho nền kinh tế dễ dẫn đến mất ổn định.
Trong những năm gần đây, với mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế, Việt Nam đã và đang theo đuổi những chính sách thâm hụt ngân sách
có định hướng. mặc dù thu NSNN liên tục tăng, nhưng chi luôn vượt thu,
điều này dẫn tới tình trạng thâm hụt ngân sách triền miên và có mức độ
ngày càng gia tăng. Thâm hụt ngân sách (theo cách tính của Việt Nam) đã
tăng từ mức trung bình là 4,9% GDP giai đoạn 2000 - 2005 lên 5,53% GDP
giai đoạn 2006 - 2010. Giai đoạn 2011 - 2013 tuy có giảm so với giai đoạn
trước, song vẫn ở mức cao (trung bình 4,85% GDP), giai đoạn 2014-2018
mức thâm hụt bình quân là 4,82% GDP. Xét theo tỷ lệ thâm hụt ngân sách
trên tổng thu ngân sách nhà nước thì phần lớn các năm chỉ tiêu này của
Việt Nam lớn hơn 15%. Cụ thể, năm 2000 tỷ lệ thâm hụt ngân sách trên
tổng thu ngân sách nhà nước vượt mức 15% và đạt 21,7%, đặc biệt giai
đoạn 2012-2016 tỷ lệ này khá cao và đạt mức 23,3% vào năm 2014. Kể
từ năm 2017, mức thâm hụt ngân sách trên tổng thu ngân sách nhà nước
đã giảm xuống đáng kể và đạt mức 13,44% vào năm 2018. Với mức thâm
hụt ngân sách lớn sẽ gây khó khăn cho việc đảm bảo cân đối thu chi và tạo
ra gánh nặng nợ cho chính phủ. Với mức thâm hụt ngân sách cao sẽ dẫn
đến tình trạng nguồn thu ngân sách nhà nước khơng bền vững và quốc gia
có thể lâm vào tình trạng kiệt quệ tài chính khiến nền kinh tế mất ổn định.
Đây là điều cảnh báo đến an ninh ngân sách nói riêng và an ninh tài chính
nói chung.
(3) Lạm phát và ổn định giá tiền tệ
Đây cũng là chỉ tiêu đánh giá năng lực hành chính và hiệu quả của
chính sách. Theo tác giả Trần Thọ Đạt (2015) thì tỷ lệ lạm phát của nền
73
kinh tế một quốc gia > 8% được coi là có hại cho nền kinh tế. Kể từ năm
2000 đến nay, tỷ lệ lạm phát ở Việt Nam có nhiều biến động. Cụ thể giai
đoạn 2000-2007 tỷ lệ lạm phát được duy trì ở mức thấp và ổn định, đạt
mức bình quân 6,93%/năm. Kể từ năm 2008 trở đi mức lạm phát tăng
nhanh và đạt mức cao nhất vào năm 2008 và năm 2011 lần lượt là 23,1%
và 18,7%, vượt mức lạm phát an toàn. Bên cạnh nguyên nhân tác động từ
khủng hoảng dẫn đến lạm phát cao trong giai đoạn này cịn do chính sách
quản lý kém hiệu quả mà cụ thể chính sách nới lỏng thiếu kiểm sốt, cùng
với việc đầu tư kém hiệu quả. Trong giai đoạn này lạm phát gia tăng ở mức
cao cùng với tăng trưởng kinh tế suy giảm dẫn đến hậu quả làm cho nền
kinh tế rơi vào tình trạng bất ổn và an ninh tài chính quốc gia bị đe dọa. Kể
từ năm 2012 trở đi lạm phát đã được kiểm soát và duy trì ở mức thấp cho
đến nay, trung bình mỗi năm là 4,6% và lạm phát năm 2018 là 3,5%/năm.
Mặc dù lạm phát trong những năm gần đây đạt mức thấp, đã góp phần vào
việc ổn định giá cả và ổn định thị trường tài chính, song rủi ro về lạm phát
vẫn còn trong thời gian tới khi nợ cơng gia tăng nhanh chóng và sắp cán
ngưỡng tối đa cho phép khiến kỷ luật vay nợ bị phá vỡ.
Đồ thị 4.8: Lạm phát và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam giai đoạn 2000 - 2018
Nguồn: />ZG/1ff4a498/Popular-Indicators#
74
4.1.3. Cán cân thanh toán quốc tế và ảnh hưởng đến bên ngoài
Chỉ tiêu này bao gồm:
(1) Mức độ định hướng xuất khẩu
Mức độ định hướng xuất khẩu của một quốc gia được thể hiện qua
tỷ lệ cán cân thương mại/GDP, đây cũng là chỉ tiêu phản ánh mức độ phụ
thuộc vào ngoại thương của một quốc gia, đồng thời là cơ sở để đánh giá
khả năng tự đảm bảo các cân đối tài chính trong nước. Theo Grib (2015)
khi tỷ lệ cán cân thương mại/GDP cao tức quốc gia đó quá phụ thuộc vào
ngoại thương, các cú sốc tài chính càng dễ dàng tác động đến nền kinh tế
trong nước và ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh tài chính trong nước.
Ngồi ra, tác giả Đỗ Hạnh Ngun (2014) cũng nêu nhận định rằng trên
thực tế nhập siêu khơng hồn tồn tiêu cực đối với các nền kinh tế, đặc
biệt các quốc gia đang phát triển có thể phải chấp nhận thâm hụt thương
mại khi nhu cầu nhập khẩu máy móc thiết bị và nguyên liệu phục vụ cho
sản xuất lớn. Tuy nhiên, nếu tình trạng thâm hụt thương mại kéo dài sẽ dễ
dẫn đến bất ổn kinh tế vĩ mô, nền kinh tế dễ bị tổn thương từ những cú sốc
bên ngoài.
Đồ thị 4.9: Cán cân thương mại, cán cân vãng lai và cán cân thanh toán
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước
75
Từ năm 2000 đến năm 2011 cán cân thương mại của Việt Nam rơi
vào tình trạng thâm hụt, kim ngạch nhập khẩu luôn cao hơn nhiều so với
kim ngạch xuất khẩu. Từ trước năm 2008, thâm hụt thương mại có xu
hướng gia tăng từ mức 2,8% GDP vào năm 2006 đã tăng lên 13,64% vào
năm 2008. Theo đó, mức độ phụ thuộc vào ngoại thương lớn sẽ khiến cho
an ninh tài chính bị ảnh hưởng tiêu cực bởi khả năng thanh toán của nền
kinh tế giảm sút. Kể từ năm 2008, Chính phủ thực hiện các biện pháp cải
cách kinh tế theo chiều sâu, cán cân thương mại đã giảm mức thâm hụt
và thặng dư kể từ năm 2012 và đến năm 2018 đã đạt mức thặng dư 6,3 tỷ
USD. Khi tình hình thâm hụt thương mại được cải thiện, kim ngạch xuất
khẩu cao hơn nhập khẩu cho thấy nước ta đã giảm mức phụ thuộc vào
ngoại thương, giảm được những ảnh hưởng từ bên ngoài đến nền kinh tế.
Tuy nhiên, mức thặng dư thương mại còn thấp (năm 2018 là 6,7% GDP)
do tình hình xuất khẩu vẫn chưa được cải thiện nhiều và dấu hiệu thặng dư
chưa bền vững.
(2) Mức độ cân bằng của thanh toán quốc tế
Trong cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam, cán cân vãng lai
giữ vị trí chủ yếu, trong đó cán cân thương mại ln bị rơi vào tình trạng
thâm hụt. Ngồi ra, cán cân dịch vụ, thu nhập ròng từ bên ngoài trong giai
đoạn này cũng bị thâm hụt dẫn đến tài khoản vãng lai thâm hụt cả giai đoạn
2000-2010, riêng năm 2009 cán cân vãng lai của Việt Nam thâm hụt 12,14
tỷ USD. Năm 2007 Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO,
trong năm này cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam thặng dư 10,2 tỷ
USD, song cũng bắt đầu tư thời gian này cán cân vãng lai của Việt Nam
thâm hụt nghiêm trọng ở mức 6,99 tỷ USD, tương đương 9,8%/GDP lên
mức 10,79 tỷ USD, tương đương 11,9% GDP vào năm 2008.
Những diễn biến của cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam, cùng
với những bất ổn của tình hình kinh tế vĩ mô trong giai đoạn này cho thấy
nền kinh tế nước ta đang chứa đựng những nguy cơ bất ổn trên thị trường
do tình trạng nhập siêu gia tăng, và nguồn bù đắp cho thâm hụt thương mại
chủ yếu từ cán cân vốn, tuy nhiên chủ yếu là nguồn vốn ngắn hạn, mang
tính chất đầu tư tập trung vào các lĩnh vực có nguy cơ bất ổn như thị trường
chứng khốn, thị trường bất động sản… Tác giả Nguyễn Hạnh Nguyên
76
(2014) cũng nêu nhận định rằng tình trạng thâm hụt cán cân vãng lai của
Việt Nam trong giai đoạn này cũng có phần xuất phát từ nguyên nhân thâm
hụt ngân sách nhà nước và nợ công cao. Nếu một quốc gia có cán cân vãng
lai bị thâm hụt, tình trạng lạm phát cao thì hậu quả rất đáng lo ngại đối với
đối với nền kinh tế. Đến năm 2011 Ngân hàng Nhà nước đã áp dụng các
biện pháp điều chỉnh tỷ giá, điều tiết cung cầu tiền tệ, tăng tỷ lệ tín dụng
nên thâm hụt tài khoản vãng lãi đã giảm xuống ở mức 0,7 tỷ USD, tương
đương 0,5% GDP. Kể từ năm 2012 cán cân vãng lai của Việt Nam thặng dư
và đạt mức 9,3 tỷ USD, cán cân vốn cũng thặng dư kéo theo cán cân thanh
toán quốc tế Việt Nam đã được thặng dư và kéo dài cho đến nay.
(3) Tài khoản vốn
Sau hơn 30 năm thực hiện đổi mới và cải cách nền kinh tế kể từ năm
1986, thị trường vốn Việt Nam đã có những thành tựu đáng kể, đóng góp
tích cực cho q trình đổi mới và phát triển kinh tế. Các dòng vốn vào và
ra là kênh làm tăng hoặc giảm khối lượng tiền trong nền kinh tế, các dịng
vốn có tính chất ngắn hạn cao thì càng biến động mạnh và thị trường càng
dễ bị tổn thương trước các cú sốc tài chính quốc tế. Điều này ảnh hưởng
đáng kể đến tính ổn định của hệ thống tài chính nói riêng và nền kinh tế
nói chung.
Năm 2000, hầu hết các doanh nghiệp được vay vốn từ hệ thống ngân
hàng với dư nợ tín dụng là 40% GDP, giá trị vốn hóa của thị trường cổ
phiếu là 0,28% GDP thì đến năm 2018 dư nợ tín dụng đã tăng lên 130% so
với GDP và giá trị vốn hóa của thị trường cổ phiếu là trên 70% GDP. Bên
cạnh đó, tổng dư nợ tồn thị trường trái phiếu năm 2018 đã đạt 37,45%
GDP, trong đó dư nợ trái phiếu chính phủ đạt 27,4% GDP. Cũng trong giai
đoạn này, số lượng các loại hình tham gia thị trường tài chính ngày càng
gia tăng, đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng gia tăng của nền kinh tế và đảm
bảo nhu cầu đa dạng hóa đầu tư. Cụ thể, đối với thị trường tín dụng ngân
hàng từ mức có 4 NHTM nhà nước và 4 NHTM cổ phần thì đến năm 2018
đã phát triển lên 4 NHTM nhà nước, 31 NHTM cổ phần với 8 NHTM
100% vốn nước ngồi; Đối với thị trường chứng khốn từ mức 7 cơng ty
chứng khốn vào năm 2000 đến năm 2018 đã có 76 cơng ty chứng khốn
và 46 cơng ty quản lý quỹ với vốn điều lệ 3785 tỷ đồng; Đối với thị trường
77
bảo hiểm có quy mơ tăng nhanh và đạt mức 2% GDP, số lượng doanh
nghiệp bảo hiểm tăng 63 doanh nghiệp bảo hiểm và doanh thu phí bảo
hiểm đạt 105.630 tỷ đồng vào năm 2018.
Riêng đối với nguồn đầu tư trực tiếp nước ngồi vào Việt Nam theo
số liệu cơng bố của Tổng cục Thống kê năm 2000 có 391 dự án đầu tư với
tổng vốn thực hiện đạt 2398,7 triệu USD thì đến năm 2018 có 3147 dự án
đầu tư với tổng vốn thực hiện đạt 19.100 triệu USD. Đối với nguồn vốn
đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Việt Nam năm 2018 có 15 dự án đầu tư
với tổng vốn đăng là 4,7 triệu USD, đến năm 2018 số vốn này tăng lên 155
dự án với tổng vốn đầu tư là 477,6 triệu USD.
(4) Tính thanh khoản và hợp lý của quy mô dự trữ ngoại hối
Quy mô dự trữ ngoại hối là một trong những chỉ tiêu quan trọng đối
với mọi quốc gia, nhất là đối với các quốc gia có nền kinh tế đang phát
triển như Việt Nam. Theo Phan Tiến Nam (2017) nếu một nước có lượng
dự trữ ngoại hối thấp hoặc quá mỏng sẽ gây sẽ gây ra tác động tiêu cực đến
khả năng thanh toán quốc tế cũng như an ninh tài chính tiền của nước đó.
Ngược lại nếu nguồn dự trữ ngoại hối quá lớn sẽ phát sinh chi phí cho việc
nắm giữ ngoại hối.
Kể từ năm 2000 đến nay dự trữ ngoại hối của Việt Nam tăng lên rõ rệt.
Trong đó, giai đoạn 2000 - 2006 quy mơ dự trữ ngoại hối của Việt Nam tương
đối ổn định và có mức tăng nhẹ và đạt mức 10,2 tỷ USD vào năm 2006. Các
giao dịch cán cân vãng lai và cán cân vốn cịn chưa được tự do hóa. Mặc dù
pháp lệnh ngoại hối ra đời từ năm 2005 nhưng chỉ chính thức có hiệu lực từ
tháng 6 năm 2006 nên quy mô dự trữ của giai đoạn tăng không đáng kể. Năm
2007 pháp lệnh quản lý ngoại hối đã có hiệu lực và thời điểm này Việt Nam
gia nhập WTO nên có nhiều điều kiện thuận lợi khiến quy mô dự trữ ngoại hối
tăng và đạt mức 11,7 tỷ USD vào năm 2007. Kể từ năm 2008 do những biến
động của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, tỷ giá và dự trữ ngoại hối của
Việt Nam cũng bị biến động, NHNN phải sử dụng quỹ dự trữ ngoại hối để can
thiệp vào thị trường làm cho dự trữ ngoại hối giảm đến quý 1 năm 2011. Kể
từ năm 2012 cho đến nay quy mô dự trữ ngoại hối gia tăng. Xét chỉ tiêu dự trữ
ngoại hối so với nhập khẩu, mặc dù dự trữ ngoại hối tại Việt Nam trong thời
gian gần đây liên tục tăng, nhưng so với tiêu chuẩn an toàn theo nhập khẩu do
78