BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIẾN TRÚC ĐÀ NẴNG
----- -----
BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI KHOA HỌC CÔNG NGHỆ CẤP TRƯỜNG
Tên đề tài:
Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến sức hấp
dẫn của điểm đến Đà Nẵng đối với khách du lịch
nội địa trong bối cảnh ảnh hưởng của Covid-19
Mã số đề tài: KTD 2020-003
Thuộc nhóm ngành Khoa học: Kinh tế
Chủ nhiệm đề tài: ThS. Lê Thái Phượng
ThS. Tô Văn Hạnh
ThS. Phạm Thị Chi
ThS. Huỳnh Tấn Phúc
Đà Nẵng, ngày 20 tháng 05 năm 2022
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIẾN TRÚC ĐÀ NẴNG
----- -----
BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI KHOA HỌC CÔNG NGHỆ CẤP TRƯỜNG
Tên đề tài:
Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến sức hấp
dẫn của điểm đến Đà Nẵng đối với khách du lịch
nội địa trong bối cảnh ảnh hưởng của Covid-19
Mã số đề tài: KTD 2020-003
Thuộc nhóm ngành Khoa học: Kinh tế
ĐƠN VỊ CHỦ TRÌ
(ký, ghi rõ họ và tên)
CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI
(ký, ghi rõ họ và tên)
Đà Nẵng, ngày 20 tháng 05 năm 2022
LỜI CẢM ƠN
------------Đề tài nghiên cứu được hoàn thành tại Khoa Du lịch - Trường Đại học
Kiến Trúc Đà Nẵng.
Nhóm tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến Ban lãnh đạo Nhà
Trường và Lãnh đạo Khoa Du lịch đã tạo mọi điều kiện trong quá trình thực
hiện đề tài.
Xin cảm ơn các bạn đồng nghiệp và các em sinh viên đã tham gia hỗ trợ
nhóm tác giả trong việc thu thập dữ liệu.
Đề tài nghiên cứu đã đạt được một số kết quả nhất định nhưng cũng
không tránh được các sai sót. Nhóm tác giả kính mong nhận được góp ý từ các
bạn đọc.
Xin chân thành cảm ơn !
Đà Nẵng, ngày 10 tháng 05 năm 2022
Chủ nhiệm đề tài
ThS. Lê Thái Phượng
LỜI CAM ĐOAN
------------Tên tôi là Lê Thái Phượng – Chủ nhiệm đề tài “ Nghiên cứu các nhân tố ảnh
hưởng đến sức hấp dẫn của điểm đến Đà Nẵng đối với khách du lịch nội địa trong bối
cảnh ảnh hưởng của COVID-19.” (Mã số KTD 2020-003). Tôi cam đoan đây là
cơng trình nghiên cứu của nhóm tác giả. Các số liệu, kết quả nêu trong đề tài là
trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Đà Nẵng, ngày 10 tháng 05 năm 2022
Chủ nhiệm đề tài
ThS. Lê Thái Phượng
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU
Số hiệu
Bảng 1.1
Bảng 2.1
Bảng 2.2
Bảng 2.3
Bảng 2.4
Bảng 2.5
Bảng 2.6
Bảng 2.7
Bảng 2.8
Bảng 3.1
Bảng 3.2
Bảng 3.3
Bảng 3.4
Bảng 3.5
Bảng 3.6
Bảng 3.7
Bảng 3.8
Bảng 3.9
Bảng 3.10
Bảng 3.11
Bảng 3.12
Bảng 3.13
Bảng 3.14
Bảng 3.15
Bảng 3.16
Bảng 3.17
Bảng 3.18
Bảng 3.19
Bảng 3.20
Bảng 3.21
Bảng 3.22
Tên bảng
Trang
Tổng hợp một số thuộc tính nổi bật
13
tạo nên sức hấp dẫn của điểm đến du lịch
Thống kê chuyên gia tham gia phỏng vấn sâu
28
Tổng hợp các nhân tố ảnh hưởng đến sức hấp dẫn của
điểm đến Đà Nẵng trong bối cảnh ảnh hưởng của Covid –
29
19
Tổng hợp các thang đo từ phỏng vấn chuyên gia
29
Thang đo nghiên cứu đề xuất
31
Mô tả mẫu khảo sát sơ bộ
33
Kết quả kiểm định độ tin cậy thang đo trong nghiên cứu
34
định lượng sơ bộ
Kết quả phân tích nhân tố khám phá trong nghiên cứu định
37
lượng sơ bộ
Thang đo nghiên cứu chính thức
39
Thống kê giới tính của mẫu nghiên cứu định lượng chính
41
thức
Thống kê độ tuổi của mẫu nghiên cứu định lượng chính
41
thức
Thống kê vùng miền của mẫu nghiên cứu định lượng
41
chính thức
Thống kê kinh nghiệm du lịch của mẫu nghiên cứu định
42
lượng chính thức
Thống kê sức hấp dẫn tự nhiên
42
Thống kê sức hấp dẫn văn hóa
42
Thống kê hoạt động, lễ hội, vui chơi giải trí
43
Thống kê cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất, an ninh an toàn
43
Thống kê giá cả sản phẩm, dịch vụ
44
Thống kê chính sách kích cầu trong bối cảnh Covid - 19
44
Thống kê nhận thức của du khách về bối cảnh Covid – 19
45
tại Đà Nẵng
Thống kê sức hấp dẫn của điểm đến Đà Nẵng
45
Kết quả đánh giá thang đo “Sức hấp dẫn tự nhiên” – Lần 1
45
Kết quả đánh giá thang đo “Sức hấp dẫn tự nhiên” – Lần 2
46
Kết quả đánh giá thang đo “Sức hấp dẫn văn hóa”
46
Kết quả đánh giá thang đo “Hoạt động, lễ hội, vui chơi
46
giải trí”
“Cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất, an ninh an toàn”
47
Kết quả đánh giá thang đo “Giá cả sản phẩm, dịch vụ”
47
Kết quả đánh giá thang đo “Chính sách kích cầu trong bối
47
cảnh Covid-19”
Kết quả đánh giá thang đo “Nhận thức của du khách về bối
48
cảnh Covid – 19 tại Đà Nẵng”
Kết quả phân tích nhân tố khám khá
48
Hệ số tải nhân tố của các biến quan sát
49
Bảng 3.23
Bảng 3.24
Bảng 3.25
Bảng 3.26
Bảng 3.27
Bảng 3.28
Bảng 3.29
Bảng 3.30
Bảng 3.31
Bảng 3.32
Bảng 3.33
Bảng 3.34
Bảng 3.35
Bảng 3.36
Kết quả kiểm định Pearson
Hệ số phóng đại phương sai của các biến độc lập
Kết quả đánh giá sự phù hợp của mơ hình hồi quy
Kết quả kiểm định hệ số hồi quy
Kết quả kiểm định các giả thuyết của mơ hình
Kết quả hệ số beta của biến điều tiết
Kết quả kiểm định sự khác biệt theo giới tính
Điểm đánh giá trung bình các thành phần theo giới tính
Kết quả kiểm định sự khác biệt theo độ tuổi
Điểm đánh giá trung bình các thành phần theo độ tuổi
Kết quả kiểm định sự khác biệt theo vùng miền
Điểm đánh giá trung bình các thành phần theo vùng miền
Kết quả kiểm định sự khác biệt theo kinh nghiệm du lịch
tại Đà Nẵng
Điểm đánh giá trung bình các thành phần theo kinh
nghiệm du lịch tại Đà Nẵng
50
52
54
54
55
56
57
57
58
58
58
59
59
59
DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ, HÌNH VẼ
Số hiệu
Hình 2.1
Hình 2.2
Hình 3.1
Hình 3.2
Hình 3.3
Hình 3.4
Tên hình
Quy trình nghiên cứu
Mơ hình nghiên cứu đề xuất
Đồ thị Scatterplot
Biểu đồ tần số của phần dư chuẩn hóa và biểu đồ
PP - Plot
Kết quả phân tích biến điều tiết NTC
Ảnh hưởng điều tiết của NTD trong mối quan hệ
giữa TTDD và SHDDD
Trang
26
30
50
51
56
56
THƠNG TIN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
1. Thơng tin chung
- Tên đề tài: Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến sức hấp dẫn của điểm đến
Đà Nẵng đối với khách du lịch nội địa trong bối cảnh ảnh hưởng của Covid-19.
- Mã số: KTD 2020-003
- Chủ nhiệm đề tài: ThS. Lê Thái Phượng
- Cơ quan chủ trì: Đại học Kiến trúc Đà Nẵng
- Thời gian thực hiện: 17 tháng (12/2020 đến 05/2022)
2. Mục tiêu đề tài
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về điểm đến du lịch, sức hấp dẫn của điểm đến du
lịch.
- Xác định các nhân tố ảnh hưởng đến sức hấp dẫn của điểm đến Đà Nẵng đối
với khách du lịch nội địa trong bối cảnh ảnh hưởng của Covid – 19.
- Xem xét nhận định của du khách về bối cảnh Covid – 19 có điều tiết lên mối
quan hệ giữa các thuộc tính điểm đến và sức hấp dẫn của điểm đến Đà Nẵng đối với
khách nội địa hay không.
- Đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao sức hấp dẫn của điểm đến Đà Nẵng đối
với khách du lịch nội địa trong bối cảnh Covid – 19.
3. Tính mới và sáng tạo
Hiện nay, đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu về sức hấp dẫn của điểm đến,
đặc biệt là các cơng trình nghiên nước ở nước ngồi. Tuy nhiên, các nhân tố và các
thuộc tính chưa có tính bao quát; hoạt động thể thao, giải trí, mua sắm, lưu trú, ăn
uống chỉ được xem xét ở góc độ cơ sở vật chất mà chưa đề cập đến các tính chất khác.
Tại Việt Nam, các chủ đề liên quan đến điểm đến như hình ảnh điểm đến, sự hài lịng
với điểm đến, sự quay lại của du khách với điểm đến… đã được các nhà nghiên cứu
quan tâm nhưng nghiên cứu về sức hấp dẫn của điểm đến vẫn còn hạn chế về số lượng,
nội dung cũng như phương pháp nghiên cứu.
Đề tài nghiên cứu này đã phát triển thêm các thuộc tính và xác định các nhân tố
ảnh hưởng đến sức hấp dẫn của điểm đến Đà Nẵng đối với khách du lịch nội địa. Đặc
biệt, nghiên cứu được thực hiện trong bối cảnh Covid-19 và xem xét tác động điều tiết
của “nhận thức của du khách về bối cảnh covid 19 tại Đà Nẵng”. Do đó, nghiên cứu có
tính mới và tính thực tiễn.
Ngồi ra, nghiên cứu sử dụng kết hợp hai phương pháp nghiên cứu là nghiên
cứu định tính và nghiên cứu định lượng, trong đó nghiên cứu định lượng ứng dụng
SPSS và SmartPLS. Sự ứng dụng SmartPSL là một sự sáng tạo bởi đây là công cụ khá
mới trong các nghiên cứu hiện nay.
4. Kết quả nghiên cứu
Báo cáo nghiên cứu khoa học cấp Trường
5. Sản phẩm
Hai bài viết được đăng ở Tạp chí thuộc danh mục Hội đồng giáo sư ngành Kinh
tế.
STT
1
Các thuộc tính cấu thành nên sức hấp dẫn của điểm
2
Các nhân tố ảnh hưởng đến sức hấp dẫn của điểm
6. Hiệu quả, phương thức chuyển giao kết quả nghiên cứu và khả năng áp dụng
- Đề tài có thể được sử dụng là tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu và
sinh viên.
- Kết quả nghiên cứu có thể hỗ trợ cho các doanh nghiệp du lịch và cơ quan
quản lý nhà nước về du lịch trong việc hoạch định chính sách nhằm thu hút khách du
lịch nội địa trong bối cảnh Covid-19.
Đơn vị chủ trì
Đà Nẵng, ngày 20 tháng 05 năm 2022
Chủ nhiệm đề tài
1. Lý do chọn đề tài
Theo báo cáo kết quả công tác ngành du lịch Đà Nẵng trong năm 2019, tổng
lượt khách do cơ sở lưu trú du lịch phục vụ ước đạt 5.917.222 lượt khách, tăng 26% so
cùng kỳ năm 2018; trong đó, khách quốc tế ước đạt 3.497.561 lượt, tăng 30,7% so với
cùng kỳ năm 2018; khách nội địa ước đạt 2.419.661 lượt, tăng 19,8% so với cùng kỳ
năm 2018 (Sở du lịch thành phố Đà Nẵng, 2019). Điều này chứng tỏ du lịch đang từng
bước trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của thành phố Đà Nẵng.
Phần lớn lý do khách lựa chọn điểm đến Đà Nẵng là nhờ có mơi trường sạch
đẹp, thành phố năng động, từng bước hiện đại, an toàn với phong cảnh thiên nhiên đa
dạng, phong phú, nhiều điều thú vị để trải nghiệm và khám phá. Bên cạnh đó, giá cả
hàng hóa, dịch vụ ổn định, có nhiều mức giá dịch vụ khác nhau và vẫn giữ được những
nét văn hóa truyền thống tạo nên một hình ảnh, dấu ấn riêng. Tuy nhiên, Đà Nẵng đang
phải cạnh tranh với nhiều điểm đến cả trong nước và quốc tế.
Ngoài ra, đại dịch Covid – 19 đã và đang tác động rất lớn đến nền kinh tế trong
đó du lịch là một trong những ngành chịu tác động mạnh mẽ nhất. Trong quý 1 năm
2020, tổng lượt khách đến tham quan, du lịch Đà Nẵng ước đạt trên 1,8 lượt khách,
giảm gần 56% so với cùng kỳ 2019, trong đó khách quốc tế giảm trên 62 so với cùng
kỳ 2019; tổng thu từ du lịch ước đạt 7.466 tỷ đồng, giảm 49,2% so với cùng kỳ năm
2019 (Quang Hải, 2020). Trong thời gian tới, việc thu hút khách quốc tế vẫn còn nhiều
trở ngại. Chính vì vậy, thị trường khách nội địa là thị trường mục tiêu mà các điểm du
lịch hướng đến. Việc xác định các nhân tố ảnh hưởng đến sức hấp dẫn của điểm đến
Đà Nẵng đối với khách du lịch nội địa trong bối cảnh ảnh hưởng của Covid – 19 sẽ là
cơ sở để đưa ra các giải pháp thu hút khách nội địa đến với Đà Nẵng sau khi Covid –
19 được kiểm soát và định hướng nâng cao sức hấp dẫn của điểm đến Đà Nẵng trong
tương lai.
2. Mục tiêu đề tài
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về điểm đến du lịch, sức hấp dẫn của điểm đến du
lịch.
- Xác định các nhân tố ảnh hưởng đến sức hấp dẫn của điểm đến Đà Nẵng đối
với khách du lịch nội địa trong bối cảnh ảnh hưởng của Covid – 19.
- Xem xét nhận định của du khách về bối cảnh Covid – 19 có điều tiết lên mối
quan hệ giữa các thuộc tính điểm đến và sức hấp dẫn của điểm đến Đà Nẵng đối với
khách nội địa hay không.
- Đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao sức hấp dẫn của điểm đến Đà Nẵng đối
với khách du lịch nội địa trong bối cảnh Covid – 19.
10
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Sức hấp dẫn của điểm đến Đà Nẵng đối với khách du lịch nội địa trong bối cảnh
ảnh hưởng của Covid – 19.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi thời gian nghiên cứu: Khảo sát được thực hiện trong khoảng thời gian
từ tháng 04/2020 đến tháng 12/2021.
- Phạm vi không gian: Thành phố Đà Nẵng và các tỉnh thành trong nước.
4. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cách tiếp cận
Thông qua hệ thống cơ sở lý luận, tác giả xây dựng mơ hình và thang đo các
nhân tố ảnh hưởng đến sức hấp dẫn của điểm đến Đà Nẵng đối với khách du lịch nội
địa trong bối cảnh ảnh hưởng của Covid – 19. Thang đo được hiệu chỉnh sau khi lấy ý
kiến chuyên gia. Kết quả nghiên cứu được rút ra sau khi nghiên cứu chính thức và làm
cơ sở để nhóm tác giả đề xuất một số kiến nghị.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài kết hợp 2 phương pháp nghiên cứu là phương pháp định tính và phương
pháp định lượng. Phương pháp định tính nhằm hệ thống hóa cơ sở lý luận về sức hấp
dẫn của điểm đến qua đó xây dựng mơ hình đề xuất và các thang đo cho mơ hình. Sau
đó, tác giả thực hiện lấy ý kiến chuyên gia để hoàn chỉnh mơ hình. Cuối cùng là sử
dụng phương pháp định lượng với sự hỗ trợ của phần mềm SPSS và SmartPLS để
phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến sức hấp dẫn của điểm đến Đà Nẵng đối với khách
nội địa trong bối cảnh ảnh hưởng của Covid – 19; xem xét vai trò điều tiết của nhận
định của du khách về bối cảnh Covid – 19 đối với các mối quan hệ.
5. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Có rất nhiều nghiên cứu trong nước và ngoài nước về sức hấp dẫn của điểm đến
du lịch. Theo Naser và cộng sự (2021), sức hấp dẫn của điểm đến du lịch có tính chất
đa chiều, các thuộc tính kết hợp với nhau để tạo nên sức hấp dẫn cho điểm đến.
Nghiên cứu của Gearing và cộng sự (1974) là một trong những nghiên cứu nền
tảng của sức hấp dẫn điểm đến. Nghiên cứu này đã đưa ra 17 thuộc tính tạo nên sức
hấp dẫn của điểm đến du lịch và phân thành 5 nhóm, gồm: (1) Các yếu tố tự nhiên; (2)
Các yếu tố xã hội; (3) Các yếu tố lịch sử; (4) Cơ sở vật chất giải trí và mua sắm; (5)
Cơ sở hạ tầng, thức ăn và lưu trú.
Sau đó, Var và cộng sự (1977) đã kế thừa và sử dụng mơ hình của Gearing và
cộng sự (1974) để đánh giá sức hấp dẫn tại British Columbia thuộc Canada.
Ritchie và Zins (1978) áp dụng 17 tiêu chí trong nghiên cứu của Gearing ;và
cộng sự (1974) để tìm hiểu về sức hấp dẫn của Quebec, Canada. Qua đó, 8 nhân tố ảnh
11
hưởng đến sức hấp dẫn của Quebec được xác định theo thứ tự giảm dần: (1) Tự nhiên
và khí hậu, (2) Đặc điểm văn hóa và xã hội, (3) Khả năng tiếp cận điểm đến, (4) Thái
độ đối với khách du lịch, (5) Cơ sở hạ tầng của điểm đến, (6) Mức giá, (7) Cơ sở vật
chất thể thao, giải trí và giáo dục.
Tương tự, Hu và Ritchie (1993) đã kế thừa các thuộc tính của Gearing và cộng
sự (1974) để nghiên cứu sức hấp dẫn tại 5 điểm đến là Hawaii, Australia, Hy Lạp,
Pháp và Trung Quốc. Tuy nhiên, tác giả đã điều chỉnh các thuộc tính cho phù hợp với
bối cảnh. Chẳng hạn như thêm thuộc tính rào cản ngôn ngữ, khả năng tiếp cận điểm
đến, giá cả ...
Ngoài ra, nhiều tác giả trên thế giới đã nghiên cứu sức hấp dẫn của điểm đến du
lịch dựa trên nền tảng của Gearing và cộng sự (1974) và Hu và Ritchie (1993), một số
cơng trình tiêu biểu như:
- Nghiên cứu của Krešić và cộng sự (2011) nhằm xác định các chỉ số hấp dẫn
của điểm đến tại 6 quận ven Croatian và Dubrovnik-Neretva. Tác giả đã xây dựng 19
thuộc tính cho sức hấp dẫn điểm đến và phân loại thành 6 nhóm nhân tố, gồm: (1) Ăn
uống và lưu trú, (2) Các hoạt động tại điểm đến, (3) Đặc điểm tự nhiên, (4) Vẻ đẹp
điểm đến, (5) Bảo vệ mơi trường, (6) Chính sách Marketing.
- Nghiên cứu của Klufová (2016) nhằm đánh giá sức hấp dẫn của khu vực Nam
Bohemia. Tác giả đã đề xuất 8 nhân tố ảnh hưởng đến sức hấp dẫn điểm đến gồm: (1)
Điểm tham quan tự nhiên; (2) Điểm tham quan lịch sử,; (3) Điểm tham quan tơn giáo;
(4) Điểm tham quan văn hóa; (5) Cơ sở thể thao; (6) Cơ sở lưu trú; (7) Cơ sở ăn uống;
(8) Điểm tham quan vùng nông thôn.
- Nghiên cứu của Dimitrov và cộng sự (2017) về sức hấp dẫn điểm đến tại
Bulgaria. Kết quả cho thấy 8 nhân tố ảnh hưởng đến sức hấp dẫn của điểm đến
Bulgaria là: Dịch vụ, tự nhiên, văn hóa, lưu trú, giá cả, điều kiện tiếp cận, cơ sở hạ
tầng, giải trí.
- Nghiên cứu của Islam và cộng sự (2017) nhằm xác định các nhân tố ảnh
hưởng đến sức hấp dẫn của các điểm đến dựa trên tài nguyên tự nhiên của Bangladesh.
Tác giả đã đưa ra 24 thuộc tính và phân thành 4 nhóm nhân tố gồm: Cơ sở hạ tầng du
lịch, yếu tố lịch sử và văn hóa, yếu tố tự nhiên, phương tiện truyền thông và lối sống
tương đồng.
- Nghiên cứu của Reitsamera và cộng sự (2016) nhằm xác định ảnh hưởng của
sức hấp dẫn đến sự gắn kết điểm đến với tác động trung gian là thái độ của du khách.
Trong đó, sức hấp dẫn điểm đến được tạo ra bởi 4 thành phần là khả năng tiếp cận, sự
tiện nghi, cộng đồng địa phương và phong cảnh.
- Nghiên cứu của Chaudhary & Islam (2021) về các chỉ số xác định sức hấp dẫn
điểm đến được thực hiện tại thung lũng Kashmir, Ấn Độ. Tác giả đã đưa ra 39 thuộc
12
tính và phân vào 11 nhóm gồm: Vấn đề vệ sinh, địa điểm ăn uống, phương tiện vận
chuyển, cơ sở lưu trú, website, phương tiện truyền thông, giá cả, yếu tố văn hóa, các
tiện nghi du lịch, yếu tố tự nhiên, các hoạt động du lịch.
Đối với trong nước, các vấn đề liên quan đến điểm đến như hình ảnh điểm đến,
sự hài lòng với điềm đến, sự quay lại của du khách với điểm đến … đã được các nhà
nghiên cứu quan tâm. Tuy nhiên, chưa có nhiều cơng trình nghiên cứu về sức hấp dẫn
của điểm đến. Hai cơng trình tiêu biểu nhất về sức hấp dẫn của điểm đến có thể kể đến
là nghiên cứu của Bùi Thị Tám và Mai Lệ Quyên (2012) và Lê Thúy Vy (2019).
Mơ hình nghiên cứu của Bùi Thị Tám và Mai Lệ Qun (2012) được hình thành
dựa trên mơ hình của Hu và Ritchie (1993) và bổ sung thêm thuộc tính “an tồn của
điểm đến”. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng mặc dù các yếu tố tài nguyên du lịch của
Huế được đánh giá tương đối nổi trội, nhưng các yếu tố sản phẩm và dịch vụ cơ bản
thì vẫn chưa tạo cơ hội lựa chọn tốt nhất cho du khách và do vậy hạn chế đến khả năng
thu hút du khách của điểm đến.
Tương tự như vậy, mô hình nghiên cứu của Lê Thúy Vy (2019) cũng được xây
dựng trên cơ sở kế thừa kết quả nghiên cứu của Hu và Ritchie (1993). Tác giả đã đưa
ra 5 nhân tố ảnh hưởng đến khả năng thu hút khách của vùng Dun hải phía đơng
đồng bằng sơng Cửu Long gồm: (1) các yếu tố tự nhiên, (2) các yếu tố văn hóa – xã
hội, (3) các yếu tố lịch sử, (4) các điều kiện giải trí và mua sắm (điều kiện vật chất),
(5) cơ sở hạ tầng, ẩm thực và lưu trú (các đặc tính bổ trợ). Kết quả phân tích hồi quy
tuyến tính cho thấy, các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng thu hút khách du lịch của vùng
Dun hải phía Đơng đồng bằng sơng Cửu Long lần lượt theo mức độ ảnh hưởng từ
cao đến thấp là: yếu tố tự nhiên, văn hóa xã hội và các đặc tính hỗ trợ.
6. Bố cục đề tài nghiên cứu
Bên cạnh phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục thì đề tài gồm 4
chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về sức hấp dẫn của điểm đến du lịch
Chương 2: Giới thiệu điểm đến Đà Nẵng và thiết kế nghiên cứu
Chương 3: Kết quả nghiên cứu về sức hấp dẫn của điểm đến Đà Nẵng trong bối
cảnh ảnh hưởng của Covid – 19.
Chương 4: Kết luận và kiến nghị
13
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỨC HẤP DẪN ĐIỂM ĐẾN DU LỊCH
1.1. Tổng quan về điểm đến du lịch
1.1.1. Khái niệm điểm đến du lịch
Tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO) định nghĩa Du lịch là "Các hoạt động của
một người đi đến và ở lại những nơi bên ngồi mơi trường thơng thường của họ khơng
q thời gian một năm liên tục để giải trí, kinh doanh và các mục đích khác" (World
Tourism Organization. 1995:1). Bản chất Du lịch có chứa đựng các yếu tố về khơng
gian (bên ngồi mơi trường thơng thường) và thời gian (khơng q 1 năm). Yếu tố
khơng gian là bên ngồi mơi trường thông thường, tức là nơi cư trú thường xuyên của
họ, là một địa điểm cụ thể nhằm thỏa mãn nhu cầu theo mục đích của chuyến đi. Khu
vực khách tới có thể là một địa danh, một vùng, một quốc gia, một khu vực, thậm chí
có thể là một châu lục, và được thống nhất một thuật ngữ chung là điểm đến du lịch.
Theo Fletcher và cộng sự (2017), mặc dù điểm đến là thành phần cốt lõi cấu
thành nên du lịch, nhưng đối với cả những chuyên gia trong ngành du lịch thì điểm đến
vẫn là một thuật ngữ khó xác định về mặt khái niệm, nguyên do chính là ở sự khơng rõ
ràng về mặt ranh giới, có thể là hành chính, chính trị hoặc đơn giản là vị trí địa lý hoặc
các phương tiện tạo ra sự không thoải mái cho khách. (Davidson & Maitland, 1997:4)
xác định "điểm đến là một quận, huyện, thị xã hoặc một thành phố hoặc được xác định
một cách rõ ràng có thể bao gồm nơng thơn, ven biển hoặc miền núi".
Buhalis (2000:97) cho rằng, tùy thuộc vào nhân tố chủ quan của người tiêu
dùng, tùy thuộc vào hành trình du lịch, với những hiểu biết, nền tảng văn hóa, mục
đích chuyến thăm trình độ học vấn, kinh nghiệm trước đó mà điểm đến có thể được
hiểu theo nghĩa rộng hơn. Chẳng hạn, London có thể là điểm đến của một người Đức
đi cơng tác, nhưng Châu Âu có thể là điểm đến của một khách du lịch Nhật Bản, với
chuyến hành trình 6 nước Châu Âu trong chuyến du lịch kéo dài 2 tuần.
Theo quan điểm Marketing, Buhalis (2000:98) giải thích điểm đến "là một tổ
hợp các sản phẩm du lịch và các dịch vụ, được sử dụng dưới tên thương hiệu của điểm
đến". Papatheodorou (2006:4) nhìn nhận theo quan điểm thị trường thì điểm đến là
"một khu vực địa lý có quy mơ lãnh thổ thay đổi, nơi du lịch là hoạt động chiếm ưu thế
cả từ phía nhu cầu (khách du lịch) và quan điểm từ phía cung (cơ sở hạ tầng và việc
làm)". Tuy nhiên, khái niệm này khơng có bất kỳ tham chiếu nào với bản chất của Du
lịch, đồng thời Du lịch không nhất thiết phải là hoạt động kinh tế chủ yếu tại điểm đến
đó.
Trong nỗ lực đưa ra sự nhìn nhận cụ thể hơn về điểm đến, Tổ chức Du lịch thế
giới đã đưa ra thuật ngữ "điểm đến địa phương" (local tourism destination) và định
nghĩa đó là "một khơng gian vật lý trong đó khách du lịch ở ít nhất một đêm". Và các
điểm đếm địa phương "có ranh giới về mặt địa lý và được quản lý về mặt hành chính".
14
Từ các điểm đến địa phương có thể "lồng ghép, kết nối với nhau để trở thành các điểm
đến lớn hơn" (World Tourism Organization, 2007:1).
Những nhìn nhận của Tổ chức du lịch thế giới về điểm đến hoàn toàn gắn liền
với bản chất của du lịch, nó chứa đựng các yếu tố về mặt không gian (không gian vật
lý) và thời gian (ít nhất 1 đêm). Những điểm đến địa phương có thể có những hợp tác,
kết nối với nhau để tạo thành điểm đến lớn hơn, đó chính là hiện tượng "liên kết vùng"
trong phát triển du lịch. Sự liên kết này càng thể hiện ở nhiều lĩnh vực thì hình ảnh
điểm đến càng rõ nét hơn trong nhận thức của khách du lịch. Các điểm đến có thể "ở
bất kỳ quy mơ nào", có thể là "một quốc gia" (chẳng hạn Việt Nam là một điểm đến),
"một khu vực" (Ex: khu vực Miền Trung, Miền Tây…), "một đảo" (Ex: Phú Quốc,
Côn Đảo…), "đến một ngôi làng, thị trấn hoặc thành phố, hoặc một trung tâm khép
kín" (World Tourism Organization, 2007:1).
Tại Việt Nam, theo Hà Nam Khánh Giao: “Điểm đến du lịch là 1 điểm mà
chúng ta có thể cảm nhận được bằng đường biên giới về địa lý, đường biên giới về
chính trị hay đường biên giới về kinh tế, có tài nguyên du lịch hấp dẫn, có khả năng
thu hút và đáp ứng được nhu cầu của khách du lịch” (Hà Khánh Nam Giao, 2011).
Với khái niệm này, tác giả đã đưa thêm yếu tố chủ quan (sự cảm nhận) để nhìn nhận,
đánh giá về khơng gian điểm đến, và đánh giá chủ quan đó có thể dựa vào những đặc
điểm về đường biên giới địa lý, chính trị, tài nguyên du lịch…với mục đích đáp ứng
nhu cầu của du khách.
Như vậy, với những quan điểm, khái niệm của các nhà nghiên cứu trong và
ngồi nước, có thể đưa ra một số kết luận như sau:
Về mặt khơng gian: điểm đến khơng có ranh giới, quy mơ rõ ràng. Đó có thể là
một khu vực rộng lớn (Châu lục) hoặc một vùng (Tây Âu, Bắc Á…), hoặc một vùng
nhỏ hẹp chỉ trong phạm vi một làng, một hịn đảo, hay một trung tâm khép kín.
Về mặt thời gian: thống nhất thời gian khách dừng lại ít nhất 1 đêm.
Về các hoạt động: tại đây diễn ra các hoạt động kinh tế - xã hội có liên quan tới
du lịch, đáp ứng nhu cầu đi du lịch của khách.
1.1.2. Phân loại điểm đến du lịch
Có thể thấy, tất cả các điểm đến đều có những hợp phần cơ bản như: Tài
nguyên, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch, cơ sở hạ tầng,…, đều có sức hấp dẫn đối với
du khách, đầu nhằm mục đích phục vụ nhu cầu du lịch của khách và mang lại lợi
nhuận cho các nhà đầu tư, các địa phương và cộng đồng dân cư. Tuy nhiên, mỗi điểm
đến du lịch đều có những sự khác biệt và chính sự khác biệt này đã tạo thành sức hấp
dẫn riêng và khả năng cạnh tranh giữa chúng. Theo từng tiêu chí phân loại, có thể chia
thành nhiều loại điểm đến khác nhau.
15
Theo phạm vi địa lý, điểm đến thường chia thành những cấp độ sau:
- Điểm đến du lịch mang tính chất khu vực:
Tổ chức du lịch thế giới (UNWTO) đã chia 157 nước thành viên của tổ chức
này trên thế giới ra làm 6 khu vực du lịch, đó là các khu vực: châu Phi, châu Mỹ, châu
Á - Thái Bình Dương, châu Âu, Trung Đơng và Nam Á. Sự phân chia các điểm đến du
lịch này không chỉ cho biết số lượng khách du lịch quốc tế của khu vực mà còn cho
biết thu nhập du lịch từ khu vực này. Mỗi khu vực khơng chỉ đón tiếp khách du lịch
quốc tế từ các châu lục khác đến mà cịn đón tiếp khách du lịch từ các nước trong khu
vực.
- Điểm đến du lịch mang tính phạm vi quốc gia:
Các nước trong khu vực vừa hợp tác với nhau để xây dựng hình ảnh điểm đến
du lịch của khu vực, nhưng cũng vừa cạnh tranh và thu hút nguồn khách đến với đất
nước mình. Mỗi nước đẩy mạnh tuyên truyền, quảng cáo và xúc tiến du lịch để xây
dựng hình ảnh của đất nước trong tâm trí của mọi người trên thế giới như một điểm du
lịch "an toàn và thân thiện". Để thu hút được nguồn khách quốc tế, ngoài việc tuyên
truyền, quảng cáo và xúc tiến du lịch, mỗi nước phải tiến hành hoàn thiện các quy định
pháp luật, một mặt tạo điều kiện thuận lợi và dễ dàng cho khách đến du lịch, mặt khác
tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp du lịch kinh doanh có hiệu
quả. Bên cạnh đó, các nước phải tiến hành xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ
cho sự phát triển du lịch như: sân bay, bến cảng, nhà ga, đường sá, điện, nước, thông
tin liên lạc... Có thể thấy, trong các nước ASEAN, nhiều nước như: Thái Lan,
Malaysia, Singapore đã miễn thị thực (visa) cho công dân của trên 40 nước công
nghiệp phát triển đến du lịch tại các nước này và công dân của các nước trong khối đi
du lịch trong ASEAN không cần đến thị thực.
- Điểm du lịch mang tính địa phương:
Nhiều điểm du lịch khơng chỉ mang tính địa phương mà là thương hiệu du lịch
của quốc gia. Nói đến Thái Lan người ta thường hình dung đến điểm du lịch Pattaya,
Phuket, nói đến Indonesia người ta nghĩ đến điểm du lịch Bali, hoặc nói đến du lịch
nước Mỹ người ta mong muốn đến điểm du lịch Las Vegas... Các điểm đến du lịch này
hàng năm thu hút hàng triệu lượt khách quốc tế. Ví dụ, mỗi năm Las Vegas thu hút
khoảng 40 triệu lượt khách du lịch, Pattaya và Bali đón tiếp và phục vụ từ 4 - 5 triệu
lượt khách quốc tế.
Tại Việt Nam, căn cứ vào quy mô lãnh thổ của điểm đến, điểm đến được phân
loại thành vùng du lịch, trung tâm du lịch, điểm du lịch và khu du lịch. Cách phân loại
này được thể hiện ở Chiến lược du lịch quốc gia, quy hoạch phát triển du lịch quốc gia.
Căn cứ vào không gian địa lý, các điểm đến được phân loại thành các điểm đến
du lịch vùng núi, vùng ven biển, hải đảo, đô thị, nông thôn,… Tuy nhiên, cách phân
16
loại này chỉ được áp dụng về mặt lý thuyết trong các giáo trình giảng dạy đại học
chuyên ngành địa lý, du lịch mà chưa có văn bản quy định chính thống.
1.2. Tổng quan về sức hấp dẫn của điểm đến du lịch
1.2.1. Khái niệm sức hấp dẫn điểm đến du lịch
Hu và Ritchie (1993) khái niệm sức hấp dẫn của một điểm đến du lịch là những
cảm xúc, niềm tin và nhận định của một cá nhân về khả năng mà một điểm đến có thể
đáp ứng kỳ vọng của họ trong kỳ nghỉ.
Mayo và Jarvis (1981) đã đưa ra khái niệm về sức hấp dẫn của điểm đến bằng
cách liên hệ giữa quá trình ra quyết định của khách du lịch với những lợi ích thực có
mà khách du lịch nhận được. Sức hấp dẫn của điểm đến là mối tương quan giữa những
lợi ích mà khách hàng quan tâm với nhận định của họ về khả năng đáp ứng của điểm
đến.
Lue, Crompton, và Stewart (1996) cho rằng sức hấp dẫn của điểm đến du lịch là
những gì ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn chuyến du lịch của khách du lịch.
Kresic và Prebežac (2011) đưa ra khái niệm sức hấp dẫn của điểm đến du lịch
từ việc phân tích các yếu tố hấp dẫn của điểm đến du lịch. Các yếu tố hấp dẫn của
điểm đến du lịch là các yếu tố cụ thể của điểm đến có khả năng thu hút du khách (yếu
tố khí hậu, cảnh quan, các hoạt động tại điểm đến, v.v.). Như vậy, các yếu tố hấp dẫn
của điểm đến du lịch là những biểu hiện vật chất của điểm đến còn sức hấp dẫn của
điểm đến du lịch là những hình ảnh trong tâm trí du khách.
Trong các khái niệm mơ tả ở trên, có thể thấy rằng sức hấp dẫn của điểm đến du
lịch những đánh giá của khách du lịch về khả năng mà điểm đến có thể đáp ứng nhu
cầu trong chuyến du lịch của họ. Nó được hình thành từ các thuộc tính của điểm đến
du lịch. Gearing và cộng sự (1974) phân loại các thuộc tính này thành 5 nhóm chính
sau: (1) các yếu tố tự nhiên; (2) các yếu tố xã hội; (3) các yếu tố lịch sử; (4) các cơ sở
giải trí và mua sắm; (5) cơ sở hạ tầng, thức ăn và lưu trú (Trích dẫn bởi Nghĩa, Nhi và
Tuấn, 2017)
1.2.2. Vai trị của sức hấp dẫn đối với điểm đến du lịch
Các nghiên cứu cho rằng sức hấp dẫn của điểm đến là động lực của du lịch và
nếu khơng có nó thì du lịch gần như khơng tồn tại. Theo Kim và Lee (2002), điểm đến
càng đáp ứng được nhu cầu của du khách thì điểm đến đó càng được coi là hấp dẫn và
xác suất được chọn làm điểm đến cuối cùng càng lớn.
Ngoài ra, sự phát triển kinh tế làm tăng thu nhập dẫn đến gia tăng các hoạt động
du lịch và cả tính cạnh tranh của các địa điểm du lịch. Bởi vậy, để thu hút nhiều khách
du lịch hơn các địa điểm du lịch cần hướng tới việc tạo ra sự hài lịng và tăng tính
trung thành của du khách. Các nghiên cứu cho thấy gia tăng tính hấp dẫn của điểm đến
có tác động tích cực đến sự hài lòng của du khách (Ibrahim & Gill, 2005; Lee, 2009)
17
và tính trung thành của họ (Lee, 2009; Horng et al, 2012) (Trích theo Đức & Kiên,
2017).
1.3. Các nhân tố và thuộc tính cấu thành sức hấp dẫn của điểm đến du lịch
1.3.1. Các nhân tố cấu thành sức hấp dẫn của điểm đến
Điểm đến du lịch chứa đựng rất nhiều yếu tố tác động đến nhu cầu du lịch của
con người và là một động lực thu hút khách đến du lịch. Những yếu tố này rất phong
phú và đa dạng, nhưng điều quan trọng nó phải tạo ra sự chú ý và sức thu hút khách du
lịch không chỉ ở trong nước mà cả khách nước ngoài.
Các nhân tố cấu thành nên sức hấp dẫn của điểm đến được nhiều tác giả nước
ngoài và trong nước đưa ra ở nhiều khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên, các nhân tố này
đều xuất phát từ: (1) Tài nguyên du lịch; (2) Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất du lịch;
(3) Các sản phẩm, dịch vụ du lịch; (4) Marketing điểm đến; (5) Nhân lực phục vụ du
lịch; (6) Cộng đồng địa phương.
1.3.1.1. Tài nguyên du lịch
Trong các yếu tố cấu thành nội dung của một chuyến đi du lịch, tài ngun du
lịch đóng vai trị là động cơ, thúc đẩy nhu cầu của khách hàng lựa chọn điểm đến và là
một yếu tố không thể thiếu trong việc tạo ra sản phẩm du lịch. Tài nguyên du lịch là
cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên, di tích lịch sử - văn hóa, cơng trình lao động
sáng tạo của con người và các giá trị nhân văn khác có thể được sử dụng nhằm đáp
ứng nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ bản để hình thành các khu du lịch, điểm du lịch,
tuyến du lịch, đô thị du lịch. Tài nguyên du lịch bao gồm tài nguyên du lịch tự nhiên
(địa chất, địa hình, địa mạo, khí hậu, thuỷ văn, hệ sinh thái, cảnh quan tự nhiên) và tài
nguyên du lịch nhân văn (bao gồm các di tích lịch sử - văn hóa, di tích lịch sử cách
mạng, các lễ hội, các kiến trúc đô thị, cảnh quan, các làng nghề thủ công truyền
thống...).
Tài nguyên du lịch bao gồm cả tài nguyên đã, đang và sẽ khai thác có giá trị hấp
dẫn con người và mang nét đặc thù của lĩnh vực du lịch. Tài nguyên du lịch rất dễ khai
thác, có những loại tài nguyên có thể khai thác ngay từ lúc nguyên sơ, càng nguyên sơ
thì càng có nhiều sự hấp dẫn du khách. Tài nguyên du lịch có thể khai thác nhiều lần
để tạo ra sản phẩm du lịch nhưng không phải là bất biến mà ngược lại rất dễ bị tổn
thương nên cần phải được bảo tồn, tơn tạo, bảo vệ, hồn thiện và phát triển nó trong
q trình khai thác, phục vụ cho sự phát triển của du lịch.
Nhìn chung, tài nguyên du lịch mang tính đa dạng, phong phú; thể hiện tính đa
giá trị, có tính hấp dẫn về nhiều mặt cả vơ hình và hữu hình. Chính nhờ vào sự đa
dạng, phong phú, đặc sắc và mới mẻ của tài nguyên du lịch mà sản phẩm du lịch mới
có thể hấp dẫn và đáp ứng được nhu cầu đa dạng của khách du lịch. Bên cạnh đó, tài
nguyên du lịch cũng ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật du
18
lịch, kết cấu hạ tầng và nguồn nhân lực du lịch - đây là các nhân tố quan trọng để du
khách đánh giá chất lượng của sản phẩm du lịch mà mình tiêu dùng.
1.3.1.2. Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất du lịch
Một điểm đến du lịch có thể có sức hấp dẫn đối với khách du lịch nhưng vẫn
khơng thể khai thác được vì việc tiếp cận điểm đến đó hết sức khó khăn. Vấn đề tiếp
cận điểm đến du lịch thuận lợi phụ thuộc rất lớn vào cơ sở hạ tầng kỹ thuật. Khoảng
cách giữa điểm đến du lịch và nguồn khách (hay giữa điểm đi và điểm đến) là một
trong những yếu tố về khả năng tiếp cận. Điều này chỉ thuận lợi khi có mạng lưới các
phương tiện giao thông vận chuyển khách đa dạng, thuận tiện, dễ dàng, an tồn và
nhanh chóng. Đó là mạng lưới của các hãng hàng không, mạng lưới đường bộ, đường
sắt, đường thủy và đường biển, cùng những thuận lợi về thông tin liên lạc, điện, nước.
Bên cạnh cơ sở hạ tầng, nhu cầu đi lại, mua sắm, nghỉ ngơi, vui chơi giải trí,
thưởng thức ẩm thực địa phương… là một trong những nhu cầu thiết yếu của con
người. Để thỏa mãn được nhu cầu thiết yếu này ở điểm đến du lịch, địi hỏi phải có sức
hút đặc biệt, bởi nó khơng chỉ đáp ứng nhu cầu sinh hoạt mà còn là thỏa mãn các nhu
cầu tâm lý khác. Đối tượng thỏa mãn nhu cầu này tại điểm đến là các dịch vụ vận
chuyển (ô tô, xe đạp, xích lơ…), các cơ sở lưu trú, các nhà hàng, quán rượu, các cơ sở
mua sắm, các sản phẩm ăn uống... Yêu cầu đối với những dịch vụ này là chất lượng,
vệ sinh, an toàn, phong cách. Sức hấp dẫn của nhân tố này được tạo ra bởi ưu thế về vị
trí, phong cách kiến trúc, trang trí nội thất, thực đơn ăn uống và tổ chức trong khâu
phục vụ. Phong cách kiến trúc và tập quán ăn uống ở điểm đến du lịch nào đó phải giới
thiệu được với du khách bản sắc văn hóa, nền văn minh của bản địa ở điểm du lịch đó.
Trang trí nội thất phải bảo đảm tính thẩm mỹ, tính tiện nghi, hiện đại, độc đáo và vệ
sinh. Đối với mỗi loại thức ăn, đồ uống cần làm nổi bật được những nét đặc trưng về
hương vị và kiểu cách của chúng, đặc biệt những món ăn mang tính chất đặc sản của
điểm đến du lịch. Khâu tổ chức phục vụ đóng vai trò rất quan trọng, ảnh hưởng đến
quyết đinh sử dụng hay không sử dụng dịch vụ, quay lại hay khơng quay lại điểm đến,
do đó năng lực chun mơn đối với từng nghiệp vụ, phong cách giao tiếp và thái độ
của người phục vụ là rất quan trọng. Đây là một trong những yếu tố tạo nên bầu khơng
khí tâm lý - xã hội thoải mái lành mạnh ở nơi du lịch. Tâm lý nói chung của khách du
lịch biểu hiện rõ nhất ở tính hiếu kỳ và hưởng thụ, có nghĩa là họ muốn thay đổi, chờ
đón và mong đợi sự thoải mái và tốt đẹp khi đến điểm du lịch nào đó.
Ngồi ra, trong q trình đi du lịch, các đối tượng du khách tất yếu phát sinh
các nhu cầu về các dịch vụ bổ sung, như: dịch vụ thông tin liên lạc, y tế, giặt là, làm
đẹp, mua sắm… Đây là những nhu cầu phát sinh tùy thuộc vào thời gian rỗi cũng như
đặc điểm tâm lý (sở thích, tình cảm, phong tục, giới tính, độ tuổi, dân tộc...) của du
khách đối với một mặt hàng nào đó. Để thỏa mãn nhu cầu này của du khách, tại các
19
điểm đến du lịch, ln phải đảm bảo tính thuận tiện, tổ chức phục vụ hợp lý, chất
lượng hàng hóa và dịch vụ cao; giá cả rõ ràng, công khai. Điều này góp phần thu hút
khách, giữ chân khách lưu lại lâu hơn, các chi tiêu nhiều hơn.
1.3.1.3. Các sản phẩm, dịch vụ du lịch
Có rất nhiều lý do khiến khách du lịch quay trở lại thăm một điểm đến, hoặc là
họ chủ động quay lại vì mối quan tâm riêng, hoặc là do tác động của điểm đến đã tạo
nên sức hấp dẫn mới đối với họ. Trong đó, sản phẩm du lịch là một yếu tố vô cùng
quan trọng, quyết định tâm lý khách quay trở lại. Sản phẩm du lịch tạo nên sự khác
biệt trong phát triển du lịch, tạo nên thương hiệu và hình ảnh của mỗi điểm đến du
lịch, của mỗi địa phương, mỗi vùng và mỗi quốc gia. Sản phẩm du lịch được hình
thành trên cơ sở kết hợp giữa các giá trị tài nguyên du lịch, các điều kiện về cơ sở hạ
tầng xã hội, hệ thống các dịch vụ và khả năng đáp ứng của các cơ sở du lịch. Như vậy,
bên cạnh nững yếu tố cốt lõi như tài nguyên du lịch, cơ sở lưu trú và các hãng lữ hành,
thì sản phẩm du lịch còn bao gồm: nhà hàng, khu vui chơi giải trí, casino, trung tâm
mua sắm, các hãng hàng không, tàu biển, tàu hỏa, xe buýt, dịch vụ thuê xe, dịch vụ
ngân hàng, các điểm thu đổi ngoại tệ, trạm bán xăng dầu, bệnh viện, phòng khám, dịch
vụ vui chơi thể thao, trung tâm hội nghị, truyền hình, đài phát thanh, dịch vụ bảo hiểm,
các cơ sở giáo dục đào tạo… Mỗi mắt xích trong chuỗi sản phẩm này tương ứng với
một loại hình kinh doanh dịch vụ. Chúng hoạt động theo nguyên tắc vừa độc lập vừa
gắn kết với nhau và cùng điều chỉnh để hướng tới hình thành nên một sản phẩm dịch
vụ chung đạt chất lượng hài hòa, đáp ứng và thỏa mãn nhu cầu của du khách.
Mỗi địa phương đều có những đặc điểm riêng về các điều kiện tự nhiên, văn
hóa xã hội và có những đặc trưng riêng về tài nguyên du lịch. Do vậy, sự hình thành và
phát triển sản phẩm du lịch tại mỗi điểm đến cũng khác nhau, có những nét riêng mang
tính đặc thù. Cẩn phải khai thác hết sự khác biệt để làm mới sản phẩm, gia tăng chất
lượng dịch vụ và sức hấp dẫn du khách.
1.3.1.4. Marketing du lịch
Mỗi một điểm đến du lịch cần có sự độc đáo, hấp dẫn và sự khác biệt với các
điểm đến du lịch khác. Có như vậy mới có thể cạnh tranh trong việc thu hút khách du
lịch với các điểm đến du lịch khác. Vì thế, mỗi điểm đến cần tìm ra sự độc đáo, điểm
khác biệt của mình để tuyên truyền, quảng cáo và xây dựng hình ảnh của mình trong
tâm trí du khách
Ngày nay, khách du lịch dựa nhiều vào các công cụ hỗ trợ truyền thơng để tìm
kiếm thơng tin cho chuyến đi của mình. Bên cạnh những phương tiện truyền thông
hiện đại đang được áp dụng phổ biến rộng rãi như các trang mạng xã hội, website,
internet… thì những cơng cụ marketing truyền thống vẫn đem lại hiệu quả cao (các ấn
phẩm mang tính quảng cáo, kênh TV, báo chí in…). Những phương tiện này hỗ trợ
20
tích cực trong cơng tác tiếp thị, bán các sản phẩm du lịch và quảng bá các hình ảnh của
điểm đến.
1.3.1.5. Nhân lực phục vụ du lịch
Nguồn nhân lực phục vụ du lịch tại điểm đến du lịch đóng một vai trò quyết
định cho sự phát triển. Hoạt động du lịch chủ yếu là dịch vụ, dịch vụ phụ thuộc vào
yếu tố con người không những trực tiếp phục vụ khách mà cả những người gián tiếp
phục vụ cũng như cộng đồng dân cư tại điểm đến. Những người trực tiếp phục vụ
khách, đó là nhân viên trong các doanh nghiệp du lịch (doanh nghiệp lữ hành, khách
sạn, nhà hàng, hướng dẫn viên du lịch, thuyết minh viên tại các điểm tham quan, lái
các phương tiện phục vụ khách…). Họ là những người trực tiếp chịu trách nhiệm phục
vụ khách từ lúc họ đến cho đến khi họ đi.
Ấn tượng của du khách về sự phục vụ của nhân viên là rất lớn. Yêu cầu đối với
nhân viên phục vụ trong các doanh nghiệp tại điểm đến du lịch phải là những con
người dễ gần, luôn quan tâm, chu đáo với du khách, tính kiên nhẫn và lịch sự, có
nghiệp vụ chun mơn vững vàng, ln phấn đấu vì sự hài lòng của du khách và bản
thân nhân viên phục vụ cũng chính là một dịch vụ. Một dịch vụ tốt là dịch vụ ln
mang lại sự hài lịng cho khách (những gì họ muốn, vào lúc họ muốn và theo cách thức
họ muốn). Để có được điều đó, nhân viên phục vụ phải biết đồng cảm, biết đặt vào vị
trí khách hàng, thơng cảm với khách hàng, ln “chuẩn” chất lượng trong xuyên suốt
các giai đoạn của chu trình phục vụ khách. Cách hành xử giữa nhân viên và khách trên
từng “điểm chạm” cần phải được chuốt lại thường xuyên và họ phải biết được có bao
nhiêu “điểm chạm” trong một quy trình phục vụ khách để có phương án xử lý. Vì có
thể sau “điểm chạm” đó, khách sẽ có thể quay hoặc khơng quay trở lại. Với tất cả
những gì tốt nhất mà đội ngũ nhân viên phục vụ làm được sẽ tạo nên sức mạnh “truyền
thông miệng” cho doanh nghiệp và điểm đến, đây là loại truyền thơng khơng thể mua
được. Cần phải có được nó từ kỹ năng, nghiệp vụ và những tri thức trên mọi lĩnh vực
để phục vụ khách một cách tốt nhất.
1.3.1.6. Cộng đồng địa phương
Với xu hướng phát triển cầu du lịch, con người ngày càng tìm đến nhiều hơn
những nơi có nền văn hóa đặc sắc và đa dạng. Vì vậy, văn hóa là một yếu tố có tính
hấp dẫn lớn đối với khách du lịch, trong khi đó cư dân địa phương lại là một trong
những nhân tố chủ yếu tạo nên nó. Do vậy, cư dân địa phương cũng góp phần tạo nên
sức hấp dẫn của điểm đến du lịch thông qua phong tục tập quán, nếp sinh hoạt của
cộng đồng dân cư và thái độ ứng xử của cộng đồng với du khách. Cộng đồng là một
trong những nhân tố có tác động mạnh đến ấn tượng và cảm xúc của khách. Một cộng
đồng dân cư hiếu khách, tơn trọng khách, nhiệt tình với khách sẽ đem lại danh tiếng
không chỉ cho địa phương mà cho cả điểm đến du lịch.
21
1.3.2. Các thuộc tính tạo nên sức hấp dẫn của điểm đến du lịch
Nhiều nghiên cứu khác nhau đã đưa ra quan điểm khác nhau về thuộc tính hấp
dẫn của điểm đến du lịch (Bảng 1.1). Các thuộc tính này có thể từ yếu tố tự nhiên, văn
hóa, lịch sử, cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất du lịch, các sản phẩm dịch vụ du lịch, các
hoạt động, sự kiện ....
Bảng 1.1: Tổng hợp các thuộc tính nổi bật tạo nên sức hấp dẫn của điểm đến du lịch
Thuộc tính
Gearin
g et al
(1974)
Vẻ đẹp tự nhiên
Khí hậu
Đặc điểm nghệ thuật và kiến trúc
Các lễ hội
Nét độc đáo của cộng đồng địa phương
Hội chợ và triển lãm
Thái độ đối với du khách
Di tích cổ
Đặc điểm tơn giáo
Cơng trình lịch sử
Cơ sở vật chất thể thao
Cơ sở vật chất giáo dục
Cơ sở vật chất cho việc nghỉ ngơi, chữa
bệnh
Giải trí ban đêm
Cơ sở vật chất mua sắm
Cơ sở hạ tầng
Cơ sở vật chất ăn uống và lưu trú
Các bảo tàng, điểm du lịch văn hóa
Rào cản ngơn ngữ
Các lễ hội sự kiện
Hoạt động thể thao, giải trí
Hoạt động mua sắm
Khả năng tiếp cận điểm đến
Điều kiện giao thông
Thức ăn
Mức giá
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
Hu
and
Ritchi
e
(1993)
X
X
Kreši
ć et al
(2011
)
Dimitro
v et al
(2017)
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
x
X
X
X
X
X
Islam
et al
(2017
)
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
X
Nguồn: Tổng hợp của tác giả
22
CHƯƠNG 2: GIỚI THIỆU VỀ ĐIỂM ĐẾN ĐÀ NẴNG
VÀ THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU
2.1. Tổng quan về điểm đến Đà Nẵng
2.1.1. Giới thiệu về điểm đến Đà Nẵng
Thành phố Đà Nẵng nằm ở 15055' đến 16014' vĩ Bắc, 107018' đến 108020' kinh
Đơng, phía Bắc giáp tỉnh Thừa Thiên - Huế, phía Tây và Nam giáp tỉnh Quảng Nam,
phía Đơng giáp Biển Đông. Nằm ở trung độ của đất nước, trên trục giao thông Bắc Nam về đường bộ, đường sắt, đường biển và đường hàng không, cách Thủ đô Hà Nội
764 km về phía Bắc, cách thành phố Hồ Chí Minh 964 km về phía Nam. Trong phạm
vi khu vực và quốc tế, thành phố Đà Nẵng là một trong những cửa ngõ quan trọng ra
biển của Tây Nguyên và các nước Lào, Campuchia, Thái Lan, Myanma đến các nước
vùng Đông Bắc Á thông qua Hành lang kinh tế Đông Tây với điểm kết thúc là Cảng
biển Tiên Sa. Bên cạnh đó, với các tuyến giao thơng quan trọng như Quốc lộ 1A,
đường sắt liên vận quốc tế Trung Quốc - ASEAN dự kiến đi qua, cảng biển và sân bay
quốc tế, tạo ưu thế về vị trí địa lý kinh tế của Đà Nẵng trong tổng thể kinh tế của cả
nước, xứng đáng là thành phố hạt nhân của vùng kinh tế trọng điểm miền Trung. Các
trung tâm kinh doanh - thương mại của các nước vùng Đông Nam Á và Thái Bình
Dương đều nằm trong phạm vi bán kính 2.000 km từ thành phố Đà Nẵng. Tất cả
những điều kiện trên đã tạo cho thành phố Đà Nẵng một vị trí địa lý đặc biệt thuận lợi
cho sự phát triển nhanh chóng và bền vững.
Bên cạnh đó, thiên nhiên ưu đãi cho Đà Nẵng nằm giữa vùng kế cận ba di sản
văn hố thế giới: Cố đơ Huế, phố cổ Hội An và thánh địa Mỹ Sơn, chính vị trí này đã
làm nổi rõ vai trị của thành phố Đà Nẵng trong khu vực, là trung tâm đón tiếp, phục
vụ, trung chuyển khách. Không chỉ là tâm điểm của 03 di sản thế giới, thành phố Đà
Nẵng cịn có nhiều danh thắng tuyệt đẹp như bán đảo Sơn Trà, quần thể du lịch Bà Nà
- Suối Mơ, danh thắng Ngũ Hành Sơn… Biển cũng là nguồn cảm hứng du lịch vơ tận
mà Đà Nẵng có được. Ngồi những bãi tắm sạch, đẹp trải dài thì cảng Đà Nẵng là một
trong những cảng ăn khách nhất hiện nay ở Việt Nam. Với lợi thế về vị trí địa lý, cơ sở
hạ tầng, đặc biệt là cảng biển và sân bay quốc tế, nguồn tài nguyên du lịch phong phú,
bờ biển đẹp, nằm ở tâm điểm của các di sản thế giới của miền Trung và độ dày lịch sử,
văn hoá, cách mạng đã tạo cho Đà Nẵng có nhiều tiềm năng và điều kiện để phát triển
du lịch, đồng thời trở thành điểm đến hấp dẫn của du khách trong nước và quốc tế.
2.1.2. Tài nguyên du lịch
a. Tài nguyên du lịch tự nhiên
- Địa hình, địa mạo và địa chất
Địa hình Đà Nẵng vừa có đồng bằng vừa có núi, vùng núi cao và dốc tập trung
ở phía Tây và Tây Bắc, có nhiều dãy núi chạy dài ra biển, một số đồi thấp xen kẽ
23
những đồng bằng hẹp. Đồng bằng ven biển là vùng đất thấp chịu ảnh hưởng của biển
bị nhiễm mặn, lại là vùng tập trung nhiều cơ sở nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ,
quân sự và các khu chức năng của thành phố có khu dân cư đơng đúc. Địa hình đồi núi
chiếm diện tích lớn, phần lớn ở độ cao 700 - 1.500 m, độ dốc lớn (>40 0 ), là nơi tập
trung nhiều rừng đầu nguồn và có ý nghĩa bảo vệ môi trường sinh thái của thành phố.
Đặc biệt, với kết cấu địa chất vững chắc thuận lợi cho việc bố trí các cơ sở cơng trình
hạ tầng kỹ thuật.
- Khí hậu
Đà Nẵng nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ cao và ít biến
động. Khí hậu thành phố mang đặc thù của khí hậu nơi chuyển tiếp giữa hai miền:
miền Bắc và miền Nam nhưng nổi trội nhất là khí hậu nhiệt đới của miền Nam. Mỗi
năm có hai mùa rõ rệt: mùa khơ từ tháng 01 đến tháng 9, mùa mưa từ tháng 10 đến
tháng 12. Nhiệt độ trung bình hàng năm khoảng 25 0C, cao nhất là vào tháng 6-8 trung
bình từ 280C -300C, thấp nhất vào các tháng 12, 01, 02 trung bình từ 18 - 23 0C, thỉnh
thoảng có những đợt rét đậm nhưng không kéo dài; Độ ẩm không khí trung bình là
83,4%, cao nhất là tháng 10, 11 trung bình 85,67% - 87,67%, thấp nhất vào các tháng
6, 7 trung bình từ 76,67% - 77,33% (Cổng thơng tin điện tử Bộ kế hoạch và đầu tư,
2020). Mùa mưa trùng với mùa bão lớn nên thường có lũ lụt, ngập úng ở nhiều vùng;
ngược lại mùa hè ít mưa, nền nhiệt cao gây hạn, một số cửa sông bị nước mặn xâm
nhập, gây ảnh hưởng không tốt đến phát triển kinh tế và đời sống dân cư thành phố.
- Tài nguyên biển
Đà Nẵng có bờ biển khá dài 70 km, có vịnh nước sâu với các cửa biển Liên
Chiểu, Tiên Sa, có vùng lãnh hải thềm lục địa với độ sâu 200 m, tạo thành vành đai
nước rộng lớn thích hợp cho phát triển kinh tế tổng hợp biển và giao lưu với nước
ngoài. Đà Nẵng nổi tiếng với nhiều bãi biển đẹp nằm rải rác từ Bắc đến Nam như Nam
Ơ, Xn Thiều, Thanh Bình, Tiên Sa, Sơn Trà, Mỹ Khê, Bắc Mỹ An, Non Nước...
trong đó có những bãi tắm đã được du khách thập phương biết đến như những địa
điểm nghỉ ngơi, thư giãn, tắm biển lý tưởng nhất trong khu vực. Biển Đà Nẵng có độ
sóng nhỏ, nước êm, nước trong xanh bốn mùa, ít bị ơ nhiễm. Độ mặn vào khoảng
60%, độ an tồn cao. Một số nơi có nhiều san hơ, nguồn động thực vật ven bờ và dưới
bờ biển phong phú. Điều đặc biệt là hầu hết các bãi tắm đều gần trung tâm thành phố,
đường sá thuận lợi; có thể đi đến bằng nhiều loại phương tiện khác nhau. Nước biển
ấm, ít sóng nên khách có thể tắm gần như quanh năm; nhưng thích hợp nhất là mùa hè,
khoảng từ tháng 5 đến tháng 8 dương lịch.
- Tài nguyên rừng
Diện tích đất lâm nghiệp trên địa bàn thành phố tính đến cuối năm 2008 là
67.148 ha, tập trung chủ yếu ở phía Tây và Tây Bắc thành phố, bao gồm 03 loại rừng:
24
Rừng đặc dụng: 22.745 ha, trong đó đất có rừng là 15.933 ha; Rừng phịng hộ: 20.895
ha, trong đó đất có rừng là 17.468 ha; Rừng sản xuất: 23.508 ha, trong đó, đất có rừng
là 18.176 ha (Cổng thơng tin điện tử Bộ kế hoạch và đầu tư, 2020). Rừng ở Đà Nẵng
tập trung chủ yếu ở phía Tây huyện Hịa Vang, một số ít ở các quận Liên Chiểu, Sơn
Trà, Ngũ Hành Sơn. Tỷ lệ che phủ là 49,6%, trữ lượng gỗ khoảng 3 triệu m2 . Phân bố
chủ yếu ở nơi có độ dốc lớn, địa hình phức tạp. Rừng của thành phố ngồi ý nghĩa
kinh tế cịn có ý nghĩa phục vụ nghiên cứu khoa học, bảo vệ môi trường sinh thái và
phát triển du lịch. Thiên nhiên đã ưu đãi ban cho thành phố các khu bảo tồn thiên
nhiên đặc sắc như: Khu bảo tồn thiên nhiên Bà Nà, Khu bảo tồn thiên nhiên Sơn Trà
và Khu văn hóa lịch sử mơi trường Nam Hải Vân. Khu Bảo tồn thiên nhiên Bà Nà:
Đây là khu rừng có giá trị lớn về đa dạng sinh học, nối liền với vườn quốc gia Bạch
Mã (Thừa Thiên - Huế), rừng đặc dụng Nam Hải Vân và dãy rừng tự nhiên phía bắc và
tây bắc tỉnh Quảng Nam, tạo nên một dãy rừng xanh độc nhất Việt Nam liên tục trải
dài từ biển Đông đến biên giới Việt - Lào. Rừng tự nhiên Bà Nà - Núi Chúa có kết cấu
thành loài đặc trưng cho sự giao lưu giữa hai luồng thực vật phía bắc và phía nam,
đồng thời cũng đặc trưng cho khu đệm giao lưu giữa hai hệ động vật Bắc Trường Sơn
và Nam Trường Sơn. Ngoài ra, đây cịn là vùng khí hậu mát mẻ, trong lành, đầu nguồn
các dịng sơng, đóng vai trị đáng kể trong việc bảo vệ mơi trường, điều hịa khí hậu,
phục vụ nghiên cứu khoa học và phát triển du lịch sinh thái của thành phố Đà Nẵng.
Khu văn hóa lịch sử môi trường Nam Hải Vân: Rừng đặc dụng Nam Hải Vân tiếp giáp
với vườn quốc gia Bạch Mã (Thừa Thiên - Huế) và Bà Nà - Núi Chúa, cùng tạo ra một
hành lang đủ lớn để bảo tồn và phát triển các lồi động vật rừng có nguy cơ tuyệt
chủng. Về mặt môi trường, Hải Vân tạo ra sự khác biệt rõ rệt về khí hậu, thời tiết giữa
hai sườn phía Nam (Đà Nẵng) và phía Bắc (Thừa Thiên - Huế), che chắn thành phố Đà
Nẵng giảm bớt sự tác động trực tiếp của gió bão hàng năm, đồng thời điều tiết mức độ
nhiễm mặn của sông Cu Đê. Hải Vân cịn có giá trị lớn về mặt văn hóa, lịch sử: đây là
nơi ghi dấu ấn lịch sử Nam tiến mở rộng bờ cõi của dân tộc Việt và có cảnh quan thiên
nhiên hùng vĩ. Khu bảo tồn thiên nhiên Sơn Trà: Đây là khu bảo tồn thiên nhiên vừa có
hệ sinh thái đất ướt ven biển vừa có thảm rừng nhiệt đới mưa ẩm nguyên sinh. Nguồn
gen thực vật nhiệt đới của Sơn Trà rất đa dạng, phong phú với số lượng cá thể lớn có
khả năng cung cấp giống cây bản địa phục vụ trồng rừng như: Chị chai, Dẻ cau, Dầu
lá bóng... Điều đặc biệt là Sơn Trà cịn có những lồi động vật q hiếm có nguy cơ
tuyệt chủng, trong đó Voọc Chà vá có thể được xem là loài thú sinh trưởng đặc hữu
của Đông Dương cần được bảo vệ. Mặt khác Sơn Trà còn là nguồn cung cấp nước
ngọt cho thành phố và là nơi có nhiều cảnh đẹp và di tích lịch sử nên rất có giá trị về
du lịch. Ngồi ra, Sơn Trà cịn là bức bình phong che chắn gió bão cho thành phố.
- Cảnh quan du lịch tự nhiên
25