Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

PHÂN TÍCH MỐI QUAN HỆ GIỮA NGUỒN CƠ BẢN VÀ NGUỒN BỔ TRỢ TRONG LUẬT QUỐC TẾ. LIÊN HỆ THỰC TIỄN VỀ LUẬT BIỂN QUỐC TẾ.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (94.28 KB, 11 trang )

ĐỀ: PHÂN TÍCH MỐI QUAN HỆ GIỮA NGUỒN CƠ BẢN VÀ
NGUỒN BỔ TRỢ TRONG LUẬT QUỐC TẾ. LIÊN HỆ THỰC TIỄN
VỀ LUẬT BIỂN QUỐC TẾ.

1


I. MỐI QUAN HỆ GIỮA NGUỒN CƠ BẢN VÀ NGUỒN BỔ TRỢ
TRONG LUẬT QUỐC TẾ.
1. Nguồn cơ bản.
- Nguồn cơ bản là loại nguồn được hình thành từ sự thỏa thuận của các
chủ thể luật quốc tế, trực tiếp chứa đựng các quy phạm pháp luật quốc tế, có
giá trị ràng buộc đối với các chủ thể quan hệ pháp luật quốc tế, chủ yếu bao
gồm điều ước quốc tế (nguồn thành văn) và tập quán quốc tế (nguồn bất thành
văn).
- Điều ước quốc tế
- Tập quán quốc tế
2. Nguồn bổ trợ.
- Các phán quyết của Tịa án cơng lý quốc tế
- Các nguyên tắc pháp luật chung
- Nghị quyết của tổ chức quốc tế liên chính phủ
- Hành vi pháp lý đơn phương của các quốc gia
- Các học thuyết của các học giả danh tiếng về luật quốc tế.
Nguồn bổ trợ là loại nguồn không trực tiếp chứa đựng các quy phạm
pháp luật quốc tế, hầu như chỉ có ý nghĩa khuyến nghị đối với các chủ thể
luật quốc tế, chúng bao gồm.
3. Mối quan hệ giữa nguồn cơ bản và nguồn bổ trợ trong Luật
Quốc tế.
3.1. Nguồn bổ trợ là cơ sở để hình thành nên nguồn cơ bản của
Luật Quốc tế và ngược lại.
- NBT có ý nghĩa là cơ sở để hình thành NCB thơng qua q trình


pháp điển hóa. Việc nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển của LQT cho
phép khẳng định rằng, nhiều quy phạm NCB có nguồn gốc từ quy phạm NBT.
- NCB là cơ sở hình thành NBT thơng qua thực tiễn ký kết và thực
hiện điều ước quốc tế.
2


Ví dụ 1: Phán quyết của tịa án quốc tế trong vụ giải quyết tranh chấp
ngư trường Anh – Nauy năm 1951. Từ phán quyết này của tòa án, rất nhiều
quốc gia có đường bờ biển khúc khuỷu như của Nauy đã áp dụng phương
pháp đường cơ sở thẳng để tính chiều rộng lãnh hải. Như vậy, ban đầu phán
quyết “thẳng để xác định các vùng biển của quốc gia mình” này của tịa án
quốc tế chỉ có giá trị bắt buộc đối với các bên tranh chấp, nhưng sau đó đã trở
thành “Được sử dụng rộng rãi và được cộng đồng quốc tế thừa nhận được ghi
nhận trong công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982”.
Ví dụ 2: Một vụ tranh chấp khác, vụ eo biển Corfou (Vương quốc Anh
và Anbani) năm 1948, phán quyết không chỉ làm rõ khái niệm pháp lý eo biển
quốc tế và nguyên tắc quyền qua lại eo biển quốc tế không gây hại mà quyền
này được công nhận trong Công ước Geneva năm 1958 về lãnh hải và vùng
tiếp giáp sau đó được điều chỉnh và phát triển trở thành quyền quá cảnh qua
các eo biển quốc tế trong Công ước Luật biển của Liên hợp quốc 1982.
3.2. Nguồn bổ trợ là phương tiện chứng minh sự tồn tại của nguồn
cơ bản
- Cả NCB và NBT đều được hình thành từ sự thỏa thuận của các chủ
thể LQT, do đó chúng có giá trị pháp lý ngang nhau, cùng song song tồn tại.
Ví dụ: Điều ước quốc tế thường được hình thành từ các nghị quyết
của các tổ chức liên chính phủ như Tuyên ngôn về quyền con người được
thông qua trên cơ sở Nghị quyết số 217A (III) của Đại hội đồng Liên hợp
quốc ngày 10/12/1948, trên cơ sở này hai Điều ước quốc tế quan trọng đã
được các thành viên Liên hợp quốc kí kết đó là Cơng ước về các quyền dân

sự, chính trị và Cơng ước các quyền kinh tế, xã hôi năm 1996.
3.3. Nguồn bổ trợ góp phần giải thích làm sáng tỏ nội dung của
nguồn cơ bản.
Các NBT được viện dân có ý nghĩa quan trọng làm sáng tỏ nội hàm
của một khái niệm pháp lý trong NCB.
3


Với vai trò là cơ sở căn cứ đưa ra phán quyết giải quyết các tranh
chấp khi các bên cùng đồng ý đem ra giải quyết bằng con đường tài phán, thì
các nguồn chính thức của pháp Luật quốc tế là rất quan trọng, nhưng không
thể lúc nào các nguồn này cũng “đủ” để có thể giải quyết tốt, đều này cũng
dễ hiểu.
Ví dụ:
- Án lệ. VD: Quy phạm tập qn của luật quốc tế “khơng một quốc gia
nào cóa quyền sử dụng hoặc cho phép sử dụng lãnh thổ của mình dẫn đến
việc gây thiệt hại bở việc gây ô nhiễm do khói bay sang hoặc trên lãnh thổ
của một quốc gia khác” được nêu ra trong vụ trail smelter (mỹ và canada).
Nguyên tắc đó sau này đã trở thành cơ sở pháp lý cho những điều ước quốc tế
về môi trường, chẳng hạn như nghị định thư kyoto của công ước khung của
liên hợp quốc về biến đổi khí hậu năm 1997)
- Các học thuyết khoa học về Luật quốc tế
- Học thuyết khoa học
- Các nguyên tắc chung được các quốc gia văn minh trên thế giới thừa
nhận.
Vì vậy, góp phần làm phong phú thêm các quan hệ tranh chấp mới phát
sinh cần điều chỉnh, cũng như đẩy nhanh q trình kí kết điều ước lúc này các
nguồn bổ trợ sẽ đóng một vai trị khơng kém, vì khi đi từ một nghị quyết của
một tổ chức liên chính phủ đã được các quốc gia thành viên thừa nhận để nâng
lên thành Điều ước quốc tế sẽ dễ được các chủ thể luật quốc thể đồng ý hơn

nhiều so với việc một quan hệ phát sinh mới hồn tồn. Bên cạnh đó, nhiều căn
cứ của nguồn chính Luật quốc tế chưa được hiểu thống nhất để áp dụng thì lúc
này vai trị của nguồn bổ trợ là sẽ hỗ trợ cho việc giải thích các vấn đề rõ ràng
hơn.

4


3.4. Nguồn bổ trợ bổ sung những nội dung mà điều ước quốc tế và
tập quán quốc tế chưa điều chỉnh.
- Một khi các tranh chấp đã xảy ra và đang cần giải quyết bằng con
đường tài phán nhưng chưa có một Điều ước quốc tế hay tập quán quốc tế
điều chỉnh thì lúc này các nguồn bổ trợ sẽ được các bên cũng như cơ quan tài
phán tham khảo đơi khi lấy làm lí giải cho mình.
- Ngồi ra, một số các nguồn bổ trợ như án lệ, các học thuyết khoa học
cùng các nguyên tắc chung được các nước văn minh thừa nhận cũng đã góp
phần lớn cho việc bổ sung các nội dung mà các Điều ước quốc tế và Tập quán
quốc tế.
3.5. Nguồn bổ trợ được áp dụng khi thiếu nguồn cơ bản.
Các loại nguồn bổ trợ có thể được sử dụng để điều chỉnh các quan hệ
pháp lý quốc tế trong trường hợp khơng có nguồn cơ bản điều chỉnh. Nguồn
bổ trợ là cơ sở có tính thuyết phục cao nhằm xác định các tiêu chuẩn pháp lý,
đặc biệt là khi có sự khơng thống nhất về một vấn đề nào đó của Luật Quốc
tế. Trên cơ sở khẳng định sự đúng đắn và hợp lý, các nguồn bổ trợ có vai trị
là cơ sở vật chất để là nền tảng xây dựng các quy phạm mới của Luật Quốc
tế, kể cả việc hình thành các quy phạm pháp Luật Quốc tế dưới dạng tập
quán.
Trong trường hợp khơng có Điều ước quốc tế, Án lệ quốc tế để làm rõ
hơn nguồn cơ bản, thì nguồn bổ trợ mới được áp dụng làm cơ sở để các bên
giải quyết vụ việc. Cần lưu ý rằng, nguồn bổ trợ và phương tiện bổ trợ là hai

khái niệm khác nhau; phương tiện bổ trợ dùng để bổ trợ cho nguồn cơ bản,
vẫn được sử dụng khi có nguồn cơ bản.
Ví dụ: Khi có một sự kiện pháp lý, nguồn cơ bản như điều ước quốc
tế và tập quán quốc tế khơng quy định thì sẽ áp dụng án lệ hay nguyên tắc
chung được các nước văn minh trên thế giới thừa nhận để làm nguồn bổ trợ
để giải quyết sự kiện pháp lý đó.

5


Mối quan hệ trên đây khẳng định tính độc lập tồn tại của 2 loại nguồn
cơ bản của LQT, đồng thời khẳng định mối quan hệ qua lại và ảnh hưởng lẫn
nhau giữa chúng trong các quan hệ quốc tế.
III. LIÊN HỆ THỰC TIỄN VỀ LUẬT BIỂN QUỐC TẾ
1. Sự kiện 1: Việt Nam nộp hai báo cáo quốc gia xác định ranh
giới ngoài thềm lục địa Việt Nam vượt quá 200 hải lý Ủy ban Ranh giới
ngoài thềm lục địa của Liên Hợp quốc năm 2009
Năm 2009 Việt Nam đã chính thức thể hiện quan điểm đối với thềm
lục địa vượt quá 200 hải lý tính từ đường cơ sở thơng qua hai đệ trình lên Ủy
ban Ranh giới Thềm lục địa (Commission on the Limits of the Continental
Shelf – CLCS). CLCS là một cơ quan chuyên môn (expert body) gồm 21
chuyên gia trong lĩnh vực khoa học tự nhiên như địa chất học, địa vật lý, thủy
văn học, được thành lập theo Điều 76 và Phụ lục II của UNCLOS, có chức
năng xem xét đệ trình của các quốc gia và đưa ra khuyến nghị về các vấn đề
liên quan đến xác định ranh giới ngoài của thềm lục địa mở rộng. Theo như
sự kiện này, mối quan hệ giữa nguồn cơ bản và nguồn bổ trợ của Luật Quốc
tế được thể hiện thông qua các vấn đề sau:
Thứ nhất, đối với phần nằm trong phạm vi 200 hải lý, Việt Nam có
quyền chủ quyền gần như chắc chắn trong việc thăm dò, khai thác tài nguyên,
bao gồm dầu khí. Bởi theo Điều 76 của Cơng ước LHQ về Luật Biển năm

1982 (UNCLOS) quốc gia ven biển có thể có tối thiểu 200 hải lý thềm lục địa
và mở rộng vượt q giới hạn đó nếu rìa lục địa tự nhiên kéo dài xa hơn. Đối
với thềm lục địa, bao gồm cả thềm lục địa trong và vượt quá 200 hải lý quốc
gia ven biển có quyền chủ quyền đối với việc thăm dò, khai thác tài nguyên
sinh vật và phi sinh vật. Quyền chủ quyền này hiện hữu hiển nhiên và mặc
định, không phụ thuộc vào việc quốc gia ven biển có chiếm hữu hay ra tuyên
bố hay không. Hơn nữa theo Phán quyết ngày 12/7/2016 của Tịa trọng tài
trong Vụ kiện Biển Đơng, các đảo của quần đảo Trường Sa không thể tạo ra

6


thềm lục địa do chúng chỉ có thể là đảo đá theo Điều 121 1. Do đó khơng
chồng lấn với thềm lục địa hay vùng đặc quyền kinh tế của bất kỳ quốc gia
nào; đây là vùng thềm lục địa chỉ thuộc về Việt Nam. Như vậy Việt Nam có
quyền chủ quyền độc quyền đối với việc thăm dò và khai thác dầu khí trong
khu vực này. Như vậy, trong trường hợp này, Việt Nam đã sử dụng phán quyết
của trọng tài-là nguồn bổ trợ làm sáng tỏ nội dung của Công ước LHQ về
Luật Biển năm 1982 (UNCLOS), tạo cơ sở để các chủ thể có những hiểu biết
và áp dụng đúng đắn Luật Quốc tế. Từ đó khẳng định mối quan hệ giữa
nguồn cơ bản và nguồn bổ trợ là: Nguồn bổ trợ góp phần giải thích, làm
sáng tỏ nội dung của nguồn cơ bản.
Thứ hai, đối với phần nằm ngoài phạm vi 200 hải lý, một số quy định
của Công ước cần được xem xét đến như quy định tại Điều 76 về việc ranh
giới ngoài của thềm lục địa mở rộng chỉ được xem là cuối cùng và ràng buộc
nếu dựa trên cơ sở khuyến nghị của CLCS và Điều 83 liên quan đến phân
định biển và nghĩa vụ kiềm chế tiền phân định. 2 Theo quy định tại Điều 76
của Hiệp định về phân định ranh giới thềm lục địa giữa Việt Nam và
Indonesia ngày 26 tháng 6 năm 2003 thì ranh giới thềm lục địa vượt quá 200
hải lý sẽ được xem là chung thẩm và ràng buộc nếu được xác lập dựa trên

khuyến nghị của Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa (CLCS). Thềm lục địa vượt
quá 200 hải lý giữa Việt Nam và Malaysia, nơi có một phần của 05 lơ dầu khí
trên, đã được đệ trình lên CLCS nhưng Ủy ban chưa xem xét và đưa ra
khuyến nghị. Đối với tình huống này, hiện nay có hai luồng quan điểm. Một
là dù thềm lục địa mở rộng chưa có khuyến nghị của CLCS thì vẫn là thềm
lục địa của quốc gia ven biển do quyền của quốc gia ven biển đối với thềm
lục địa là quyền tự nhiên (inherent right). Vấn đề xác định ranh giới thềm lục
địa trên cơ sở khuyến nghị của CLCS khác hoàn toàn với vấn đề quyền của
1 Trần Hữu Duy Minh, Nghĩa vụ trong vùng biển chồng lấn đặc quyền kinh tế và thềm lục địa theo Công ước
Liên hợp quốc về Luật Biển 1982, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Số 5(325), tháng 5/2015,
2 nghĩa vụ kiềm chế tiền phân định tại bài />
7


quốc gia ven biển đối với thềm lục địa. Quan điểm thứ hai là cho đến khi nào
ranh giới thềm lục địa mở rộng chưa được xác định trên cơ sở khuyến nghị
của CLCS thì đây cần được xem là vùng đáy biển quốc tế. Quan điểm thứ
nhất có vẻ đang được đa số các học thuyết gia nổi tiếng ủng hộ. Nếu hoạt
động dầu khí gần đây được Việt Nam cho phép thực hiện tại các phần nằm
ngoài 200 hải lý của 05 lơ trên, thì sẽ cho thấy Việt Nam ủng hộ quan điểm
đầu tiên. Như vậy, các quy định của Công ước LHQ về Luật Biển năm
1982(nguồn cơ bản) cịn chưa có quy định rõ ràng trong trường hợp này. Và
vì thế Việt Nam đã áp dụng theo quan điểm thứ nhất của đa số các học thuyết
gia nổi tiếng (nguồn bổ trợ) ủng hộ. Điều này đã khẳng định mối quan hệ
giữa nguồn cơ bản và nguồn bổ trợ là: Nguồn bổ trợ bổ sung những nội dung
mà Điều ước quốc tế và Tập quán quốc tế chưa điều chỉnh
Thứ ba, ngày 07/5/2009, Trung Quốc có Công hàm số CML/17/2009
thông báo về yêu sách chủ quyền của Trung Quốc đối với các đảo tại Biển
Đông và vùng nước phụ cận tại các đảo này. Tiếp đó, ngày 04/8/2009,
Philippines có Cơng hàm số 000819 phản đối Báo cáo chung của Việt Nam và

Malaysia. Như vậy, căn cứ vào ý kiến phản đối của Philippines và Trung
Quốc (hành vi pháp lý đơn phương của quốc gia- nguồn bổ trợ), CLCS đã
quyết định hoãn xem xét Báo cáo chung của Việt Nam và Malaysia. Từ đó thể
hiện mối quan hệ giữa nguồn cơ bản và nguồn bổ trợ là: Nguồn bổ trợ là
phương tiện chứng minh sự tồn tại của nguồn cơ bản
2. Sự kiện 2: Tranh chấp trên Biển Đơng, trước hết là hai quần đảo
Hồng Sa và Trường Sa, nổi lên từ sau chiến tranh thế giới thứ II và leo
thang với mức độ khá nghiêm trọng, nhất là cuối thập niên đầu thế kỉ XXI.
Tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông gồm các tranh chấp về đảo và
vùng biển. Quần đảo Trường Sa và quần đảo Hồng Sa là hai quần đảo trên
các rạn san hơ ở Biển Đơng, trong đó quần đảo Hồng Sa đang là nơi tranh
chấp chủ quyền giữa Việt Nam, Trung Quốc và Đài Loan. Quần đảo Trường
Sa là nơi tranh chấp chủ quyền của 6 quốc gia và lãnh thổ: Trung Quốc, Đài
8


Loan, Việt Nam, Philippines, Malaysia và Brunei; các quốc gia này tuyên bố
chủ quyền toàn bộ hay một phần quần đảo Trường Sa. Các tranh chấp trên
Biển Đông giữa Trung Quốc và các nước láng giềng Đông Nam Á vốn đã tồn
tại từ nhiều thập kỷ, nay càng nóng lên từ năm 2008-2009, nhất là sau khi
Trung Quốc tuyên bố Biển Đơng là “lợi ích cốt lõi” và sẵn sàng tiến hành
chiến tranh để bảo vệ vùng chủ quyền mà nước này yêu sách. Và thông qua
sự kiện này, mối quan hệ giữa nguồn cơ bản và nguồn bổ trợ của Luật Quốc
tế được thể hiện thông qua các vấn đề sau:
Thứ nhất, các tranh chấp này luôn là tâm điểm căng thẳng trong khu
vực một phần cũng do trong luật quốc tế không tồn tại cơ chế giải quyết tranh
chấp (gọi tắt là GQTC) lãnh thổ bắt buộc. Cơ chế GQCT trong UNCLOS
không được tạo ra để GQTC chủ quyền lãnh thổ giữa các quốc gia. Chưa kể,
Trung Quốc, một bên tranh chấp quan trọng, đã tuyên bố loại trừ áp dụng cơ
chế GQTC của UNCLOS đối với các tranh chấp về phân định biển, vịnh và

danh nghĩa lịch sử. Về nguyên tắc, các quốc gia có thể tùy ý giải quyết hoặc
không giải quyết tranh chấp, và tự do áp dụng các quy tắc trong khuôn khổ
luật quốc tế để giải quyết tranh chấp giữa họ. Nếu các bên muốn sử dụng biện
pháp tài phán (tòa án hoặc trọng tài) để GQTC, cần có sự thừa nhận thẩm
quyền của tất cả các bên. Nguyên tắc này là nguyên tắc pháp luật chung, là
nguồn bổ trợ cho Luật Quốc tế, Trung Quốc đã khéo léo áp dụng nguyên tắc
này để tránh GQTC. Từ đó cho thấy mối quan hệ giữa nguồn cơ bản và
nguồn bổ trợ là: Nguồn bổ trợ được áp dụng khi thiếu vắng nguồn cơ bản.
Thứ ba, trên thực tế hiện nay các quy định luật quốc tế trong lĩnh vực
liên quan đến tranh chấp ở biển Đơng cịn có nhiều quy định chung và khái
qt, chưa rõ ràng để áp dụng và giải thích. Ví dụ như trong phân định biển,
thế nào là hoàn cảnh đặc thù ảnh hưởng đến kết quả phân định công bằng?
Tiêu chuẩn nào để xác định một yếu tố được coi là hồn cảnh đặc thù? Thế
nào là cơng bằng? Giá trị hiệu lực của các hoàn cảnh đặc thù trong xác định
chủ quyền đối với đảo, đá, quần đảo, vùng đảo được tính như thế nào? Tính
9


kế cận về địa lý có giá trị khẳng định chủ quyền đối với các thực thể này
không? Giá trị của từng yếu tố trong chiếm hữu thực sự được giải thích ra
sao?... Những vấn đề này được thực tiễn giải quyết tranh chấp của các cơ
quan tài phán quốc tế giải thích theo nhiều khía cạnh khác nhau với những
trường hợp cụ thể. Và quốc gia là các bên tranh chấp có thể nghiên cứu và
vận dụng tới để xây dựng và đưa ra các luận cứ, luận chứng của mình nhằm
chứng minh, bảo vệ chủ quyền biển đảo quốc gia hoặc bác bỏ lập luận của đối
phương. Một số phán quyết của các cơ quan tài phán quốc tế trong lĩnh vực
biển đảo có thể kể đến như: phán quyết của Tịa án Cơng lý quốc tế, Tịa án
quốc tế về Luật biển, các tòa trọng tài. Từ đó chứng minh mối quan hệ giữa
nguồn cơ bản và nguồn bổ trợ là: Nguồn bổ trợ được góp phần giải thích,
làm sánh tỏ nội dung của nguồn cơ bản.

Thứ ba, có thể xem phán quyết của Tịa trọng tài (nguồn bổ trợ) trong
vụ kiện giữa Philippines và Trung Quốc là một trong những án lệ nổi bật
trong luật biển quốc tế hiện đại. Phán quyết đã đóng góp vào việc làm sáng tỏ
các quy định của Công ước. Từ đó, tạo nên bước ngoặt giữa các trang chấp
trên biển Đông. Một là phán quyết là cơ sở pháp lý rõ ràng để bác bỏ hồn
tồn u sách đường chín đoạn của Trung Quốc với ý nghĩa là đường yêu
sách biển trên Biển Đơng. Tính phi lý và khơng có cơ sở của yêu sách này đã
được thảo luận rất nhiều năm và nhận được sự đồng thuận khá lớn trong giới
học giả quốc tế. Hai là, phán quyết đã làm sáng tỏ ở mức chưa từng thấy bức
tranh tranh chấp ở Biển Đơng bằng việc loại bỏ đường chín đoạn, xóa bỏ khả
năng tạo ra vùng biển rộng hơn 12 hải lý từ các đảo ở quần đảo Trường Sa và
ngầm công nhận sự tồn tại của Biển cả ở Biển Đông. Như vậy, phán quyết là
một cơ sở pháp lý vững chắc giúp Việt Nam có ưu thế trong đàm phán, đấu
tranh với Trung Quốc nhằm bác bỏ, vơ hiệu hóa u sách đường chín đoạn
của Trung Quốc. Đồng thời phán quyết đã tác động tích cực đến cách ứng xử
của các chủ thể Luật quốc tế (nguồn cơ bản).

10


11



×