A. LỜI MỞ ĐẦU
Trong đời sống quốc tế hiện nay, bên cạnh quốc gia - chủ thể đầu tiên và cơ
bản của Luật Quốc tế (LQT), thì sự xuất hiện và phát triển của các tổ chức quốc tế
liên chính phủ (TCQTLCP) ngày càng đóng vai trị quan trọng là trung tâm phối
hợp hành động nhằm bảo vệ lợi ích của các thành viên. Quyền năng chủ thể cua
các TCQTLCP dựa trên điều lệ của mỗi tổ chức.
Trong quá trình hoạt động TCQTLCP thông qua các nghị quyết, quyết định.
Từ đó, các TCQTLCP có thể thực hiện được các hoạt động chức năng của mình.
Khơng chỉ có vai trị quan trọng trong việc hoạt động của tổ chức, các nghị quyết
này cịn có vai trị quan trọng trong q trình hình thành các nguyên tắc và các
quy phạm pháp luật quốc tế.
Trong bài viết dưới đây em xin được tìm hiểu về vấn đề: “Phân tích vai trị
của nghị quyết của các tổ chức quốc tế liên chính phủ đối với quá trình hình
thành các nguyên tắc và các quy phạm pháp luật quốc tế”. Qua đó, mong muốn
có thể mang lại những nhận thức cơ bản về lý luận cũng như những dẫn chứng
trên thực tế để chứng minh vai trò quan trọng của nghị quyết của các TCQTLCP
đối với quá trình hình thành các nguyên tắc và các quy phạm pháp luật quốc tế.
1
B. NỘI DUNG
1. Khái niệm
1.1. Các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế
Nguyên tắc cơ bản của LQT là những tư tưởng chính trị, pháp lý mang tính
chất chỉ đạo, bao trùm, có giá trị bắt buộc chung (Jus cogens) đối với mọi chủ thể
của LQT. Các nguyên tắc cơ bản tồn tại dưới dạng những quy phạm Jus cogens
được ghi nhận ở điều ước quốc tế và tập quán quốc tế.
Nguyên tắc cơ bản của LQT thực hiện hai chức năng quan trọng là ổn định
quan hệ quốc tế và ấn định khuôn khổ ứng xử cho các chủ thể trong quan hệ quốc
tế, qua đó tạo điều kiện cho quan hệ quốc tế phát triển.
Nguyên tắc cơ bản của LQT phân làm hai nhóm: Nhóm các nguyên tắc
truyền thống và nhóm các nguyên tắc hiện đại.
1.2. Quy phạm pháp luật quốc tế
Quy phạm pháp luật quốc tế là quy tắc xử sự, được tạo bởi sự thoản thuận
của các chủ thể của LQT và có giá trị ràng buộc các chủ thể đó đối với các quyền,
nghĩa vụ hay trách nhiệm pháp lý quốc tế khi tham gia quan hệ pháp luật quốc tế.
Quy phạm pháp luật quốc tế là hạt nhân của cấu trúc hệ thống LQT.
Căn cứ vào cách thức hình thành và hình thức biểu hiện của quy phạm có thể
chia thành quy phạm điều ước và quy phạm tập quán. Điều ước quốc tế và tập
quán quốc tế là hai nguồn cơ bản của LQT. Ngồi ra, LQT cịn có các phương tiện
bổ trợ nguồn. Đó là phán quyết của tịa án, học thuyết của các luật gia, nghị quyết
của các TCQTLCP và hành vi pháp lí đơn phương của quốc gia.
Căn cứ theo giá trị hiệu lực của quy phạm có thể chia thành quy phạm tùy
nghi và quy phạm Jus cogens.
1.3. Tổ chức quốc tế liên chính phủ
TCQTLCP là một trong những chủ thể của LQT. Đó là những thực thể liên
kết các quốc gia và các chủ thể khác của LQT, hình thành trên cơ sở điều ước
quốc tế, có quyền năng chủ thể của LQT, có hệ thống các cơ quan để duy trì hoạt
2
động thường xun theo đúng mục đích và tơn chỉ của tổ chức đó. Một số
TCQTLCP tiêu biểu như: Liên hợp quốc (United Nation), Tổ chức thương mại
thế giới (World Trade Organisation), Tổ chức hàng không dân dụng quốc tế
(International Civil Aviation Organization) …
1.4. Nghị quyết của các TCQTLCP là nguồn bổ trợ của LQT
Khi tiến hành các hoạt động chức năng, tổ chức quốc tế thường thông qua
các nghị quyết và quyết định. Nghị quyết của các TCQTLCP là một trong những
nguồn bổ trợ cơ bản của LQT.
Điều 38 quy chế Tòa án quốc tế coi phán quyết của Tòa và học thuyết của
các chuyên gia giỏi nhất về công pháp quốc tế là phương tiện bổ trợ để xác định
quy phạm pháp luật quốc tế. Quy định này ngày càng khơng đáp ứng được địi hỏi
của thực tiễn quốc tế. Bởi lẽ, nội dung tương tự như Điều 38 đã được hình thành
từ sau thế chiến thứ nhất đối với Pháp viện thường trực quốc tế. Khi tòa án quốc
tế được thành lập, nhiều nội dung của Quy chế Pháp viện thường trực quốc tế
được chuyền tải vào Quy chế của Tòa. Khi các văn kiện quốc tế cịn q ít ỏi, nên
Điều 38 khơng đề cập đến loại văn kiện cực kì quan trọng đó là nghị quyết của
các TCQTLCP.
Có hai loại nghị quyết của các TCQTLCP. Đó là nghị quyết mang tính quy
phạm và nghị quyết có tính khuyến nghị. Trong đó, nghị quyết có tính khuyến
nghị của Đại hội đồng LHQ và các tổ chức quốc tế khác là văn kiện quốc tế, trong
đó có các định hướng, chủ trương, biện pháp giải quyết từng vấn đề nhất định
mang tính thời sự của đời sống quốc tế, hoặc tuyên bố về nguyên tắc giải quyết
những vấn đề nào đó trong quan hệ quốc tế. Tự bản thân các nghị quyết này chỉ
mang tính khuyến nghị mà khơng sinh ra quy phạm pháp lý, khơng có hiệu lực
pháp lý bắt buộc các quốc gia phải tuân theo.
Tuy vậy nhiều nghị quyết của Đại hội đồng LHQ giữ vai trị quan trọng
trong q trình hình thành của các nguyên tắc và các quy phạm pháp luật quốc tế.
Trên cơ sở nghị quyết của các TCQTLCP, các thành viên thỏa thuận kí kết điều
ước quốc tê, góp phần hình thành các nguyên tắc và các quy phạm pháp luật quốc
3
tế mới. Hiện nay số lượng các các nguyên tắc và các quy phạm pháp luật quốc tế
được hình thành bằng con đường này ngày càng gia tăng làm cho quá trình xây
dựng các nguyên tắc và các quy phạm pháp luật quốc tế được rút ngắn.
2. Vai trò của nghị quyết của các tổ chức quốc tế liên chính phủ đối với
quá trình hình thành các nguyên tắc và các quy phạm pháp luật quốc tế
2.1. Các nguyên tắc luật quốc tế được hình thành từ nghị quyết của
TCQTLCP
Nghị quyết của các TCQTLCP như là một tiền để để cho các chủ thể của
LQT dựa vào đó kí kết nên điều ước ổn định quan hệ quốc tế; hay trở thành một
khuôn khổ xử sự cho các chủ thể trong quan hệ pháp luật quốc tế, qua đó tại điều
kiện cho quan hệ quốc tế phát triển. Không chỉ có ý nghĩa trong q trình hình
thành mà các nghị quyết có giá trị bắt buộc của TCQTLCP cịn là một nguồn quan
trọng để viện dẫn cũng như áp dụng các nguyên tắc cơ bản của LQT để giải quyết
các quan hệ phát sinh giữa các quốc gia thành viên của tổ chức đó.
Có những trường hợp để làm rõ hơn một nguyên tắc cơ bản nào đó của LQT,
các chủ thể phải dẫn giải ra các nghị quyết của TCQTLCP để giải thích rõ ràng
ngun tắc đó hơn. Trong những thực tiễn áp dụng một nguyên tắc, nếu có những
tranh chấp hay vướng mắc nào đó, các chủ thể của LQT cũng áp dụng các nghị
quyết của các TCQTLCP để thực hiện nguyên tắc đó.
Trước chiến tranh thế giới thứ II, LQT đã ghi nhận một số biện pháp giải
quyết hịa bình các tranh chấp quốc tế nhưng giải quyết hịa bình tranh chấp quốc
tế thời kì đó chưa trở thành nguyên tắc của LQT. Lần đầu tiên trong lịch sử nhân
loại, Hiến chương LHQ đã ghi nhận hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế là
nguyên tắc bắt buộc chung đối với tất cả các thành viên của cộng đồng quốc tế,
theo đó, tất cả các nước thành viên của LHQ phải có nghĩa vụ giải quyết tranh
chấp quốc tế bằng biện pháp hịa bình. Tại khoản 4 Điều 2 của Hiến chương này
quy định rằng: “Trong quan hệ quốc tế, các hội viên Liên hợp quốc không được
có hành động đe dọa bằng vũ lực hay dùng vũ lực để chống lại quyền bất khả
xâm phạm về lãnh thổ hay nến độc lập chính trị của bất cứ một nước nào, hoặc
4
bằng cách này hay cách khác làm trái với những mục đích của Liên hợp quốc”.
Tuy nhiên, với quy định trên đây, Hiến chương LHQ mới chỉ dừng lại ở việc đưa
ra tên gọi của nguyên tắc này, còn việc giải thích định nghĩa như thế nào là “vũ
lực” và “đe dọa dùng vũ lực” trong quan hệ quốc tế lại phụ thuộc đặt ra” vào cách
hiểu của các quốc gia. Điều này tạo ra sự giải thích khác nhau yêu cầu phải xây
dựng hệ thống các nguyên tắc và có sự giải thích thống nhất ngun tắc trong
cộng đồng quốc tế.
Sự hình thành và phát triển của nguyên tắc hịa bình giải quyết tranh chấp
quốc tế gắn liền với nguyên tắc cấm dùng vũ lực hay đe dọa dùng vũ lực trong
quan hệ quốc tế và là hệ quả của nguyên tắc này quy định trong Hiến chương
LHQ.
2.2. Điều ước quốc tế được hình thành từ nghị quyết của TCQTLCP
Từ cuối năm 60 của thế kỉ XX đã xuất hiện quan điểm cho rằng một số nghị
quyết của LHQ có chứa đựng những quy phạm thực chất và nguyên tắc của LQT,
các công ước khung và những quy tắc ứng xử điều chỉnh hành vi của quốc gia có
thể coi là một dạng đặc biệt của LQT. Các quy tắc xử sự, khuyến nghị, hướng
dẫn, nghị quyết rõ rằng khơng thuộc nguồn chính thức của LQT theo Điều 38 của
Quy chế tòa án quốc tế của LHQ. Tuy vậy, nhiều nghị quyết của các TCQTLCP
chứa đựng nhiều yếu tố của luật, thể hiện rõ cam kết của các quốc gia và được
nhiều quốc gia tơn trọng. Từ đó, các văn bản đó có thể nhanh chóng được phát
triển thành các điều ước quốc tế.
Ví dụ: Hướng dẫn và các Ngun tắc Cairo của chương trình Tồn cầu của
LHQ (UNEP) về quản lí tố mơi trường đối với các chất thải độc hại đã được các
quốc gia pháp điển hóa thành Cơng ước Basen về kiểm sốt việc vận chuyển qua
biên giới quốc gia các chất thải độc hại (Những phát triển của LQT trong thế kỉ
XXI). Đây là một văn bản pháp lý quan trọng trong vấn đề bảo vệ môi trường.
Chất thải độc hại là một loại chất thải có tính nguy hiểm cao, nguy hại cho cả mơi
trường lẫn tính mạng con người. Vì vậy, chính như Hướng dẫn và các Nguyên tắc
5
Cairo của chương trình Tồn cầu của LHQ (UNEP) về quản lí tố mơi trường đối
với các chất thải độc hại đã tạo tiền đề cho việc kí kết nên Công ước Basen.
Hay như: ICAO là TCQTLCP hoạt động trong lĩnh vực hàng khơng. Trong
hoạt động của mình ICAO đã soạn thảo nhiều văn bản dưới hình thức nghị quyết
khuyến nghị thực hành quốc tế nhằm giải quyết các vấn đề có liên quan tới hoạt
động hàng khơng.
Về giá trị pháp lý, các văn bản của ICAO không thể ngang bằng với các điều
ước quốc tế về hàng không nhưng các văn bản này đã góp phần khơng nhỏ trong
q trình pháp điển hóa và thống nhất hóa các quy phạm của Luật hàng không
quốc tế. Điều 37 Công ước Chicago 1944 về hàng không dân dụng quốc tế quy
định: nhằm mục đích thống nhất các quy tắc, tiêu chuẩn thủ tục, và tổ chức liên
quan tới phương tiện bay, nhân viên, đường hàng không…, Tổ chức Hàng không
dân dụng quốc tế, khi cần thiết, ban hành và sửa đổi từng thời kì các tiêu chuẩn và
khuyến nghị thực hành quốc tế đối với quy tắc không lưu và thực hành kiểm sốt
khơng lưu, tiêu chuẩn đủ điều kiện bay của phương tiện bay, đăng ký và dấu hiệu
nhận biết của phương tiện bay, bằng cấp của nhân viên khai thác kỹ thuật và bảo
dưỡng,…. Trên thực tế, đã có 18 phụ bản tiêu chuẩn và khuyến nghị thực hành
quốc tế do ICAO đưa ra và được các quốc gia coi như là phụ lục của công ước
Chicago 1944 về hàng không dân dụng quốc tế như Phụ lục về chứng chỉ của phi
hành đoàn, phụ lục về quốc tịch phương tiện bay và chứng chỉ đăng kí …
Như vậy căn cứ vào những nghị quyết khuyến nghị mà ICAO đưa ra mà các
quốc gia đã kí kết nên Cơng ước Chicago và coi phần đó như là phần phụ lục.
Trong các điều ước quốc tế, phụ lục được xem là phần khơng thể tác rời của điều
ước và có giá trị pháp lý như các quy định khác trong điều ước. Phần phụ lục
trong Công ước Chicago đã đề cập và làm rõ thêm một số vấn đề quan trọng trong
công ước, điều này giúp cho các quốc gia thành viên và các quốc gia khác sẽ dễ
dàng hơn trong việc thực hiện điều ước.
6
2.3. Tập quán quốc tế được hình thành từ nghị quyết của TCQTLCP
Nghị quyết của các TCQTLCP là một trong những nguồn quan trọng trong
quá trình hình thành quy phạm tập quán. Quy phạm tập quán là những quy tắc xử
xự chung, được lặp đi lặp lại nhiều lần và trải qua quá trình lâu dài. Trong những
thế kỉ trước, người ta vẫn cho rằng thời gian đó là 50 đến 100 năm hoặc nhiều hơn
nữa. Còn nghị quyết của các TCQTLCP là một khái niệm rất là mới vì các
TCQTLCP cũng chỉ mới xuất hiện.
Khái niệm tổ chức quốc tế chỉ mới ra đời đầu tiên vào khoảng thế kỉ XIX sau
khi Ủy ban thường trực sông Ranh ra đời năm 1815. Nhưng sau đây chúng ta sẽ
đi tìm hiểu những tình huống thực tế trên thế giới để chứng minh rằng nghị quyết
của các TCQTLCP chính là một nguồn để hình thành nên quy phạm tập quán.
Điểm mới trong quá trình hình thành các quy phạm tập quán từ nửa sau thế kỉ XX
là việc xuất hiện các quy phạm tập quán hình thành từ nghị quyết của các tổ chức
quốc tế liên chính phủ, đặc biệt là Liên hợp quốc. Thông thường nếu như các nghị
quyết của LHQ trong nhiều năm đều tập trung thống nhất quyết định về một vấn
đề và tất cả các quốc gia đều hành động theo quy tắc này, khi ấy đã có thể nói đến
sự hình thành quy phạm tập qn mới. Loại quy phạm này thường được hình
thành trong linh vực duy trì hịa bình và an ninh quốc tế cũng như trong việc bảo
vệ chủ quyền quốc gia. Trong thực tiễn có rất nhiều quy phạm tập quan hình
thành từ con đường nghị quyết của tổ chứcLHQ.
Ví dụ: Câu hỏi đặt ra là những hành vi nào của một quốc gia được coi là tấn
công vũ trang để từ đó các quốc gia khác thực hiện quyền tự vệ chính đáng đã
được làm sáng tỏ trong Nghị quyết của Đại hội đồng LHQ số 3314 (XXIX) ngày
14 tháng 12 năm 1974. Nghị quyết đã chỉ rõ hành vi xâm lược là các hành vi của
quốc gia này sử dụng bất hợp pháp lực lượng vũ trang tấn công vào lãnh thổ quốc
gia khác, cũng như bất kì sự bao vây phong toả nào bằng lực lượng vũ trang
chống lại quốc gia ấy. Như vậy, việc các quốc gia đồng tình với Nghị quyết trên
đây của Đại hội đồng LHQ về định nghĩa xâm lược đã thể hiện sự thừa nhận hiệu
lực quốc tế của nghị quyết, để từ đó các quốc gia hành động theo những chuẩn
7
mực được quy định trong nghị quyết. Chừng nào nghị quyết này chưa phải là điều
ước quốc tế thì việc các quốc gia hành động theo những chuẩn mực của nó chính
là sự thừa nhận quy phạm tập qn quốc tế mới hình thành.
C. KẾT LUẬN
Như vậy, chúng ta đã hiểu thêm được phần nào về vai trò của nghị quyết của
các tổ chức quốc tế liên chính phủ đối với quá trình hình thành các nguyên tắc và
các quy phạm pháp luật quốc tế. Điều đó càng được chứng minh rõ ràng trong
thực tiễn quan hệ pháp luật quốc tế ngày nay.
8
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Công ước Chicago (1944) về hàng không dân dụng quốc tế
2. Công ước Basen
3. Đại hội đồng LHQ (1974), Nghị quyết 3314 về định nghĩa xâm lược
4. Hướng dẫn và các Nguyên tắc Cairo của chương trình Tồn cầu của LHQ
(UNEP) về quản lí tố môi trường đối với các chất thải độc hại
5. Hiến chương Liên hợp quốc.
6. Quy chế Tòa án quốc tế.
7. Trường Đại học Luật Hà Nội (2013), Giáo trình Luật quốc tế. Nxb.Công
an nhân dân, Hà nội.
8. Viện Khoa học pháp lý (2006), Từ điển luật học, Nxb Từ điển Bách khoa,
Hà Nội.
Website:
- />
9