Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Từ công cụ định vị văn hóa bằng tôn giáo, hãy phân tích vai trò của các tôn giáo lớn đối với xã hội việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (93.17 KB, 13 trang )

Đề bài: Từ cơng cụ định vị văn hóa bằng tơn giáo, hãy phân tích vai trị của
các tơn giáo lớn đối với xã hội Việt Nam hiện nay.

Mục Lục
A. Phần mở đầu

6

B. Phần nội dung

6

1. Khái niệm công cụ định vị tơn giáo

6

2. Phật giáo và vai trị của Phật giáo trong đời sống

7

3. Nho giáo và vai trò của Nho giáo trong đời sống

10

4. Đạo giáo và vai trò của Đạo giáo trong đời sống

14

5. Giải pháp phát huy ảnh hưởng tích cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của các 15
tôn giáo VN


C. Tổng kết

16

Phụ lục

17

1


A.

Phần mở đầu

Tôn giáo thuộc phạm trù ý thức hệ nhưng rất đặc biệt. Tôn giáo là một thành tố xã
hội, văn hố, đạo đức mang tính cộng đồng. Trong thời đại ngày nay, tôn giáo là một
sức mạnh. Vấn đề tơn giáo chiếm giữ một vị trí rất quan trọng, bởi bản thân nó ln
ẩn chứa nhiều yếu tố, có thể chi phối, tác động mạnh mẽ đến nhiều lĩnh vực của đời
sống xã hội, thậm chí là sự mất, còn; sự phát triển hay suy yếu của quốc gia, dân tộc.
Thực tiễn đời sống tôn giáo ở nhiều quốc gia trên thế giới cho thấy, tôn giáo không chỉ
có vai trị tích cực đối với xã hội thơng qua các giá trị văn hố, đạo đức của nó, mà tơn
giáo cịn có nhiều giá trị tiến bộ và tích cực khác đối với ổn định xã hội, đồn kết,
khoan dung xã hội và sự phát triển bền vững. Tôn giáo cũng là một lực lượng quan
trọng để thúc đẩy mở rộng tình đồn kết hữu nghị giữa nhân dân các nước; giải quyết
các vấn đề có tính chất tồn cầu như: Bảo vệ mơi trường, chống chiến tranh, bá
quyền, bạo lực, nghèo đói, thảm hoạ thiên tai, các căn bệnh thế kỷ,…Từ những lí do
đó, nhóm 6 chúng em xin phép được trình bày vấn đề: “Từ cơng cụ định vị văn hóa
bằng tơn giáo, hãy phân tích vai trị của các tơn giáo lớn đối với xã hội Việt Nam hiện
nay”.

B. Nội dung

1. Khái niệm công cụ định vị tôn giáo:
Tôn giáo là cụm từ chúng ta hay nhắc tới khi nói đến văn hóa Việt Nam, tuy nhiên
không phải ai cũng biết rõ khái niệm này bởi lẽ trong lịch sử đã tồn tại rất nhiều các
quan niệm khác nhau về tôn giáo. Theo C. Mác: “Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng
sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới khơng có trái tim, nó là tinh thần của trật tự
khơng có tinh thần”. Các nhà thần học cho rằng: “Tôn giáo là mối liên hệ giữa thần
thánh và con người”. Một số nhà tâm lý học lại cho rằng “Tôn giáo là sự sáng tạo của
mỗi cá nhân trong nỗi cô đơn của mình, tơn giáo là sự cơ đơn, nếu anh chưa từng cơ
đơn thì anh chưa bao giờ có tơn giáo”. 1 Vậy tơn giáo là gì?
Trước hết nhắc đến nguồn gốc tơn giáo thì tơn giáo do con người sáng tạo và do con
người sùng bái mà trở thành một kiểu tồn tại. Con người trong quá khứ đã bất lực
trước sức mạnh tự phát của thiên nhiên do chưa hiểu biết rộng rãi về các vấn đề khoa
học tự nhiên, xã hội. Mặt khác, trong xã hội xưa, giai cấp thống trị đã lợi dụng tôn
giáo để ru ngủ sức phản kháng của các giai cấp khác. Và một điều tồn tại cho đến
ngày nay là sự bất lực, bất hạnh trong cuộc sống cá nhân khiến con người tìm đến tơn
giáo như một chỗ dựa. Tơn giáo cịn do tín ngưỡng phát triển thành.
Như vậy, ta có thể định nghĩa: Tôn giáo là niềm tin của con người vào các lực lượng
siêu nhiên, vơ hình, thiêng liêng, được chấp nhận và sùng bái, nhằm lý giải những vấn
đề trong thế giới hiện hữu và thế giới khác. Nó tồn tại với hệ thống quan niệm và hoạt
1 />
2


động bao gồm đối tượng tôn giáo, lễ nghi, giáo lý, giáo luật và tổ chức. Nó đóng vai
trị là cơng cụ định vị văn hóa Việt Nam. Nói cách khác, tôn giáo là cơ sở để xác định
Việt Nam nằm ở vị trí nào trên bản đồ văn hóa.
Ngày nay tơn giáo đóng vai trị rất lớn trong đời sống tinh thần của người Việt Nam.
Xét theo công cụ định vị tôn giáo, Việt Nam tồn tại ba tôn giáo lớn là: Phật giáo, Nho

giáo và Đạo giáo (Lão giáo) trên cơ sở Tam giáo đồng nguyên với Phật giáo là trọng
tâm. Mặc dù việc giao lưu – tiếp biến văn hóa đã làm đa dạng hóa các tơn giáo ở Việt
Nam cũng như làm xuất hiện các tôn giáo mới du nhập từ phương Tây nhưng Nho –
Phật – Đạo luôn là các tôn giáo ảnh hưởng lớn nhất đến đời sống con người Việt Nam
hiện nay.
2. Phật giáo và vai trò của Phật giáo trong đời sống hiện nay
Phật giáo hay đạo Phật là một tôn giáo đồng thời cũng là một hệ thống triết học bao
gồm một loạt các giáo lý, tư tưởng triết học cũng như tư tưởng cùng tư duy về nhân
sinh quan, vũ trụ quan, thế giới quan, giải thích hiện tượng tự nhiên, tâm linh, xã hội,
bản chất sự vật và sự việc. Phật giáo là một trào lưu triết học-tôn giáo xuất hiện vào
khoảng thế kỷ thứ 6 TCN ở Bắc Ấn Độ. Người sáng lập ra hệ thống triết học- tôn giáo
này là Tất Đạt Đa (Siddhatha), thái tử của vua Tịnh Phạn (Suddhodana) thuộc bộ tộc
Sakiya.
Phật giáo được du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, khoảng thế kỷ thứ III đến thế kỷ II
trước Công nguyên. Ở Việt Nam, Phật giáo Việt Nam gắn bó với dân tộc Việt Nam
trong cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước từng là cơ sở của khối đại đoàn kết dân
tộc. Với hệ tư tưởng nhân nghĩa tốt đẹp, Phật giáo là phương tiện để biểu đạt chủ
nghĩa nhân đạo và tính vị tha của dân tộc Việt Nam như quan điểm “ở hiền gặp lành”,
“báo đáp tứ trọng ân”, “người Phật tử hiếu hạnh”, “hành thiện tránh ác”, “từ bi cứu
khổ”, “tơn trọng con người”, “bình đẳng tâm, khơng phân biệt đẳng cấp, sang hèn”,
“u chuộng hịa bình”... đã thấm đậm trong tâm tưởng mỗi con người Việt Nam qua
các thế hệ. Nó đã góp phần tạo dựng nên nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc dân
tộc.
Phật giáo đóng vai trị to lớn đối với đời sống con người biểu hiện rõ rệt nhất ở đạo
đức, văn hóa ứng xử cũng như lối sống, tư tưởng chính trị và pháp luật Việt Nam hiện
hành.
Đạo đức Phật giáo chính là một trong những yếu tố có vai trị quan trọng trong giáo
dục đạo đức thanh niên Việt Nam hiện nay. Tại nhiều ngôi chùa trong cả nước đã thực
hiện tốt việc truyền tải các giá trị đạo đức Phật giáo vào trong thanh niên thông qua
các câu lạc bộ thanh niên Phật tử hay các khóa tu ngắn nhân mùa Vu lan, khóa tu mùa

hè…dành cho học sinh, sinh viên. Chùa Quán Sứ, chùa Bằng A tại quận Hoàng Mai,
Hà Nội, chùa Đình Qn… là những ngơi chùa điển hình trong việc giáo dục đạo đức
một cách hiệu quả cho thanh niên hiện nay.
3


Ngồi ra Phật giáo cịn có tác dụng trong việc giáo dục ý thức, hành vi, khuyến khích
các tín đồ phật tử 50 làm nhiều việc lành, tránh việc ác, giữ tâm trong sạch, khuyến
khích hoạt động cơng ích cứu tế, giúp người có hồn cảnh khó khăn, thậm chí là cứu
người khỏi cửa tử, với phương châm: “Dù xây chín bậc phù đồ/Khơng bằng làm phúc
cứu cho một người”.
Tục ăn chay, phóng sinh vào các dịp lễ quan trong của Phật giáo cũng là biểu hiện của
tinh thần yêu sự sống, u giống lồi, khơng sát sanh. Từ đó, chúng ta có thể chia sẻ
quan điểm với PGS.TS Đặng Thị Lan cho rằng: “Đạo Phật là đạo của lòng từ bi, hỷ
xả, sẵn sàng xóa đi những ốn ghét, phục thù”. 1 Điều này rất phù hợp với bản chất
nhân đạo của người Việt.
Về giao tiếp, ứng xử trong gia đình, Phật giáo khơng chỉ ảnh hưởng tích cực đến việc
điều chỉnh hành vi của thanh niên trong mối quan hệ vợ chồng mà tới việc điều chỉnh
hành vi đạo đức trong mối quan hệ giữa con cháu với ông bà, cha mẹ. Phật giáo đề
cao sự hòa thuận và trách nhiệm của các bậc cha mẹ, anh em, vợ chồng… đề cao sự
hiếu thuận thông qua thực hiện Tứ ân. Điều này được thể hiện rất nhiều trong ca dao,
tục ngữ Việt Nam: “Công cha như núi Thái Sơn/Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy
ra/Một lòng thờ mẹ, kính cha/Cho trịn chữ hiếu mới là đạo con”, hay như: “Đi khắp
thế gian, không ai tốt bằng mẹ/Gánh nặng cuộc đời, không ai khổ bằng cha” đã trở
thành đạo lý, lẽ sống của người Việt.
Đối với văn hóa dân tộc, Phật giáo hình thành những nét văn hóa, những lối sống tốt
đẹp điển hình như:
Tục ăn chay: rất đơng người Việt Nam chịu ảnh hưởng nếp sống văn hóa này, phải thể
hiện lịng từ bi (điều khơng thể có được khi con người còn ăn thịt, còn uống máu
chúng sinh), cũng là một cách ủng hộ quyền động vật. Một số chùa ở Hà Nội (chùa

Kim Liên, chùa Bồ Đề…) thường xuyên tổ chức nấu cơm chay vào ngày rằm và
mùng một hàng tháng để phục vụ các Phật tử.
Phóng sinh và bố thí: mọi người tham gia vào những đợt cứu trợ, tương tế cho các
đồng bào gặp thiên tai, hoạn nạn, gặp hồn cảnh sống gặp khó khăn đúng với truyền
thống đạo lí của dân tộc “lá lành đùm lá rách.
Cúng Rằm, mùng Một và lễ chùa: người Việt Nam muốn đi xem lễ hội hoặc thích
chiêm ngưỡng vẻ đẹp của chùa chiền, nhưng khi đã hội nhập vào bầu khơng khí trang
nghiêm họ cũng thấy mình trở nên đĩnh đạc và trầm tĩnh hơn. Họ cầu phúc cho bản
thân và mọi người, nhờ đó con người sống nhân ái, chan hòa, yêu thương nhau hơn.
Những tổ chức gia đình hướng thiện như gia đình Liên Hoa ở Hà Nội đang là nơi giáo
dục đào tạo thanh thiếu niên trở thành những người cơng dân tốt, góp phần xây dựng
xã hội mới.
1 Đặng Thị Lan (2006), Đạo đức Phật giáo với đạo đức con người Việt Nam, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội

4


Nhiều quần thể kiến trúc độc đáo và danh lam thắng cảnh, nhiều ngôi chùa nổi tiếng ở
Hà Nội như chùa Một Cột, chùa Quán Sứ, chùa Láng, chùa Hà... Các ngôi chùa ở Hà
Nội hàm chứa cả nội dung triết lý Phật giáo và nội dung thẩm mỹ thanh khiết, là một
tác phẩm nghệ thuật, một cơng trình kiến trúc phản ánh triết lý tổng hợp của Phật giáo
Việt Nam. Phật giáo để lại nhiều quần thể kiến trúc độc đáo và danh lam thắng cảnh
cho nước Việt, nhiều ngơi chùa nổi tiếng như ở miền Bắc có chùa Một Cột, chùa Tây
phương, chùa Hương, ở miền Trung có chùa Thiên Mụ, chùa Từ Hiếu, chùa Báo
Quốc; và ở miền Nam có các chùa Giác Lâm, chùa Vĩnh Tràng… trở thành điểm đến
thu hút khách du lịch trong và ngồi nước.
Đối với tư tưởng chính trị và pháp luật, Phật giáo cũng đóng một vai trị to lớn.
Trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, các đại diện thành viên của Giáo hội từ Trung
ương đến địa phương đều tham gia Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp. Nhìn
chung, Tăng Ni và Phật tử ln giữ vững lập trường, phát huy truyền thống đồn kết,

hịa hợp, độc lập dân tộc, theo hướng đi lên của thời đại, góp phần xây dựng xã hội
Việt Nam văn minh, tiến bộ, giàu mạnh.
Trong xã hội hiện đại, đời sống vật chất và tinh thần của con người được cải thiện và
nâng cao rõ rệt. Song nó ln ln tồn tại một thực tế là các nhu cầu của con người và
nhu cầu xã hội phát triển quá nhanh hơn so với sự cung cấp và đảm bảo cho các nhu
cầu đó, đồng thời với những thiên tai, dịch bệnh, xung đột…đã đẩy con người luôn
phải đối diện với những khổ đau, bất hạnh, phiền muộn. Do đó, ngày càng có nhiều
người cần một nơi nương tựa về tinh thần để tự giải phóng khỏi những khổ đau đó.
Ban Hoằng pháp và Ban Hướng dẫn Phật tử của Giáo hội đã làm tốt sứ mệnh của
mình giúp cho mọi người tăng trưởng đạo tâm, phát huy chính tín, tạo nguồn an lạc,
lạc quan, giải thoát, ổn định trong cuộc sống.
Tiếp thu tư tưởng vị tha của đạo Phật, pháp luật Việt Nam có những quy định về việc
giảm án đối với những phạm nhân biết hối cải, khuyến khích người phạm tội ra đầu
thú để được hưởng sự khoan hồng của pháp luật. Từ đó, con người có niềm tin để làm
lại cuộc đời, sống tốt đẹp hơn.
Hiện nay, hơn bao giờ hết, Phật giáo có những hoạt động thiết thực đóng góp cho đất
nước trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng và luôn luôn đồng hành với dân tộc. Phương
châm hành đạo của Giáo hội Phật giáo Việt Nam là “Đạo pháp – Dân tộc – Chủ nghĩa
xã hội”. Nhiều vị chức sắc Phật giáo tham gia Quốc hội, Mặt trận Tổ Quốc và đã có
những ý kiến đóng góp hiệu quả cho Đảng và Nhà nước. Đặc biệt Phật giáo ln ln
tích cực đấu tranh chống lại những hoạt động lợi dụng tôn giáo phá hoại cách mạng
nước ta của các thế lực thù địch, vạch rõ âm mưu thâm độc của chúng, qua đó bảo vệ
chính sách dân tộc, tôn giáo đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta, góp phần ổn định,
phát triển đất nước.
3. Nho giáo và vai trò của Nho giáo đối với đời sống hiện nay
5


Nho giáo là một thuật ngữ bắt đầu từ chữ Nho. Nho là hạng người luôn luôn được cần
dùng đến để giúp ích cho nhân quần xã hội biết cách ăn ở sao cho hợp với lòng người

và lẽ Trời.
Nho giáo là một tôn giáo bắt nguồn từ Trung Quốc, là một hệ tư tưởng ảnh hưởng lớn
đến đời sống con người Việt Nam. Người có cơng sáng lập ra Nho giáo là Khổng Tử
(551-479 TCN), tên là Khâu, tự là Trọng Ni, người nước Lỗ (nay thuộc tỉnh Sơn
Đông, Trung Quốc). Dưới thời Bắc thuộc, Nho giáo du nhập vào Việt Nam với vai trị
một cơng cụ đồng hóa của quân xâm lược. Lúc ấy, Nho giáo chưa có vị thế trong xã
hội Việt Nam bởi vì người ta quan niệm nó đến kèm với cai trị, bóc lột, chiến tranh,…
Mãi cho đến khi Văn Miếu được xây dựng dưới đời Thánh Tơng thời Lý thì Nho giáo
mới được chính thức tiếp nhận ở Việt Nam. Hiện diện trên đất Việt hơn 2000 năm,
Nho giáo từng rất được coi trọng, đặc biệt thời Lê, Nguyễn đã học tập nhiều về cách
thức tổ chức triều đình và hệ thống pháp luật.
Hệ thống của Nho giáo thì theo chủ nghĩa: “Thiên Địa Vạn vật đồng nhất thể”, nghĩa
là: Trời Đất và muôn vật đều đồng một thể với nhau. Để tổ chức xã hội có hiệu quả,
điều quan trọng nhất là phải đào tạo cho được người cai trị kiểu mẫu - người lý tưởng
này gọi là Quân Tử. Để trở thành người quân tử, con người ta trước hết phải "Tự Đào
Tạo", phải "Tu Thân". Sau khi Tu Thân xong, người qn tử phải có bổn phận phải
"Hành Đạo".
Vai trị của Nho giáo biểu hiện rõ ràng nhất trong đạo đức, văn hóa ứng xử, đời sống
chính trị - pháp luật.
Về đạo đức, Nho giáo có vai trị tích cực trong việc giáo dục mỗi cá nhân ý thức tự tu
dưỡng đạo đức của bản thân. Không thể phủ nhận rằng đạo đức của một bộ phận
không nhỏ người Việt Nam đang xuống cấp trầm trọng (những vụ giết người, phạm
tội, tình trạng vơ cảm diễn ra hết sức phổ biến). Chính vì thế, việc tự rèn luyện, tu
dưỡng đạo đức là điều vô cùng quan trọng đối với cá nhân. Nó giúp cho con người
giữ vững được những nhân cách trước mọi thử thách và cám dỗ của cuộc sống hiện
đại.
Nho giáo cũng có tác dụng trong việc giáo dục con người có ý thức tơn trọng trật tự,
kỉ cương, có tinh thần, trách nhiệm đối với các mối quan hệ của mình từ trong gia
đình cho đến ngồi xã hội. Trong xã hội hiện tại, mỗi cá nhân hàng ngày, hàng giờ
đang tham gia đời sống xã hội với rất nhiều các mối quan hệ, các cách thức khác

nhau. Nhưng, dù có là mối quan hệ nào đi chăng nữa thì việc đề ra những quy định,
những chuẩn mực đạo đức mang tính nguyên tắc quy định trách nhiệm, nghĩa vụ cho
mỗi cá nhân tham gia vào mối quan hệ ấy theo từng vị trí khác nhau là điều cần thiết
và quan trọng. Đó cũng chính là cái chuẩn để đánh giá một con người là tốt hay xấu,
là thiện hay ác, người có tư cách hay khơng có tư cách.

6


Tính nhân văn trong đạo đức Nho giáo có ảnh hưởng tích cực trong việc xây dựng đời
sống đạo đức của người Việt Nam hiện nay hướng tới chủ nghĩa nhân văn, nhân đạo
cao cả. Những tư tưởng nhân nghĩa của Nho giáo cần được khai thác mạnh hơn trước
hiện trạng bất ổn của xã hội hiện đại khi mà tình nghĩa gia đình, làng xóm, lịng nhân
ái, khoan dung, vị tha của con người đang dần phai nhạt, khi mà thái độ thờ ơ, vô
cảm, dửng dưng trước những bất hạnh của người khác ngày càng trở nên phổ biến,
khi mà những tấm lòng nhân ái, khoan dung trở nên yếu thế trước sức mạnh của vật
chất, tiền bạc …
Vai trò của Nho giáo biểu hiện trong những mối quan hệ gia đình. Trong quan hệ giữa
cha mẹ và con cái, Nho giáo có những vai trị nhất định trong việc điều chỉnh quan hệ
ứng xử giữa cha mẹ và con cái, đó là hai chuẩn mực căn bản: “từ” và “hiếu”.
“Từ” thể hiện tình thương cũng như trách nhiệm của cha mẹ đối với con cái. Trong
gia đình Việt Nam truyền thống thể hiện rất rõ điều này, cha mẹ luôn quan tâm chăm
lo đến con cái. Ngày nay, tình thương ấy vẫn được thể hiện đậm nét ở sự quan tâm
chăm sóc đến đời sống vật chất, tinh thần và tương lai của con cái. Nuôi con khỏe
mạnh, khôn lớn; dạy con cách thức ứng xử trong quan hệ với mọi người xung quanh,
với anh em, họ hàng, làng nước; lo lắng cho tương lai của con cái; dạy con nghề
nghiệp; dựng vợ, gả chồng và cố gắng dành dụm cho con một chút sản nghiệp… Đó
là trách nhiệm, đồng thời cũng là niềm hạnh phúc, thậm chí cịn là lẽ sống của nhiều
người làm cha mẹ. Nếu những trách nhiệm đó được thực hiện sn sẻ, người ta sẽ
được hưởng sự thanh thản và hạnh phúc; ngược lại, vì một lý do nào đó, những trách

nhiệm ấy không được thực hiện, người ta sẽ cảm thấy bất hạnh, thậm chí “chết khơng
nhắm mắt được”.
“Hiếu” được coi là chuẩn mực, đồng thời là phẩm chất đạo đức trung tâm và quan
trọng nhất của con người trong quan hệ gia đình. Một trong những điểm nổi bật của
đạo đức Nho giáo là rất mực đề cao đạo “hiếu” của con cái đối với cha mẹ ở trong gia
đình. Hiện nay, một trong những tiêu chí mà Đảng, Nhà nước ta chú trọng, đó là xây
dựng gia đình “ơng bà, cha mẹ gương mẫu; con cháu hiếu thảo”. Tuy rằng, đây là
những chuẩn mực đạo đức quy định hành vi ứng xử giữa những thành viên gia đình
trong xã hội mới, nhưng có thể thấy, nó chịu nhiều ảnh hưởng từ tư tưởng “hiếu” của
Nho giáo… Trong các gia đình Việt Nam hiện nay vẫn thường lấy chữ “hiếu” để giáo
dục, uốn nắn, xây dựng mối quan hệ gắn bó giữa con cái với cha mẹ. Đạo hiếu của
con cái đối với cha mẹ thể hiện rất cụ thể và đời thường thơng qua sự quan tâm, chăm
sóc, phụng dưỡng cha mẹ khi già yếu; vâng lời giáo huấn của cha mẹ; làm bất cứ việc
gì cũng ln giữ gìn bản thân để cha mẹ yên tâm và cảm thấy tự hào hoặc không phải
lo lắng... Đạo “hiếu” đã trở thành một phẩm chất đạo đức rất đời thường và gần gũi,
một nét đẹp văn hóa trong cách ứng xử của con cái đối với cha mẹ trong gia đình
người Việt truyền thống cũng như hiện đại.

7


Thông qua tư tưởng “tam cương”, “ngũ thường” và “tứ đức”, Nho giáo có vai trị rất
to lớn trong quan hệ vợ chồng. Những chuẩn mực đạo đức này đã tác động lớn đến
hành vi ứng xử trong quan hệ giữa vợ chồng, hình thành nên lối sống tình nghĩa, thủy
chung, hòa thuận. Đây là cơ sở để xây dựng nên quan hệ vợ chồng bền vững, yên ấm,
hạnh phúc. Chuẩn mực đạo đức tình nghĩa, thủy chung, hịa thuận trong quan hệ vợ
chồng thể hiện thơng qua tình u thương, sự quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, chia
sẻ với nhau những cơng việc trong gia đình như: lao động sản xuất; phụng dưỡng cha
mẹ già; chăm sóc, ni dạy con cái… Đây là những giá trị đạo đức tạo nên sức mạnh
để vợ chồng vượt qua khó khăn trong cuộc sống. Tình nghĩa gắn bó, thủy chung, hịa

thuận trong quan hệ vợ chồng được thể hiện một cách dung dị, đời thường trong cuộc
sống hàng ngày thông qua các câu ca dao, tục ngữ “Vợ chồng là nghĩa tào
khang/Xuống khe bắt ốc lên ngàn hái rau” hay “Chồng em áo rách em thương/Chồng
người áo gấm xông hương mặc người”. Nho giáo rất mực đề cao sự gắn bó, hòa
thuận, mặc dù nhiều khi các cặp vợ chồng lấy nhau khơng xuất phát từ tình u đơi
lứa mà xuất phát từ sự sắp đặt của cha mẹ. Ngày nay, những giá trị đạo đức tình
nghĩa, thủy chung, hịa thuận trong quan hệ vợ chồng vẫn luôn được coi trọng và lưu
giữ ở nhiều gia đình, được thực hiện một cách phổ biến trên cơ sở bình đẳng giữa vợ
và chồng. Đây là một tiêu chí cơ bản để xây dựng gia đình “hịa thuận, tiến bộ, hạnh
phúc, văn minh”.
VD: theo Khoản 1 Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 qui định: Vợ chồng
có nghĩa vụ thương u, chung thủy, tơn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau;
cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình.
Quan hệ giữa anh, chị, em (quan hệ anh - em) cũng được Nho giáo xem là một trong
những mối quan hệ rường cột (ngũ luân). Do chịu sự tác động và quy định của “ngũ
luân”, “ngũ thường” hay “hiếu đễ” mà trong các gia đình, mối quan hệ anh em luôn
được chú trọng xây dựng bền chặt. Hịa thuận địi hỏi anh em phải thương u, đồn
kết và giúp đỡ lẫn nhau; đồng thời hòa thuận cũng là kết quả của tình thương u,
đồn kết và giúp đỡ. Cha mẹ sinh con, mong muốn con nên người thì cũng mong
muốn các con hịa thuận, thương u, giúp đỡ lẫn nhau. Ngược lại, con cái muốn cha
mẹ vui lịng, nghĩa là muốn làm trịn đạo hiếu thì ngồi việc phụng dưỡng cha mẹ còn
phải hòa thuận với anh em; chỉ như thế thì chữ hiếu mới được trọn vẹn. Sự hòa thuận
của anh em là một trong những yếu tố làm nên sự hịa thuận của gia đình và sự ổn
định của xã hội.
Đây là những giá trị mang tính trường tồn của đạo đức Nho giáo, có ảnh hưởng tích
cực đến việc giữ gìn hịa thuận trong gia đình hiện nay, góp phần thực hiện thành cơng
một trong những tiêu chí cơ bản của việc xây dựng gia đình văn hóa.
Trong quan hệ giữa gia đình và xã hội, Nho giáo cho rằng, người và người không thể
sống tách rời nhau mà có mn nghìn gắn bó với nhau trong những cộng đồng nhất
8



định. Chịu sự tác động của đạo đức Nho giáo, cùng với truyền thống văn hóa dân tộc,
các gia đình người Việt ln có sự cố kết, gắn bó với cộng đồng. Gia đình ln là cơ
sở, nền tảng và cầu nối để con người vươn ra ngoài xã hội. Cũng chính từ đây hình
thành nên mối quan hệ tình nghĩa, gắn bó mật thiết giữa gia đình và xã hội, tạo nên
một kết cấu xã hội bền chặt giữa nhà - làng - nước. Gia đình tốt thì xã hội tốt, gia đình
ổn định thì cộng đồng ổn định, phát triển.
Do ảnh hưởng bởi tư tưởng Nho giáo, coi trọng quan hệ huyết thống và đề cao danh
dự gia đình, dịng họ. Nên các thành viên trong gia đình, dịng họ thường có ý thức
đồn kết giúp đỡ nhau vươn lên, nhắc nhở nhau giữ gìn danh dự bản thân, gia đình,
dịng họ, khơng để mọi người trong cộng đồng cười chê, khinh miệt. Vì thế, ở nhiều
địa phương, chúng ta thấy vai trị khơng nhỏ của các gia đình, dịng họ trong việc
tham gia tích cực vào các phong trào do cộng đồng phát động, như phong trào phát
triển kinh tế, văn hóa, giữ gìn an ninh trật tự địa phương..., góp phần giữ gìn ổn định
và phát triển cộng đồng.
Về đời sống chính trị, đường lối đức trị của Nho giáo với quan niệm lấy con người
làm cơ sở xuất phát cho các chủ trương chính trị đang có những ảnh hưởng tích cực
trong việc xây dựng nền chính trị vì nhân dân ở nước ta hiện nay. Tư tưởng lấy dân
làm gốc được Đảng và Nhà nước ta quán triệt một cách sâu sắc trong toàn bộ hoạt
động lãnh đạo, quản lí của mình. Trong Văn kiện Đại hội XII, Đảng ta nhấn mạnh:
“Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước phải xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân,
được nhân dân tham gia ý kiến”1.
Nho giáo cịn có vai trị đối với cơng tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lí ở nước ta hiện nay. Với hàng loạt những chuẩn mực và cách thức rèn luyện, tu
dưỡng đạo đức mà Nho giáo đề ra cho người quân tử - những người lãnh đạo xã hội
đã và đang có ý nghĩa to lớn trước thực trạng xuống cấp nghiêm trọng về mặt đạo đức
của một bộ phận không nhỏ cán bộ lãnh đạo, quản lí trong các cơ quan của hệ thống

chính trị.
Đối với đời sống pháp luật, những quan niệm đạo đức trong Nho giáo có tác dụng
thúc đẩy con người đạt tới cảnh giới cao nhất của việc thực thi pháp luật, giúp họ thi
hành pháp luật một cách triệt để. Mặc dù Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đang hướng
tới xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nhưng trong đó ln là sự kết
hợp chặt chẽ và nhuần nhuyễn giữa đức trị và pháp trị trong việc quản lí xã hội. Cách
thức điều chỉnh hành vi con người bằng đạo đức vẫn được nhà nước quan tâm và
khuyến khích sử dụng đặc biệt trong các quan hệ mà pháp luật chưa vươn tới. Với
cách thức ổn định trật tự xã hội như vây, ngồi việc răn đe bằng các hình phạt, có thể
1 Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đại biểu tồn quốc lần thứ XII, Văn phịng Trung ương Đảng, Hà
Nội.

9


phát huy tính tự nguyện, tự giác của mỗi con người trong việc tuân thủ các quy chuẩn
đạo đức nhằm xây dụng một xã hội có trật tự ổn định, bền vững và lâu dài.
Tiếp đến, những chuẩn mực đạo đức Nho giáo (đặc biệt là tư tưởng nhân, nghĩa) có
ảnh hưởng tích cực khi góp phần làm tăng tính nhân văn trong việc ban hành và cơ
chế thực thi các bộ luật, phù hợp với truyền thống trọng tình, trọng nghĩa của người
Việt. Trong lịch sử phát triển xã hội nói chung, mục đích phát triển xã hội, cố gắng
đưa xã hội tiến lên một tầm cao mới tất cả cũng chỉ vì lợi ích của con người. Điều này
càng được nhấn mạnh một cách sâu sắc trong xã hội xã hội chủ nghĩa với mục tiêu
phát triển cao nhất là hướng tới sự giải phóng con người một cách triệt để. Cũng chính
vì thế trong q trình xây dựng xã hội chủ nghĩa, yêu cầu thực hiện tính nhân văn,
nhân đạo đối với con người là yêu cầu hàng đầu trong sự tồn tại và phát triển của tất
cả các lĩnh vực bao gồm cả pháp luật. Trong hệ thống pháp luật Việt Nam ln có sự
kết hợp chặt chẽ giữa tình và lí, giữa đạo đức và pháp luật.
VD: theo Khoản 2 Điều 3 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: Cá nhân, pháp nhân xác
lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện

cam kết, thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, khơng
trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác
tôn trọng.
Những tư tưởng nhân nghĩa của đạo đức Nho giáo cũng là một trong những tác nhân
làm cho nhiều hình phạt trong Bộ luật hình sự của nước ta chủ yếu nghiêng theo
hướng cải tạo, giáo dục những người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội. Hình
phạt khơng gây đau đớn đến thể xác của người phạm tội. Hiến pháp Việt Nam luôn
nhấn mạnh tính nhân đạo, địi hỏi trị đúng người, đúng tội với phạm nhân.
VD: theo Điều 16 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định: người tự ý nửa chừng chấm
dứt việc phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm.
4. Đạo giáo và vai trò của Đạo giáo trong đời sống hiện nay
Đạo của Lão Tử là một khái niệm trừu tượng chỉ cái tự nhiên, cái có sẵn một cách tự
nhiên. Nó là nguồn gốc của vạn vật. “Theo Đức Lão Tử, Đạo là cái vô danh có trước
trời đất, khơng hình hài, n lặng trống khơng, huyền diệu vơ cùng, tạo ra trời đất và
hóa sinh vạn vật.”1. Cơ sở lý luận của nó là Đạo gia – triết thuyết do Lão Tử đề xướng
và Trang Tử hoàn thiện (học thuyết Lão - Trang). “Đây là học thuyết chủ trương sống
hòa hợp với thiên nhiên, phù hợp với Đạo (quy luật của trời đất) để bảo tồn ‘cái tôi’
của con người”2
Đạo giáo đã thâm nhập vào Việt Nam từ cuối thế kỉ thứ II. Do thuyết vô vi mang tư
tưởng phản kháng bọn thống trị, nó được người dân dùng làm vũ khí chống phong
1 />2 TS.Phạm Thái Việt (chủ biên), TS. Đào Ngọc Tuấn, Đại cương văn hóa Việt Nam, Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội,
2004, trang 52.

10


kiến phương Bắc. Nó lại có nhiều yếu tố thần tiên, huyền bí, nên hợp với tiềm thức
con người và tín ngưỡng ngun thuỷ.
Đạo giáo có vai trị tích cực đối với xã hội thông qua các giá trị văn hoá, đạo đức.
Giống như Phật giáo và Nho giáo, Đạo giáo cũng hướng con người đến Chân – Thiện

– Mĩ.
Đạo giáo đã đóng góp khá lớn đối với các di sản văn hóa của nhân loại nói chung và
Việt Nam nói riêng và góp phần truyền tải các giá trị văn hóa, văn minh trong q
trình giao lưu với nhau trên thế giới. Nó từng là nhân tố quan trọng tạo ra hệ giá trị xã
hội là lực lượng xã hội, có các hệ giá trị văn hố, đạo đức riêng để điều chỉnh hành vi,
chuẩn mực, lối sống... của đơng đảo tín đồ. Đạo giáo là một mắt xích kết nối các giá
trị nghệ thuật khu vực dân tộc thiểu số Việt Nam, đáp ứng được những nhu cầu tinh
thần của một bộ phận nhân dân và bù đắp những bất lực hiện thực của họ, là nơi để
gửi gắm đời sống tâm linh. Đạo giáo phản ánh khát vọng của con người, mong muốn
về một xã hội tốt đẹp hơn. Ngồi ra nó cịn làm tăng sự liên kết xã hội, hướng con
người về những giá trị cao cả, đạo đức, hướng thiện và góp phần tạo dựng, tham gia
sáng tạo các giá trị văn hóa của dân tộc.
Ở Việt Nam, Đạo giáo như một tôn giáo đã tàn lụi từ lâu. Đến nay, những hiện tượng
như đồng bóng, đội bát nhang, bùa chú… tuy vẫn lưu truyền, nhưng chúng chỉ cịn là
những di sản của tín ngưỡng dân gian truyền thống mà thôi.
5. Giải pháp phát huy ảnh hưởng tích cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của các tôn
giáo VN:
Tôn giáo là vấn đề tế nhị và nhạy cảm vì vậy việc đề ra chính sách và thực hiện tín
ngưỡng tơn giáo là vấn đề khó khăn phức tạp, phải rất thận trọng. Do vậy yêu cầu đặt
ra là Đảng và Nhà nước phải đề ra các chủ trương chính sách phù hợp đối với cơng
tác tín ngưỡng tơn giáo sao cho vừa phát huy vai trị của tơn giáo trong đời sống xã
hội vừa tơn trọng quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân. Chúng em xin đưa ra một số
biện pháp để phát huy vai trị của các tơn giáo hiện nay.
Đầu tiên là để tăng cường đồn kết tơn giáo thì ta cần nâng cao nhận thức tư tưởng về
vấn đề đoàn kết tơn giáo trong tình hình mới, bổ sung và hồn chỉnh hệ thống pháp
luật tơn giáo ở Việt Nam hiện nay, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm cơng tác
tơn giáo và vai trị lãnh đạo của đảng quản lý nhà nước về tôn giáo trong bối cảnh
hiện nay, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các tơn giáo,
thực hiện bình đẳng giữa các tôn giáo giữa đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không
theo tôn giáo và kiên quyết đấu tranh với những hiện tượng tiêu cực trong tôn giáo và

đập tan âm mưu lợi dụng tôn giáo để chống phá nhà nước của lực lượng thù địch .
Thứ hai, Đảng và Nhà nước cần tăng cường công tác tôn giáo. Hơn bao giờ hết, ta cần
tiếp tục quan tâm đến việc tổ chức cho cán bộ nhân dân nói chung đồng bào nói riêng
11


học tập các quan điểm chính sách của đảng nhà nước ta đối với tôn giáo các ngành
các cấp cần đẩy mạnh tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật về tơn giáo. Bên cạnh
đó cần tập trung nâng cao nhận thức thống nhất quan điểm trách nhiệm của hệ thống
chính trị và tồn bộ xã hội đối với cơng tác tôn giáo. Mặt khác, các ngành các cấp đẩy
mạnh tuyên truyền giáo dục truyền thống yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập dân tộc và
cần nhận thức một cách sâu sắc rằng nội dung cốt lỗi của các tơn giáo là quần chúng,
cần giữ gìn và phát huy những truyền thống văn hóa của dân tộc, chống lại các hành
vi lợi dụng tơn giáo tín ngưỡng.
Thứ ba, ta cần đẩy mạnh cơng tác tun truyền Luật về tín ngưỡng, tôn giáo. Việc
nâng cao năng lực cho đội ngũ tun truyền viên luật tín ngưỡng tơn giáo là điều kiện
đầu tiên để công tác tuyên truyền thực sự đi đúng hướng và đạt hiệu quả. Tiếp theo ta
cần lựa chọn nội dung đổi mới phương pháp hình thức tuyên truyền phổ biến luật tín
ngưỡng tơn giáo phù hợp với từng địa bàn, đối tượng và hợp chặt chẽ với các tổ chức
lực lượng trong tuyên truyền phổ biến luật tín ngưỡng tơn giáo tạo sức mạnh tổng hợp
trong thực hiện.
Bên cạnh đó ta cần hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo bằng nhiều biện pháp
như phát triển kinh tế văn hóa, đồng thời đẩy mạnh cải tạo phong tục tập quán lạc hậu,
giữ gìn, phát huy thuần phong mỹ tục; tăng cường vai trò của pháp luật; dân chủ hóa
đời sống xã hội và coi trọng việc kế thừa các giá trị tôn giáo tốt đẹp.
C. Tổng kết
Như vậy, tơn giáo đóng vai trị rất lớn trong đời sống tinh thần của người Việt Nam, là
một nơi nương tựa về tinh thần để giải phóng con người khỏi những khổ đau. Nó
chiếm giữ một vị trí rất quan trọng chi phối, tác động mạnh mẽ đến nhiều lĩnh vực của
đời sống xã hội. Có thể thấy, tơn giáo là nhu cầu của con người. Trong tôn giáo có

những giá trị tốt đẹp về đạo đức, văn hóa nên nó ln hướng con người đến những giá
trị nhân bản, góp phần tích cực vào việc làm phong phú và hồn thiện bản tính của
con người Việt Nam.

Phụ Lục
1. TS. Phạm Thái Việt (chủ biên), TS. Đào Ngọc Tuấn, Đại cương văn hóa

Việt Nam, Nxb Văn hóa – Thơng tin, Hà Nội, 2004.
2. />12


3. Đặng Thị Lan, Đạo đức Phật giáo với đạo đức con người Việt Nam, Nxb

Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2006
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc
lần thứ XII, Văn phịng Trung ương Đảng, Hà Nội.
5. />6. Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 1 tháng 5/2018, tr 280-283

13



×