TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
BÀI TẬP LỚN
HỌC PHẦN: ĐẶC ĐIỂM TÂM LÍ TRẺ RỐI LOẠN PHỔ TỰ KỶ
VÀ TRẺ KHUYẾT TẬT TRÍ TUỆ
Đề bài: Phân tích đặc điểm tương tác xã hội- giao tiếp
xã hội- ngôn ngữ xã hội của trẻ rối loạn phổ tự kỷ 3-4 tuổi
Họ và tên sinh viên:…NGUYỄN THÙY TRANG…
Mã sinh viên:…220001782……..………….……….
Lớp:……GDDB-D2020…………….……………….
Hà Nội - 2021
…
1
Mục lục
NỘI DUNG
TRANG
I. Đặt vấn đề………………………………………………………...... 3
II. Giải quyết vấn đề………………………………………………… 3 -13
1. Khả năng tương tác xã hội của trẻ RLPTK từ 3-4 tuổi……….. 3 - 5
2. Giao tiếp xã hội của trẻ RLPTK từ 3-4 tuổi…………………... 5 - 9
3. Ngôn ngữ xã hội của trẻ RLPTK từ 3-4 tuổi………………….. 9-14
III. Tài liệu tham khảo………………………………………………….15
2
I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
1. Sự cần thiết của nội dung chủ đề lựa chọn:
Rối loạn phổ tự kỷ (RLPTK) là một trong những rối loạn phát triển hay gặp ở
trẻ em. Trẻ bị mắc tự kỷ không những phát triển chậm về quan hệ xã hội,
ngôn ngữ, giao tiếp, học hành gây những rối loạn hành vi ảnh hưởng lớn đến
gia đình và xã hội.Trong vài thập kỷ gần đây các nghiên cứu cho thấy tỷ lệ
mắc tự kỷ tăng nhanh chóng. Tỷ lệ mắc tự kỷ theo Baird và cộng sự (1999) là
3‰ ; theo số liệu của Trung tâm Kiểm sốt và Phịng bệnh (CDC) năm 2009
tại Mỹ là 1/110 trẻ sơ sinh sống (6,6‰) . Nghiên cứu của Kim và cộng sự tại
Hàn Quốc cho tỷ lệ hiện mắc tự kỷ là 1/38 trẻ (2,6%). Nghiên cứu mơ hình
tàn tật ở trẻ em của khoa Phục hồi Chức năng Bệnh viện Nhi Trung ương giai
đoạn 2000-2007 cho thấy: số trẻ tự kỷ đến khám năm 2007 tăng gấp 50 lần so
với năm 2000; số trẻ tự kỷ đến điều trị năm 2007 tăng gấp 33 lần so với năm
2000. Tỷ lệ trẻ tự kỷ đến khám và được chẩn đoán bệnh muộn tại Bệnh viện
Nhi Trung ương còn cao (43,86% trên 36 tháng tuổi) .Cho đến nay ở Việt
Nam các nghiên cứu về đặc điểm giao tiếp xã hội, tương tác xã hội, ngôn ngữ
xã hội của trẻ tự kỷ cịn hạn chế, chưa có những nghiên cứu một cách toàn
diện ở lứa tuổi từ 3-4 tuổi. Mà đó cịn là dấu hiệu điển hình để phát hiện trẻ tự
kỷ. Do đó nhiều trẻ tự kỷ cịn được phát hiện muộn.Chẩn đốn sớm tự kỷ giúp
trẻ có nhiều cơ hội được hội nhập xã hội. Vì vậy, để đưa ra được một số
khuyến cáo về việc phát hiện sớm tự kỷ, tôi tiến hành đề tài này nhằm mục
tiêu: Nghiên cứu về đặc điểm giao tiếp xã hội- tương tác xã hội- ngôn ngữ xã
hội của trẻ Rối loạn phổ tự kỷ 3- 4 tuổi.
2. Vai trò của nội dung đề tài nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu này nhằm giúp
mọi người có một cái nhìn cụ thể hơn, rõ nét hơn về cách tương tác, giao tiếp
của trẻ rối loạn phổ tự kỷ thông qua qua những lí luận, ví dụ thực tiến mà tơi
đã thu thập được.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
1. Khả năng tương tác xã hội của trẻ RLPTK từ 3-4 tuổi:
- Tương tác xã hội diễn ra khi có ít nhất hai chủ thể xã hội cùng tham gia
trong một hoạt động. Hai chủ thể cùng thực thực hiện những hành động có
sự tác động qua lại với nhau trong hoạt động đó. Trẻ tự kỷ có khả năng
3
tương tác xã hội kém từ đó cũng gây ra nhiều mặt hạn chế khác cho trẻ
trong giao tiếp xã hội và trong mặt ngơn ngữ.
- Khó khăn và hạn chế trong việc đáp ứng tương tác xã hội:
o Không đáp ứng hoặc chậm phản hồi hay phản ứng không phù hợp với
những kích thích mang tính xã hội (gọi trẻ thì trẻ thường khơng thưa
hoặc khi mẹ hỏi trẻ “Con có muốn ăn khơng?” trẻ sẽ khơng biết cách
trả lời như kiểu gật đầu hoặc lắc đầu). Đáp ứng khơng phù hợp với
những kích thích mang tính xã hội mà kích thích mang tính xã hội
chính là sự khởi xướng tương tác xã hội.
o Không phản ứng hoặc phản ứng không phù hợp với những biểu cảm,
cảm xúc thơng qua giọng nói hoặc biểu cảm khn mặt của người
khác(Khi người lớn quát trẻ, bảo trẻ không được làm thế, làm thế là sai
thì trẻ khơng để ý, khơng làm theo yêu cầu. Hoặc khi mẹ bảo “Ôi! Mẹ
mệt quá! Mẹ đau đầu quá” thì phản ững của trẻ là cười khềnh khệch bởi
vì trẻ khơng hiểu cảm xúc của mẹ).
o Chính vì lẽ đó nên cách hành xử không phù hợp với cảm xúc của người
khác Thiếu sự đồng cảm nên bàng quang hoặc hành xử không phù
hợp với trạng thái cảm xúc của người khác ( Ví dụ khi cơ giáo nói “Cơ
bực mình với con rồi đấy!” thì trẻ vẫn cười. Khi thể hiện tình cảm bằng
cách véo em thật mạnh thì em khóc sau đó trẻ chạy ra chỗ mẹ sung
sướng cười, khơng tỏ ra lo lắng là mình sẽ bị mắng hay bị đánh địn)
- Tương tác xã hội mang tính bị động:
o Bé khơng chủ động phát huy mang tính giao tiếp đầu tiên, khơng (hoặc
ít) khởi xướng tương tác xác hội của mình. Khơng chủ động đưa u
cầu, địi hỏi giúp đỡ, chia sẻ với người khác trong giới hạn quen thuộc.
Nếu trẻ u q một ai đó ví dụ như trẻ yêu quý co giáo của trẻ thì cùng
lắm trẻ chỉ có thể chủ động chào hỏi “ Con chào cơ” sau đó trẻ sẽ
khơng chủ động hỏi thêm gì khác. Trẻ chỉ tương tác xã hội với những
người thân quen, hành xử có thể đoan trước được. Một số tương tác xã
hội chỉ diễn ra trong môi trường quen thuộc.
4
o Khi trẻ tự kỷ đến tuổi đến tuổi đi lớp, sự thu hẹp về tương tác của
chúng lại có thể biến mất hoặc ít đi, đặc biệt ở những trẻ có chức năng
bậc cao hơn. Một sự mất mát rõ ràng được thấy ở khả năng chơi với các
bạn cùng lứa và làm quen bạn mới, những hành vị xã hội có thể rất lạ
lùng và khơng phù hợp. Ở độ từ từ 3- 4 tuổi, về mặt tướng tác xã hội, sự
tự tin của trẻ bình thường đang tăng cao và 2 năm này tơi có thể thấy sẽ
thấy các bé có các mối quan hệ bạn bè mới. Các bé thoải mái hơn khi ở
cùng với các bạn khác và bắt đầu tham gia vào các trò chơi với các bạn
khác trong nhóm nhỏ. Nhưng đối với trẻ tự kỷ thì ngược lại, trẻ thích
chơi một mình hơn chơi với những người khác, khơng thích chơi
chung, chia sẻ đồ chơi với các bạn cùng lớp, không quan tâm hoặc
không biết cách kết bạn, không quan tâm đến việc tương tác hoặc giao
tiếp với những người khác. Đặc biệt là trẻ thường khơng thích hoặc chủ
động tránh tiếp xúc cơ thể với các bạn khác vì trẻ muốn một mình trong
thế giới riêng của bản thân.( Ví dụ khi trẻ đang tự chơi một mình, bạn
khác ra chơi chung đồ chơi, hoặc ra ngồi cạnh thì trẻ tư kỷ thường tránh
đi chỗ khác hoặc nghiêm trọng hơn thì trẻ sẽ la hét, ăn vạ, giận giữ và
cơn giận giữ của trẻ sẽ rất khó để có thể kiểm soát được)
2.Giao tiếp xã hội của trẻ RLPTK từ 3-4 tuổi :
- Giao tiếp là quá trình phát và nhận thơng tin giữa ít nhất hai chủ thể trở
lên, là hoạt động mang tính chức năng và được trao đổi bằng các công cụ,
phương tiện giao tiếp khi chủ thể tương tác xã hội qua lại với nhau.
- Khó khăn về giao tiếp xã hội là một trong những khiếm khuyết điển hình
nhất của trẻ rối loạn phổ tự kỷ
- Trẻ tự kỷ ở độ tuổi 3-4 tuổi ít hoặc gần như khơng có nhu cầu giao tiếp xã
hội thường xun, ít hoặc khơng duy trì được động cơ giao tiếp. Khơng
hiểu hoặc khơng thể tự ý thức được có thể đạt được cái mình muốn bằng
cách sử dụng đa dạng công cụ giao tiếp, dừng giao tiếp xã hội ngay khi
khơng được đáp ứng. Ví dụ, khi một trẻ bình thường muốn đồ vật gì đó mà
khơng tự lấy được đó chính là cái động cơ, lí do để đưa ra tương tác xã
hội, giao tiếp với người khác, trẻ có thể sử dụng nhiều cơng cụ giao tiếp
5
như với tay, chỉ,… để thu hút sự chú ý của người xung quanh ý là “ con
muốn lấy cái đấy”. Nếu lần thứ nhất trẻ bình thường khơng đạt được thì nó
sẽ tìm cách để thu hút sự chú ý lần hai. Cịn đến lần hai vẫn khơng có được
thứ nó muốn thì nó sẽ tức tối, giận giữ, thét gào…. Lần thứ hai khơng được
thì sẽ quyết bằng mọi cách phải đạt được thứ mình muốn. Riêng đối với trẻ
tự kỷ trong trường hợp đó, trẻ chỉ có một động tác, một cách thức tương
tác, một cách thức giao tiếp là kéo tay chỉ rồi phát ra tiếng “ư ư” hoặc kéo
tay người lớn chạm vào đồ vật ấy, lần thứ nhất khơng thể đạt được thứ
mình muốn thì bỏ qua ln thực chất hành vi chỉ tay vào đồ vật như thế
chỉ là hành vi trẻ tự giải quyết nhu cầu và trẻ thấy việc trẻ giải quyết nhu
cầu như thế khơng đạt được mục đích, việc trẻ làm như thế không hiệu quả
nên trẻ sẽ ngắt, dừng lại ln. Đó chỉ là 1 trong những cách thức để trẻ đạt
được điều trẻ muốn chứ chưa thể đạt đến ngưỡng giao tiếp xã hội thông
báo “con muốn vật đấy”. Qua hành vi của trẻ, mình hiểu được cái thơng
báo của trẻ là giao tiếp vì mình hiểu trẻ, những đối với những người không
hiểu hành vi đó của trẻ thì đó khơng được coi là cách thức giao tiếp, tương
tác xã hội). Khi trẻ tự kỷ có như cầu thì việc đầu tiên khơng phải là trẻ
thơng báo cho người khác biết nhu cầu của mình mà việc đầu tiên là trẻ tự
bản thân giải quyết và cách mà trẻ thông báo như cầm tay, kéo đến, đặt
vào… thực ra không phải thông báo rằng trẻ muốn thứ đó mà nội dụng
thơng báo đấy mình được tiếp nhận, mình đốn được là trẻ muốn một đồ
vật nào đó bởi vì mình hiểu trẻ chứ thực ra suy nghĩ của trẻ tự kỷ không
sâu xa như vậy.
- Trẻ dễ phân tán sự chú ý đến những kích thích cảm giác hứng thú và nhạy
cảm ( tức là khi trẻ đang giao tiếp mà đột nhiên có kích thích cảm giác
hưng phấn và đúng nhu cầu cảm giác của trẻ là trẻ sẽ quên lãng luôn cái
nhiệm vụ của mình là kết thúc cuộc nói chuyện giao tiếp ấy của mình
trẻ sẽ bỏ giữa chừng, đứt quãng cái q trình giao tiếp đang diễn ra). Ví dụ,
khi trẻ muốn một chiếc oto đồ chơi nhưng trẻ không lấy được trẻ cầm tay
mẹ chạm vào chiếc oto. Tay mẹ đã chạm đến chiếc oto đồ chơi đó rồi
nhưng chưa đưa cho trẻ để liếc mắt nhìn con. Trẻ sẽ ngước ngước nhìn vì
trẻ thấy lâu quá mà mẹ không lấy đồ chơi cho trẻ. Bất chợt, trẻ nghe thấy
6
âm thanh quảng cáo trẻ yêu thích nổi lên lập tức trẻ bỏ đi không lấy đồ
chơi nữa mà ra chỗ quảng cáo.
- Một số trẻ em mắc chứng tự kỷ ở tuổi từ 3-4 tuổi có thể khơng giao tiếp
được bằng giọng nói hoặc ngơn ngữ, và một số trẻ có thể có kỹ năng giao
tiếp rất hạn chế. Kỹ năng giao tiếp chính là các kỹ năng xã hội gồm 2 kỹ
năng nhỏ là kỹ năng giao tiếp và kỹ năng đồng cảm. Trẻ rối loạn khổ tự kỷ
khó khăn trong việc sử dụng cơng cụ giao tiếp có lời và khơng lời. Bởi vì
cơng cụ phát triển không lời là công cụ trước tiền ngôn ngữ có lời. Với trẻ
mới sinh, tháng đầu tiên tơi nhận thấy tương tác của trẻ cực rõ. Ví dụ, trẻ sơ
sinh đang ngủ mà có tiếng động gì lớn sau đó trẻ bị giật mình thì trẻ đó phát
triển bình thường ngôn ngữ không lời, nhưng với trẻ tụ kỷ trong trường
hợp đấy sẽ khơng có phản ứng.
- Trẻ tự kỷ hạn chế trong việc hiểu mục đích giao tiếp của ngươi tương tác.
Động cơ giao tiếp của trẻ gặp khó khăn nên chắc chắn trẻ tự kỷ sẽ khơng
hiểu mục đích tương tác là gì. Ví dụ, bình thường gặp nhau thì con người
hay chào nhau đầu tiên. Khi mới đầu gặp trẻ, các cô giáo bảo trẻ rằng gặp
mọi người thì phải chào hỏi sau đó cơ chào trẻ “Cơ chào con!” thì trẻ sẽ có
suy nghĩ, thắc mắc là tại sao lại phải chào và trẻ sẽ khơng nghe lời của cơ
giáo. Một số ít trẻ tự kỷ có thể có vốn từ vựng phong phú và có thể nói về
các chủ đề cụ thể rất chi tiết. Thường thì gặp vấn đề với ý nghĩa và nhịp
điệu của các từ và câu. Hoặc cũng có thể không hiểu được ngôn ngữ cơ thể
và ý nghĩa của các âm giọng khác nhau. Những khó khăn này ảnh hưởng
đến khả năng tương tác, giao tiếp của trẻ mắc ASD với người khác. Ví dụ,
khi một ai đó mỉa mai, châm chiếm trẻ thì trẻ khơng hiểu ý nghĩa những câu
nói đó vẫn cứ tưởng người khác khen trẻ và trẻ cười khềnh khệch lên, sung
sướng.
- Trẻ tự kỷ không hiểu được những nguyên tắc trong tương tác xã hội, giao
tiếp xã hội. Điều đó thể hiện ở những hành vi bất thường trong giao tiếp. Ví
dụ, bình thường ta quý một người thì ta cũng chỉ thể hiện “tay bắt mặt
mừng”, chú ý giữ khoảng cách nhưng đối với trẻ tự kỷ, trẻ thích người nào
đó thì trẻ sẽ thích hoặc véo 1 cái vì trẻ cứ nghĩ đó là cách trẻ thể hiện sự u
q, tình yêu thương với mọi người.
7
- Khi khoảng 4 tuổi, trẻ bình thường thậm chí cịn biết giải thích tại sao mình
muốn có thứ gì đó (của người khác), ví dụ: “Con lấy bút màu xanh được
khơng? Con muốn tơ lá cây”. Ngồi ra, trẻ trong giai đoạn này cũng biết
chơi trị đóng giả. Ví dụ, trẻ có thể giả vờ làm mẹ, bế búp bê và bắt chước
giọng nói, từ ngữ của mẹ mình. Riêng đối với trẻ tự kỷ ở độ tuổi 4 tuổi, trẻ
khơng thích chơi trị đóng vai các nhân vật. Ví dụ, khi các bạn rủ trẻ chơi
đồ hàng hoặc con trị đóng vai, giả vờ thì trẻ tự kỷ thường phớt lờ các bạn,
coi nhưng không nghe thấy hoặc tránh đi ra chỗ khác hoặc nghiêm trọng
hơn là trẻ sẽ la lên, giận dữ.
- Trẻ RLPTK thường khó đáp ứng tương tác xã hội bởi vì trẻ có xu hướng
thích lái chuyện của người hỏi sang câu chuyện của mình hay thích độc
thoại trong câu truyện, thế giới triêng của bản thân nên thường không đáp
lại người khác. Do đó, khi người hỏi cố gắng nói chuyện thì trẻ sẽ lơ đi vì
thế trẻ khơng hiểu mục đích của quá trình giao tiếp này. Khi trẻ muốn GT,
chúng lại gặp hàng loạt những vấn đề về kĩ năng GT.
- Ngôn ngữ trẻ tự kỷ lặp đi lặp lại hoặc cứng nhắc: Thơng thường, trẻ em mắc
chứng ASD có thể nói sẽ nói những điều khơng có ý nghĩa hoặc khơng liên
quan đến các cuộc trị chuyện mà chúng đang có với người khác. Ví dụ, một
đứa trẻ có thể đếm lặp đi lặp lại từ một đến năm trong một cuộc trị chuyện
khơng liên quan đến các con số. Hoặc có thể liên tục lặp lại những từ mà trẻ
đã nghe — một tình trạng được gọi là echolalia (chứng nhại lời). Echolalia
ngay lập tức xảy ra khi trẻ lặp lại những từ ai đó vừa nói. Ví dụ, trẻ có thể
trả lời một câu hỏi bằng cách hỏi lại tương tự câu hỏi. Hoặc đứa trẻ có thể
nói "Bạn có muốn uống gì khơng?" bất cứ khi nào nó yêu cầu đồ uống. Một
số trẻ mắc ASD nói giọng the thé hoặc hát một bài hát hoặc sử dụng giọng
nói giống như rơ bốt. Những đứa trẻ khác có thể sử dụng các cụm từ quen
thuộc để bắt đầu một cuộc hội thoại. Ví dụ, một đứa trẻ có thể nói “Tên tơi
là Huy ” ngay cả khi đang nói chuyện với bạn bè hoặc gia đình.
- Trẻ 3-4 tuổi bình thường sẽ: Kể chuyện có cốt truyện, thường có mở và kết.
Tuy nhiên, bố mẹ cũng vẫn cần nhắc hoặc đặt thêm câu hỏi thì trẻ mới kể
được. Ví dụ, “Sau đó con mèo làm gì?”, “Bạn gấu gặp ai nhỉ?”... nhưng đối
với trẻ RLPTK thì khơng thích kể chuyện cho người khác nghe, ít nói, ít
giao tiếp với mọi người.
8
- Trẻ từ kỷ lúc 3-4 tuổi thường có một ngữ điệu “kì dị”, khác với ngữ điệu của
trẻ bình thường. Trẻ thường nói với một ngữ điệu khá đơn điệu, lên cao
giọng không đúng chỗ. Điều này do trẻ khơng làm chủ được âm lượng của
giọng nói, trẻ thường nói có khi quá to, quá nhỏ và hay nói kiểu nhát gừng.
- Trẻ mắc chứng tự kỷ sở thích thu hẹp và khả năng đặc biệt trong giao
tiếp : Một số trẻ có thể độc thoại sâu sắc về một chủ đề mà chúng quan tâm,
mặc dù chúng có thể khơng thể trị chuyện hai chiều về cùng một chủ
đề. Những người khác có thể có tài năng âm nhạc hoặc khả năng nâng cao
để đếm và làm các phép tính tốn học.
- Sự phát triển ngơn ngữ khơng đồng đều ảnh hưởng đến giao tiếp của trẻ tự
kỷ độ tuổi từ 3-4 tuổi: Trẻ bình thường độ tuổi này thường phát triển ngôn
ngữ rất nhanh nhưng nhiều trẻ em mắc chứng ASD phát triển một số kỹ
năng nói và ngôn ngữ, nhưng trẻ tự kỷ nhưng không đạt đến mức khả năng
bình thường, và sự tiến bộ của chúng thường khơng đồng đều. Ví dụ, trẻ có
thể phát triển vốn từ vựng vững chắc trong một lĩnh vực cụ thể mà trẻ quan
tâm rất nhanh chóng. Nhiều trẻ tự kỷ có trí nhớ tốt đối với những thơng tin
vừa nghe hoặc nhìn thấy. Một số có thể đọc từ năm 3-4 tuổi, nhưng có thể
khơng hiểu những gì trẻ đã đọc. Trẻ thường không trả lời bài phát biểu của
người khác và có thể khơng đáp lại tên của chính trẻ. Do đó, những đứa trẻ
này đơi khi bị nhầm tưởng là có vấn đề về thính giác.
- Trẻ tự kỷ năm 3-4 năm tuổi có thể:
thao tác vật lý một người hoặc đồ vật - ví dụ, một đứa trẻ có thể nắm lấy
tay một người và đẩy nó về phía thứ mà chúng muốn
chỉ, chỉ và chuyển hướng nhìn - ví dụ: một đứa trẻ có thể nhìn hoặc chỉ vào
một thứ chúng muốn và sau đó chuyển ánh nhìn của chúng sang người
khác, để người đó biết rằng chúng muốn đồ vật đó
sử dụng các đồ vật - ví dụ, một đứa trẻ có thể đưa một đồ vật cho người
khác để giao tiếp.
3. Ngôn ngữ xã hội của trẻ RLPTK từ 3-4 tuổi:
- Khái niệm “Ngôn ngữ”: Ngôn ngữ (NN) bao gồm hệ thống các kí hiệu từ
ngữ và hệ thống các quy tắc ngữ pháp có chức năng là một phương tiện
9
giao tiếp, một công cụ tư duy. Theo Đại Từ điển tiếng Việt: “NN là hệ
thống các âm thanh, các từ ngữ và các quy tắc kết hợp chúng, làm phương
tiện giao tiếp chung cho một cộng đồng” [1; tr 1126], NN là phương tiện
giáo dục quan trọng nhất. NN là phương tiện, công cụ để giao tiếp với
nhau, để nhận thức đối tượng, sự vật, hiện tượng xung quanh; đặc biệt là
để lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử - xã hội, giúp con người lưu giữ kinh
nghiệm từ đời này sang đời khác, hiểu biết lẫn nhau, trao đổi kinh nghiệm,
giãi bày ý kiến, tình cảm…, nhờ đó trở nên gắn bó với nhau hơn. Trong
q trình biểu đạt thông tin hoặc thu nhận thông tin bằng NN, con người sẽ
điều chỉnh hành động của mình cho phù hợp với các thơng tin; vì vậy, NN
có vai trị định hướng cho hoạt động.
- Phân loại NN: NN tiếp nhận (hay cịn gọi là hiểu “NN”) là q trình nghe
và thơng hiểu NN. Ở thời kì hình thành NN, muốn nói được, trước hết trẻ
cần phải nghe được. Khi đã hiểu NN, trẻ sẽ thực hiện hành động NN đúng
và chính xác theo mệnh lệnh hoặc yêu cầu của người khác. NN tiếp nhận
có vai trị hết sức quan trọng trong sự hình thành NN diễn đạt. NN diễn đạt
là q trình chuyển tải ý nghĩ ra ngơn ngữ thành lời nói hoặc NN cử chỉ,
điệu bộ. Q trình này được thực hiện theo trình tự: xuất hiện động cơ
thành ý, chọn từ hoặc hành động cần thiết cho việc diễn đạt ý, liên kết các
từ, các hành động sao cho phù hợp với ngữ cảnh. NN diễn đạt phụ thuộc
vào quá trình hình thành NN tiếp nhận. NN diễn đạt tốt là điều kiện thuận
lợi cho sự thích nghi với mơi trường sống và hịa nhập cộng đồng
- Trẻ tự kỷ 3-4 tuổi có thể gặp khó khăn trong việc học ngơn ngữ vì chúng
có xu hướng ít quan tâm đến người khác hơn trong 12 tháng đầu đời. Trẻ
có thể tập trung hơn vào những thứ khác đang diễn ra xung quanh trẻ. Bởi
vì chúng có thể khơng cần hoặc không muốn giao tiếp với người khác
nhiều như những đứa trẻ đang phát triển thông thường, chúng không có
nhiều cơ hội để phát triển các kỹ năng ngơn ngữ của mình.
VD : 1 đứa trẻ 3 tháng tuổi khi bị xao nhãng bởi chiếc quạt trần thì sẽ
khơng quay về phía bố mẹ để cười đùa. Khi 9 tháng, nếu vẫn tiếp tục
khơng có hứng thú chơi đùa với bố mẹ thì trẻ sẽ khơng chỉ tay vào những
gì mình muốn và cũng ít lắng nghe khi bố mẹ kể tên các đồ vật xung quanh
10
=> Trẻ bỏ lỡ nhiều cơ hội để mở rộng vốn từ ở tuổi tập nói, tuổi từ 3-4
tuổi.
- Trên thế giới có nhiều tác giả đã nghiên cứu về đặc điểm NN của trẻ
RLPTK. Các nghiên cứu đều chỉ ra trẻ RLPTK gặp khó khăn trong việc sử
dụng NN để thích nghi với xã hội và hạn chế khả năng sử dụng NN cử chỉ,
điệu bộ. Trẻ khó khăn trong việc khởi xướng và duy trì hội thoại, NN của
trẻ chỉ để đạt mục đích chứ khơng có NN chia sẻ; có tới 50% số trẻ mắc
chứng RLPTK chưa bao giờ phát triển lời nói hồn thiện như một phương
tiện để giao tiếp… Qua các nghiên cứu của các tác giả trên thế giới, có thể
thấy NN của trẻ rối loạn phổ RLPTK:
Ngôn ngữ tiếp nhận (hiểu ngôn ngữ): Do q trình xử lí thơng tin chậm
chạp, thường có một khoảng thời gian bị trì hỗn giữa lúc thơng tin được
đưa ra và xử lí nên nhiều lúc trẻ phản ứng lại chậm hơn bình thường. Đối
với những trẻ bình thường từ 3-4 tuổi là thuộc trong giai đoạn vàng để phát
triển ngơn ngữ, trẻ bắt đầu nói được những câu 5-6 từ, vốn từ vựng của trẻ
cũng tăng lên đáng kể; nhưng đối với trẻ rối loạn phổ tự kỉ thì ở độ tuổi
này có thể chậm nói hoặc khơng nói. Trẻ RLPTK đơi khi cũng có những
dấu hiệu “giả điếc” nên không phản ứng lại các yêu cầu. Khả năng hiểu lời
của người khác ở trẻ RLPTK cũng có nhiều mức độ khác nhau. Ở độ tuổi
3-4, trẻ bình thường có thể hiểu những chỉ dẫn phức tạp hơn (có nhiều hơn
hai bước), chỉ cần những chỉ dẫn đó liên quan đến những điều quen thuộc
với trẻ. Ví dụ: “Con tắt tivi, mặc đồ ngủ rồi lên giường nào”. Nhưng đối
với trẻ tự kỷ ở độ tuổi này, có những trẻ hầu như khơng hiểu những gì mà
người khác nói với chúng. Một số trẻ có thể hiểu những hướng dẫn đơn
giản, hiểu được tên gọi của những vật đơn giản, gần gũi, như: “Đưa cho
mẹ cái cốc”, …. Với những vật có nhiều hơn một tên gọi, trẻ cũng có thể
gặp khó khăn trong việc hiểu tên gọi của chúng. Khi được nghe các lệnh
liên tiếp thì trẻ RLPTK tỏ ra khó khăn trong việc ghi nhớ ngơn ngữ để thực
hiện cái gì trước, cái gì sau. Đặc biệt, trẻ RLPTK sẽ gặp khó khăn khi ai đó
nói quá nhanh, quá chậm hoặc dùng quá nhiều từ, nhất là dùng những từ lạ,
phức tạp. Vốn từ của trẻ thường nghèo nàn, cấu trúc ngữ pháp hay bị sai là
một trong những nguyên nhân dẫn đến việc gặp khó khăn khi hiểu những
câu nói phức tạp, chứa đựng nhiều thơng tin. Ghi nhớ hình ảnh là một
11
trong những điểm mạnh của trẻ RLPTK, do vậy mà trẻ có khả năng đọc
hình ảnh khá tốt và có thể ghi nhớ được nhiều hình ảnh. Từ đó, trẻ thường
hiểu hơn nếu những gì được nói có kèm theo hình ảnh minh họa hoặc trẻ
có thể liên tưởng tới một hình ảnh quen thuộc nào đó. Tuy NN nói của trẻ
RLPTK có nhiều hạn chế, nhưng trẻ có thể hiểu được thế giới xung quanh
thơng qua hình ảnh và có thể phân biệt được các đồ vật, hiện tượng bằng
hình ảnh. Việc phát triển nhận thức của trẻ RLPTK thơng qua việc tri giác
bằng hình ảnh tốt hơn khả năng nghe hiểu. Trẻ RLPTK thích học qua hình
ảnh, nên việc cung cấp vốn từ bằng hình ảnh rất quan trọng giúp tăng
cường khả năng hiểu NN. Ngoài việc hướng dẫn ghi nhớ hình ảnh NN là
các đồ vật, hiện tượng trong thế giới xung quanh, trẻ RLPTK cịn có thể
học được các đặc điểm, tính chất, chức năng của đồ vật; có các hoạt động
và hành động quen thuộc thơng những hình ảnh đó. Nhiều cha mẹ trẻ
RLPTK có những kì vọng rất lớn vào sự phát triển của trẻ. Trong cuộc
sống hàng ngày, khả năng hiểu NN của trẻ RLPTK được bộc lộ khá tốt, trẻ
có thể hiểu được NN nói tốt hơn hẳn so với ngơn ngữ diễn đạt. Có những
trẻ RLPTK khơng biết sử dụng NN nói nhưng có khả năng phản ứng lại
ngay với yêu cầu “Mang cho mẹ quả bóng” hay “Đi lấy cho mẹ chiếc
áo”… Sự khiếm khuyết trong việc sử dụng NN rất phổ biến và được xem
là một đặc điểm nhận dạng trẻ RLPTK.
Ngôn ngữ diễn đạt. Đa số trẻ mắc chứng RLPTK đều chậm nói và có
những trở ngại trong cách diễn đạt. Đây là khó khăn chủ yếu trong hội
chứng RLPTK. Cứ 4 hoặc 5 trẻ thì có 1 trẻ khơng bao giờ nói; có trẻ lại có
khả năng bắt chước tiếng kêu của một số con vật, nhắc lại một số từ riêng
biệt nào đó, nhưng sau đó hầu như không tiến bộ thêm được nữa (VD: Một
số trẻ chỉ có thể bắt chước tiếng kêu của con mèo, phát ra những âm thanh
vô nghĩ như tiếng mèo kêu, cứ lặp đi lặp lại tiếng kêu đó và khó có thể
phát triển hơn). Bên cạnh đó, có những trẻ RLPTK lại có khả năng phát
triển NN nhưng chậm hơn bình thường. Trẻ thường bắt đầu bằng việc lặp
lại những từ người khác nói, đặc biệt là một vài từ cuối của câu, hay trẻ bắt
chước cả giọng điệu của người nói. Việc lặp lại NN (nhại lời) có thể có
một số ý nghĩa với trẻ, những điều mà trẻ lặp lại có thể phù hợp với những
tình huống nhất định và giúp trẻ đạt được mục đích. Một số trẻ không bao
12
giờ vượt qua được giai đoạn nhại lời, số khác có thể chuyển sang giai đoạn
tiếp theo, trẻ bắt đầu nói một số từ và cụm từ mà trẻ nghĩ ra. Trước hết, trẻ
sẽ nói về những thứ mà trẻ muốn. Sau đó, có thể là vài tháng hoặc vài năm,
trẻ có thể phát triển thành những cụm từ ngẫu nhiên, mặc dù có thể có lỗi
về ngữ pháp và ngữ nghĩa. Trẻ có thể gặp khó khăn với những từ khơng
tạo ra nghĩa như các liên từ: thì, là…; các trạng từ: trong, trên, dưới,
trước… và trẻ thường bỏ qua những từ này khi nói. Giai đoạn tiếp theo, trẻ
cũng có thể nói những câu ngắn nhưng hay bị sai. Một lỗi mà trẻ cũng
thường gặp là sử dụng từ ngược nghĩa (trẻ muốn mẹ “tắt đèn” nhưng lại
nói “bật đèn”). Một động từ có thể được sử dụng trong nhiều tình huống, vì
vậy sẽ có những tình huống việc sử dụng động từ không thể phù hợp (trẻ
biết nói từ “ăn” và có thể dùng từ “ăn” trong tất cả những tình huống muốn
uống nước, muốn xin một cái gì đó…); đặc biệt là trong những bối cảnh
gần nhau: “bàn chải” có thể được dùng thay cho “lược” và “giầy” có thể
thay cho “tất”… Thậm chí, đơi lúc trẻ có thể nhầm lẫn giữa việc nói “bố”
và “mẹ”, mặc dù rõ ràng trẻ thể phân biệt được điều đó. Một số trẻ có thể
duy trì kiểu NN kì quặc này khi đã lớn lên, có thể tới tận khi trưởng thành.
Số khác có thể phát triển NN hơn nữa, thậm chí có thể phát triển tốt ngữ
pháp và có một vốn từ vựng khá rộng.
Ngơn ngữ khơng lời: Trẻ RLPTK gặp khó khăn trong việc sử dụng giao
tiếp không lời. Trong giao tiếp, bên cạnh sử dụng lời nói, trẻ em bình
thường hay dùng điệu bộ, vẻ mặt và động tác cơ thể kèm lời nói, cịn trẻ
RLPTK thì khơng sử dụng và hiểu cách giao tiếp phi NN. Đa số trẻ
RLPTK chỉ biết cách nắm lấy cánh tay của người lớn để lôi kéo hay dẫn họ
đến chỗ mà trẻ muốn lấy, không biết chỉ trỏ, thậm chí phải học rất lâu mới
có phản xạ chỉ một ngón tay. Trẻ có thể trả lời các câu hỏi “có”, “khơng”
nhưng ít kèm theo biểu lộ cùng hình thức gật đầu hay lắc đầu. Đặc tính NN
nổi bật của trẻ RLPTK là sử dụng. Trẻ dùng lời nói chủ yếu là để biểu đạt
nhu cầu hoặc thỏa mãn nhu cầu hơn là vì mục tiêu có tính xã hội, như nói
làm vui lịng người khác. NN của chúng thường ngắn gọn, đơi khi thiếu
chủ ngữ và khơng mang tính giao tiếp cao. Khi nói chuyện với người đối
diện, trẻ RLPTK không thể nào biết là người đối diện đã nghe đủ chưa,
muốn nghe nữa hay khơng. Trong khi nói chuyện, trẻ có thể có đề tài, có
13
ngữ vựng, có chi tiết, thơng tin để nói về chủ đề đó nhưng chúng lại khơng
biết cách biểu lộ diễn tả ý nghĩ của mình và cách nói chuyện. Trẻ khó khăn
khi nói chuyện ln phiên, khơng biết chờ đợi đến lượt mình trong khi nói.
Đặc biệt, trẻ khơng biết duy trì hay phát triển các cuộc hội thoại giao tiếp,
hay nói lun thun về vấn để mình u thích mà khơng cần biết người
nghe có thích khơng. Đơi khi đang nói chủ đề này trẻ lại “nhảy” sang vấn
đề khác; trẻ không biết làm cách nào để triển khai thêm các ý nên đơi khi
lặp lại chính những điều mà người khác vừa nói với mình; một số trẻ có
thể phát triển NN gần như bình thường (chỉ xuất hiện ở những trẻ được
chẩn đoán ở dạng nhẹ hoặc chức năng cao). Tuy nhiên, ngay cả khi có NN
gần như bình thường thì những trẻ này vẫn có những vấn đề nhất định,
như: rất ít nói, bị động trong việc sử dụng NN… Một số có thể nói ở mức
vừa phải nhưng lại không sử dụng lối diễn đạt thông dụng, sử dụng những
lối diễn đạt theo kiểu cổ hoặc quá văn phạm, cầu kì. Ở một số trường hợp,
sự phát triển NN có thể bị thối lui, ban đầu có nói nhưng sau đó giảm dần
và có thể mất hẳn. Có những trường hợp đặc biệt, đột nhiên trẻ vốn chưa
nói gì lại nói một từ, cụm từ; thậm chí, nói một câu hết sức rõ ràng, nhưng
sau đó khơng bao giờ lặp lại nữa...
14
Tài liệu tham khảo:
(1) />(2) />(3) />(4) />(5) />(6) />(7) />(8) Nguyễn Như Ý (chủ biên, 2011). Đại Từ điển Tiếng Việt. NXB Đại học Quốc gia
TP. Hồ Chí Minh
(9) Nguyễn Thị Hoàng Yến (2013). Tự kỉ - Những vấn đề lí luận và thực tiễn. NXB Đại
học Sư phạm.
(10) C. Embersin - I. Gremy I (2007). Autism in the United States: Early detection
and epidemiological surveillance. Verbal Behavior Training Seminars
15