BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
BÀI TẬP LỚN TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
ĐỀ TÀI: QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN VỀ TRI
THỨC, VAI TRÒ CỦA TRI THỨC VÀ SỰ VẬN DỤNG QUAN
ĐIỂM ĐÓ TRONG NGHIÊN CỨU, HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN.
Sinh viên thực hiện : TRẦN THỊ MAI CHI
Mã sinh viên
: 11200630 ( STT : 6 )
Lớp TC
: Triết học Mác-Lênin(220)_36
Giảng viên
: TS. LÊ THỊ HỒNG
HÀ NỘI , 2021
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
BÀI TẬP LỚN TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
ĐỀ TÀI: QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN VỀ TRI
THỨC, VAI TRÒ CỦA TRI THỨC VÀ SỰ VẬN DỤNG QUAN
ĐIỂM ĐÓ TRONG NGHIÊN CỨU, HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN.
Sinh viên thực hiện : TRẦN THỊ MAI CHI
Mã sinh viên
: 11200630 ( STT : 6 )
Lớp TC
: Triết học Mác-Lênin(220)_36
Giảng viên
: TS. LÊ THỊ HỒNG
HÀ NỘI, 2021
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU………………………………………………………………………...1
NỘI DUNG……………………………………………………………………...2
Chương 1. Lý luận chung……..………………………………………………...2
1.1. Khái niệm tri thức theo quan điểm Mác-Lênin……………..2
1.2. Vai trò của tri thức đối với đời sống xã hội…..……………..3
1.2.1 Kinh tế tri thức……………………………………………3
1.2.2 Vai trị của tri thức đối với chính trị…………..…………6
1.2.3 Vai trị của tri thức đối với văn hóa-giáo dục…….
Chương 2. Sự vận dụng quan điểm về tri thức trong nghiên cứu,học tập của sinh
viên……………………………………………………………….……………..7
A. Thực trạng sinh viên hiện nay…………………………………………...7
1. Thành tưu đạt được……………………………………………….7
2. Những hạn chế……………………………………………………8
B. Sự vận dụng quan điểm tri thức trong nghiên cứu, học tập của sinh
viên………………...9
KẾT LUẬN…………………………………………………………………….11
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………………...12
MỞ ĐẦU
Loài người đã trải qua hai nền văn minh và ngày nay, chúng ta
đang đứng trước ngưỡng cửa của nền văn minh thứ ba- văn minh trí tuệ.
Trong nền văn minh này, bộ phận quan trọng nhất tri thức .Trong hệ
thống di sản lý luận mà V.I.Lênin để lại cho nhân loại, thì quan điểm về
tri thức đóng vai trị quan trọng. Theo ơng, tri thức có vai trị to lớn trong
xã hội. Nó là hình thức cao của sự phản ánh thực tại khách quan, hình
thức mà riêng con người mới có. Tri thức của con người là cơ năng của
cái “ khối vật chất đặc biệt phức tạp mà người ta gọi là bộ óc con người”
(theo Lênin).Nó khơng chỉ là kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn mà
cịn là động lực thực tiễn. Góp phần vào chiến lược phát triển kinh tế,tiến
nhanh trên con đường cơng nghiệp hoa,hiện đại hố chúng ta cần phải
nghiên cứu tri thức,tìm hướng đi đúng đắn cho nền kinh tế tri thức,phù
hợp với điều kiện,hoàn cảnh đất nước,phù hợp với khu vực,với thế giới
và thời đại trong tổng thể các mối liên hệ,trong sự phát triển vận động
không ngừng của nền kinh tế tri thức.
Quá trình học tập, tiếp thu tri thức là q trình khơng có điểm dừng
đối với mỗi người. Tuy nhiên khơng phải ai cũng có thể tự tích lũy cho
mình một vốn kiến thức lớn và phù hợp với khả năng, công việc của bản
thân. Đặc biệt, hiện nay, xu thế tồn cầu hố và hội nhập quốc tế, sự ra
đời và phát triển của kinh tế tri thức, cùng với sự chuyển đổi từ cơ chế tập
trung, quan liêu, bao cấp sang cơ chế thị trường. Điều đó, địi hỏi sinh
viên khơng ngừng học tập, trau dồi kiến thức cùng với rèn luyện đạo đức,
tác phong là hai nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Vì vậy, việc nắm bắt rõ
quan điểm Triết học là vô cùng cần thiết để sinh viên có những suy nghĩ
đúng đắn, trách mắc sai lầm trong quá trình nhận thức.
Bài viết này sẽ trình bày rõ hơn về tri thức và vai trò của tri thức
theo quan điểm của triết học Mác Lênin cùng với những khái niệm liên
quan. Đồng thời phân tích về việc sử dụng quan điểm đó trong nghiên
cứu , học tập của sinh viên.
1
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG
1.1. Khái niệm về tri thức theo quan điểm Mác-Lênin
Trong lý luận Mác về tri thức, việc xác định vai trò đặc biệt to lớn của tầng lớp
này đối với đời sống chính trị chiếm một vị trí quan trọng và thu hút sự quan
tâm của các nhà kinh điển. Trong bức thư gửi V.I.Daxulich, Ph.Ăngghen đã nói
tới thái độ kiên quyết và lịng nhiệt tình của những người trí thức dân tộc trong
việc “chặt đứt xiềng xích đang giam cầm họ”, tức là nền quân chủ. Ph.Ăngghen
khẳng định, “để điều hành bộ máy hành chính và tồn bộ nền sản xuất xã hội,
hồn tồn khơng cần những lời nói sng, mà cần những trí thức vững vàng”
(C.Mác và Ph.Ăngghen, tập 22, tr.432). Hiểu rõ tầm quan trọng của trí tuệ nói
chung đối với tiến trình phát triển và nhất là đối với sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội, V.I.Lênin cho rằng, “tri thức bao hàm không những chỉ các nhà
trước tác mà thôi, mà cịn bao hàm tất cả mọi người có học thức, các đại biểu
của những người tự do nói chung, các đại biểu của lao động trí óc” (V.I.Lênin,
tập 8, tr.372). Quan niệm của V.I.Lênin về người tri thức cũng rất rõ ràng:
“Người tri thức đấu tranh, tuyệt nhiên không phải là bằng cách dùng thực lực
theo lối này hay lối khác, mà là bằng cách dùng những lý lẽ. Vũ khí của họ
chính là sự hiểu biết của cá nhân họ, những năng lực của cá nhân họ, lòng tin
của cá nhân họ. Họ chỉ nhờ vào những phẩm chất cá nhân của họ, cho nên mới
có thể đóng được một vai trị nào đó. Vì vậy, đối với họ, quyền được hoàn toàn
tự do biểu hiện bản chất cá nhân của mình là điều kiện đầu tiên để cơng tác được
kết quả. Tri thức có vai trị to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc
xã hội chủ nghĩa, vì thế theo V.I.Lênin cần thiết phải xây dựng và phát triển tri
thức mới, tri thức xã hội chủ nghĩa, bao gồm đào tạo tri thức mới từ giai cấp
công nhân, nông dân và cải tạo tầng lớp tri thức cũ theo hướng xã hội chủ nghĩa.
V.I.Lênin cũng lưu ý tri thức không phải là giai cấp mà là một tầng lớp đặc biệt
trong xã hội; từ vị trí của mình trong phân cơng lao động xã hội, tri thức không
2
có quan hệ riêng và trực tiếp với sở hữu tư liệu sản xuất, các dấu hiệu quan trọng
nhất để xác định giai cấp. Nói đến tri thức là nói đến lao động sáng tạo khoa học
không ngừng, biết làm giàu tri thức của mình bằng tất cả những tri thức nhân
loại tại ra, nhất là khi trở thành cán bộ lãnh đạo, quản lý, chỉ huy; thì càng phải
có tầm trí tuệ cao. Từ trong di sản của V.I.Lênin về trí thức, giúp chúng ta rút ra
được nhiều bài học kinh nghiệm, thiết thực và bổ ích góp phần xây dựng đội ngũ
tri thức ngày càng lớn mạnh phục vụ công cuộc đổi mới và xây dựng, phát triển
đất nước và nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc trong giai đoạn mới.
1.2 Vai trò của tri thức đối với đời sống xã hội
Tri thức đã và đang ngày càng trở lên quan trọng đối với đời sống xã
hội. Nó tác động trực tiếp đến các lĩnh vực của xã hội: kinh tế,chính trị,
văn hố -giáo dục..
1.2.1 Kinh tế tri thức
Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó quá trình thu nhận truyền bá,
sử dụng, khai thác,sáng tạo tri thức trở thành thành phần chủ đạo trong
quá trình tạo ra của cải. Kinh tế tri thức có nhiều đặc điểm cơ bản khác
biệt so với các nền kinh tế trước đó: -Tri thức khoa học-cơng nghệ cùng
với lao động kỹ năng cao là cơ sỏ chủ yếu và phát triển rất mạnh -Nguồn
vốn quan trọng nhất,quý nhất là tri thức,nguồn vốn trí tuệ. -Sáng tạo và
đổi mới thướng xuyên là động lực chủ yếu nhất thúc đảy sụ phát triển. Nền kinh tế mang tính học tập. -Nền kinh tế lấy thị trường tồn cầu là
mơi trường hoạt động chính. -Nền kinh tế phát triển bền vững do được
nuôi dưỡng bằng nguồn năng lượng vô tận và năng động là tri thức.
Thực tiễn hai thập niên qua đã khẳng định,dưới tác động của cách mạng
khoa học –công nghệ và tồn cầu hố,kinh tế tri thức đang hình thành ở
nhiều nước phát triển và sẽ trở thành một xu thế quốc tế lớn trong
một,hai thập niên tới. Sự xuất hiện của các hoạt động sản xuất kinh
doanh dựa trên tri thức. Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế lấy sản xuất và
3
kinh doanh tri thức làm nội dung chủ yếu.Tương lai của bất cứ doanh
nghiệp nào cũng không chỉ phụ thuộc vào việc sử dụng tiền bạc, nguyên
vật liệu,nguồn nhân lực và máy móc thiết bị…mà cịn phụ thuộc vào
việc xử lý và sử dụng những thông tin nội bộ và thông tin từ môi trường
kinh doanh.Cách tốt nhất để tăng năng suất là tìm hiểu kiến thức chun
mơn mà hãng có được,sử dụng vì mục đích thương mại và những kiến
thức này cần được phát triển không ngừng. Giá trị của những công ty
công nghệ cao như các công ty sản xuất phần mềm và các công ty công
nghệ sinh học không chỉ nằm trong những tài sản vật chất hữu hình, mà
cịn nằm trong những tài sản vơ hình,như tri thức và các bằng sáng
chế.Để trở thành một công ty được dẫn dắt bởi tri thức, các công ty phải
biết nhận ra những thay đổi của tỉ trọng vốn trí tuệ trong tổng giá trị kinh
doanh.Vốn trí tuệ của cơng ty, tri thức, bí quyết và phương pháp đội ngũ
nhân viên và công nhân cũng như khả năng của cơng ty để liên tục hồn
thiện phương pháp sản xuất là một nguồn lợi thế cạnh tranh.Hiện có các
bằng chứng đáng lưu ý chỉ ra phần giá trị vơ hình của các công ty công
nghệ cao và dịch vụ đã vượt xa phần giá trị hữu hình của các tài sản vật
thể của các cơng ty đó,như các tồ nhà hay thiết bị.Ví dụ như các tài sản
vật thể của công ty Microsoft chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong tổng giá
trị được vốn hố trên thị truờng của cơng ty này.Phần lớn là vốn trí
tuệ.Sau hai mươi năm thành lập, số nhân viên cơng ty tăng 6 nghìn lần,
thu nhập tăng 370 nghìn lần,1/10 số nhân viên trở thành triệu phú.Nguồn
vốn con người là một thành tố giá trị cơ bản trong một công ty dựa vào
tri thức. Nền kinh tế tri thức sẽ ngày càng làm xuất hiện nhiều sản phẩm
thơng minh.Đó là những sản phẩm có khả năng gạn lọc và giải thích các
thơng tin để người sử dụng có thể hành động một cách hiệu quả
hơn.Ngay cả một chiếc bánh kẹp thịt cũng có thể trở thành một sản phẩm
mới dựa trên tri thức bằng cách làm cho khách hàng biết cách sử dụng
những thông tin về dinh dưỡng.Số lượng ka-lo và chất béo được in lên
hố đơn hoặc thậm chí trình bày thơng tin đó trước khi khách đặt
4
hàng.Thậm chí có những sản phẩm thơng minh vừa có thể truyền đạt
thông tin về sản phẩm vừa khuyên khách hàng nên làm gì từ tình hình
vừa được thơng tin. Vốn tri thức –vai trị của nó trong kinh tế tri thức
Vốn tri thức là tri thức được dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh với
mục đích sinh lợi(tăng thêm giá trị). Vốn tri thức là một yếu tố nổi bật
nhất trong hàm sản xuất.Trong văn minh nông nghiệp thì sức lao động,
đất đai và vốn là những yếu tố của sản xuất công nghiệp,vốn,đất đai và
nhất là sức lao động trở thành hàng hoá với tư cách là những yếu tố quan
trọng trong sự phát triển kinh tế-xã hội,góp phần chuyển xã hội phong
kiến thành xã hội tư bản trong lịch sử.Còn trong kinh tế tri thức,yếu tố
của sự phát triển nền kinh tế-xã hội không chỉ bao gồm vốn tiền tệ,đất
đai và dựa trên lao động giản đơn mà chủ yếu dựa trên lao động trí tuệ
gắn với tri thức.Như vốn tri thức trở thành yếu tố thứ nhất trong hàm sản
xuất thay vì yếu tố sức lao động vốn tiền tệ và đất đai. Vốn tri thức thực
sự trở thành nguồn gốc động lực cho sự phát triển kinh tế-xã hội.Nước
Mỹ nói riêng và các nước thuộc tổ chức OECD nói chung nhiều năm qua
tăng trưởng ổn định với tốc độ cao là nhờ có sự phát triển của các ngành
kinh tế dựa trên tri thức như các ngành công nghệ thông tin,viễn thông,
vũ trụ,đầu tư,ngân hàng,tài chính,chứng khốn,bảo hiểm…Đồng thời
chuyển đầu tư vốn tri thức từ các ngành truyền thống sang các ngành có
hàm lượng tri thức cao.ở các nước có nền kinh tế đang phát triển,đầu tư
càng nhiều vốn tri thức thì mang lại giá trị gia tăng cang lớn,tỷ xuất lợi
nhuận càng cao. Vốn tri thức trong kinh tế tri thức đóng vai trị quyết
định sự thành cơng hay thất bại của doanh nghiệp.Vốn tri thức ở đây bao
gồm các công nhân tri thức,các nhà quản lý có trình độ cao,các cơng
nghệ mới. Vốn tri thức đóng vai trị to lớn trong việc rút ngắn khoảng
cách phát triển giữa các nước đang phát triển và các nước phát triển.Sự
xuất hiện kinh tế tri thức vừa là cơ hội vừa là thách thức đối với các
nước kém và đang phát triển,trong đó có Việt Nam.Các quốc gia kém và
đang phát triển phải nhanh chóng tiếp cận với kinh tế tri thức,thông qua
5
tri thức hố các ngành cơng nghiệp,nơng nghiệp,dịch vụ,đặc biệt sớm
hình thành các cơng nghệ cao để nhanh chóng đưa nền kinh tế đất nước
đuổi kịp các nước phát triển.
1.2.2 Vai trị tri thức đối với chính trị
Tri thức đem lại cho con người những sự hiểu biết, kiến thức.Người có tri
thức là có khả năng tư duy lý luận,khả năng phân tích tiếp cận vấn đề một cách
sát thực,đúng đắn.Điều này rất quantrọng,một đất nước rất cần những con người
như vây để điều hành cơng việc chính trị.Nó quyết định đến vận mệnh của một
quốc gia.Đại hội VI của Đảng đã đánh dấu một sự chuyển hướng mạnh mẽ trong
nhận thức về nguồn lực con ngươì.Đại hội nhấn mạnh:”Phát huy yếu tố con
người và lấy việc phục vụ con người làm mục đích cao nhất của mọi hoạt
đơng”chiến lược phát triển con người đang là chiến lược cấp bách.Chúng ta cần
có những giải pháp trong việc đào tạo cán bộ và hệ thống tổ chức : Tuyển chọn
những người học rộng tài cao,đức độ trung thành với mục tiêu xã hội chủ
nghĩa,thuộc các lĩnh vực,tập trung đào tạo,bồi dưỡng cho họ những tri thức còn
thiếu và yếu để bố trí vào các cơ quan tham mưu hoạch định đường lối chính
sách của Đảng và pháp luật của nhà nước với những qui định cụ thể về chế độ
trách nhiệm quyền hạn và lợi ích. Sắp xếp các cơ quan nghiên cứu khoa học –
công nghệ và giáo dục-đào tạo thành một hệ thống có mối liên hệ gắn kết với
nhau theo liên ngành,tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho hợp tác nghiên cứu và
ứng dụng kết quả nghiên cứu vào thực tĩên. Hợp nhất các viện nghiên cứu
chuyên ngành vào trường đại học và gắn kết trường đại học và các cơng ty,xí
nghiệp.Các cơ quan nghiên cứu và đào tao được nhận đề tài, chỉ tiêu đào tạo
theo chương trình,kế hoạch và kinh phí dựa trên luận chứng khả thi được trách
nhiệm của người đứng đầu cơ quan. Hàng năm theo định kỳ có những cuộc gặp
chung giữa những người có trọng trách và các nhà khoa học đầu nganh của các
cơ quan giáo dục-đào tạo và trung tâm khoa học lớn của quốc gia,liên hiệp các
hội khoa học Việt Nam…với sự chủ tri của đồng trí chủ tịch,sự tham gia của các
thành viên Hội đồng giáo dục -đào tạo và khoa học-công nghệ quốc gia về
những ý kiến tư vấn,khuyến nghị của tập thể các nhà khoa học với Đảng và nhà
6
nước về định hướng phát triển giáo dục-đào tạo.Phát triển khoa học –cơng
nghệ,cách tuyển chon và giao chương trình đề tài,giới thiệu những nhà khoa học
tài năng để viết giáo khoa,giáo trình,làm chủ nhiệm chương trình,đề tài và tham
gia các hội đồng xét duyệt,thẩm định nghiệm thu các chương trình,đề tài khoa
học cấp Nhà nước. Liên hiệp các hội khoa học Việt Nam cần thường xuyên và
phát huy trí tuệ của các nhà khoa học,dân chủ thảo luận để đưa ra được những ý
kiến tư vấn,những khuyến nghị xác thực có giá trị với Đảng,Nhà nước và động
viên tập hợp lực lượng các hội viên tiến quân mạnh mẽ vào các lĩnh vực khoa
học và công nghệ mà đất nước đang mong chờ để sớm thốt khỏi tình trạng
nghèo và kém phát triển.
1.2.3 Vai trò tri thức đối với văn hố-giáo dục:
Tri thức cũng có vai trị rất lớn đến văn hố -giáo dục của một quốc gia.
Nó giúp con người có được khả năng tiếp cận,lĩnh hội những kiến thức ,ý thức
của con người được nâng cao.Và do đó nền văn hố ngày càng lành mạnh.Có
những hiểu biết về tầm quan trọng của giáo dục.Từ đó xây dựng đất nước ngày
càng lớn mạnh,phồn vinh.
CHƯƠNG 2. SỰ VẬN DỤNG TRI THỨC VÀO NGHIÊN CỨU, HỌC
TẬP CỦA SINH VIÊN
A. THỰC TRẠNG SINH VIÊN HIỆN NAY.
1.Thành tựu đạt được.
1.1 Về mặt học tập.
Trong sự nghiệp giảng dạy và giáo dục Triết học ở các trường Đại hoc,
Cao đẳng, nước ra đã thu được những thành công đáng kể. Trong thành tựu
chung ấy có sự đóng góp đáng kể của những cán bộ khoa học trẻ là cựu sinh
viên hay sinh viên của tất cả các trường đại học trong cả nước. Những thành
công mà họ đạt được là biểu hiện của những nhận thức đúng đắn, vận dụng quan
điểm Triết học nói chung cũng như chủ nghĩa duy tâm nói riêng. Nhắc đến sinh
viên hiện nay chúng ta không thể phủ nhận kết quả của phong trào thanh niên
tình nguyện, phong trào thi đua nghiên cứu khoa học… của sinh viên đã đem về
các giải thưởng trí tuệ cho đất nước. Sinh viên đang từng ngày khẳng định giá trị
của tri thức, của bản thân trong cơ chế mới.
7
Trong những năm gần đây, số lượng sinh viên tăng lên đáng kể. Giảng
dạy Triết học ở đại học đã đào tạo được một số lượng đáng kể cán bộ có trình độ
tri thức cao mà trước đây ta phải chủ yếu dựa vào lực lượng nước ngoài.
Giảng dạy Triết học đã góp phần nâng cao tri thức cũng như nhận thức,
đào tạo đội ngũ lao động và đội ngũ đông đảo cán bộ phục vụ cho các nhu cầu
phát triển kinh tế- xã hội.
Từ đó, chất lượng giáo dục có tiến bộ rõ rệt, xuất hiện nhiều nhân tố mới,
nguyên nhân là do các sinh viên khuấy động phong trào học tập của các cán bộ
và nhân dân. Nhờ kết quả đổi mới, các mặt kinh tế- xã hội phát triển, đời sống
nhân dân ngày càng được nâng cao, làm nảy sinh nhu cầu học tập.
Việc giảng dạy triết học ở trường lớp từ phổ thông đến đại học, cao đẳng
đã đa dạng hơn, tạo cơ hội để mỗi người dân có thể học tập theo hình thức phù
hợp, đã huy động được thêm các nguồn lực ngoài ngân sách nhà nước để phát
triển giáo dục- đào tạo. Các phương tiện thông tin đại chúng đã xây dựng các
chuyên mục phục vụ giáo dục Triết học, rồi hợp tác được mở rộng… Tất cả
những thuận lợi kể trên đã phần nào làm cho chất lượng học tập của sinh viên
được cải thiện đáng kể.
1.2 Về mặt đời sống.
Sinh viên Việt Nam- những người đã và đang vận dụng phù hợp những
quan điểm triết học, là những con người năng động và sáng tạo, là những người
tiên phong trong mọi lĩnh vực. Phần lớn sinh viên đầu có khả năng thích nghi
cao với mơi trường sống. Họ khơng chỉ vận dụng quan điểm về chủ nghĩa duy
tâm ở trường, lớp; sinh viên ngày nay ln phát huy tinh thần đó ở mọi lúc, mọi
nơi. Không chỉ tiếp thi kiến thức, sinh viên ngày nay còn tiếp thi cái hay, cái đẹp
trong môi trường sống… Sự năng động của sinh viên cịn thể hiện ở việc tích
cực tham gia các hoạt động xã hội như y tế, từ thiện… Ngoài giờ học, những
sinh viên tuyên truyền hiến máu nhân đạo lại ngược xuôi đi mang kiến thức về
hiến máu đến mọi người dân trên cả nước…Sinh viên ấy còn là những con
người táo bạo và tự tin, dám nghĩ, dám làm, dám chịu khó khăn, thử thách.
Phong cách độc lập trong cuộc sống cũng như trong học tập cũng góp phần xây
dựng một hình tượng đẹp về sinh viên Việt Nam. Họ đã biết tự lập, chủ động.
Ngoài giờ học, họ tìm việc làm kiếm thêm tiền trang trải cuộc sống, phục vụ nhu
cầu sinh hoạt hằng ngày. Nhiều người không chỉ lo được cho bản thân mà cịn
có thể giúp đỡ những người bạn khác thiệt thịi hơn mình, hay giúp đỡ gia đình
ngay khi họ cịn ngồi trên giảng đường đại học.
2.Những hạn chế.
8
Việc giảng dạy Triết học ở nước ta còn nhiều yếu kém, bất cập về quy
mô, cơ cấu và nhất là về chất lượng chưa đáp ứng kịp được những đòi hỏi lớn và
ngày càng cao về nhân lực của công cuộc đổi mới kinh tế và xã hội, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, thực hiện công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước,
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhiều sinh viên thờ ơ với môn Triết học. Họ quan niệm rằng việc học
Triết học là không cần thiết, chỉ cần học những môn chuyên ngành là đủ. Vì vậy,
dẫn đến tình trạng học đối phó, học để lấy thành tích, khơng hiểu rõ bản chất của
mơn học.
Từ việc thờ ơ với Triết học dẫn đến tình trạng báo động nhất trong đời
sống sinh viên hiện nay là sai lầm về vấn đề tư tưởng, họ không có nhận thức
đúng đắn . Hiện nay một bộ phận khơng nhỏ sinh viên phai nhạt lý tưởng sống,
khơng có định hướng rõ ràng trong học tập cũng như có suy nghĩ tiêu cực về
cuộc sống xã hội. Họ sống hờ hững với những gì diễn ra xung quanh, sống theo
quan niệm: “được đến đâu hay đến đó”, “nước đến chân mới nhảy”, sống theo
chủ nghĩa cá nhân, dễ bị cám dỗ với vật chất, vô kỷ luật, mất trật tự vệ sinh, đua
đòi, chạy theo lối sống tiêu dùng, có những biểu hiện coi nhẹ những giá trị
truyền thống.
B:SỰ VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM VÀO NGHIÊN CỨU, HỌC TẬP CỦA
SINH VIÊN.
Hơn bao giờ hết. hiện nay xã hội đang quan tâm đến sự nghiệp giáo dục
nói chung và giáo dục sinh viên nói riêng. Vì vậy, để có thái độ sống tích cực,
sinh viên cần có cần phải phát huy tính năng động chủ quan tức là phải phát huy
tính tích cực, năng động và sáng tạo của ý thức. Theo qui định của Bộ Giáo dục
và Đào tạo, trường Đại học Kinh tế Quốc dân đã thực hiện tổ chức đăng ký học
phần vì vậy bản thân cần phải chủ động hơn, năng nổ trong từng tiết học.
Trong kết cấu của ý thức thì tri thức là yếu tố quan trọng nhất. Tri thức
là phương thức vận động và tồn tại của ý thức. Chính vì vậy, sinh viên cần phải
tích cực trong học tập, chủ động tìm hiểu và khai thác vấn đề, khi học bài không
quá phụ thuộc vào giảng viên mà thay vào đó nên suy nghĩ những ý tưởng mới
của riêng mình.Ví dụ như những buổi học nhóm hay thảo luận kỹ năng, bản thân
các sinh viên nên tìm đến kho kiến thức của thư viện hoặc tài liệu trong kho sách
của khoa để trau dồi vốn kiến thức chuyên ngành. Tuy nhiên những tri thức tiếp
thu từ sách vở là chưa đủ, xã hội ln địi hỏi mỗi người phải có một vốn kỹ
năng sống dày dặn. Muốn làm được như vậy thì chúng ta cần tham gia vào các
9
hoạt động tình nguyện ngồi trời hay tìm kiếm một công việc làm thêm phù hợp
để hiểu được giá trị của đồng tiền, phát huy, trau dồi kỹ năng mềm. Việc phát
triển bản thân sẽ giúp sinh viên có năng lực có năng lực chun mơn tốt hơn khi
ra trường, đáp ứng những yêu cầu của thị trường về chuyên môn và nghiệp vụ.
Niềm tin là động cơ tinh thần định hướng cho những hoạt động của con
người. Là một sinh viên tốt thì cần phải biết đặt niềm tin vào nhiều thứ. Đầu tiên,
cần phải có niềm tin ở bản thân mình, phải biết đặt ra hồi bão, ước mơ nhưng
khơng được qn việc thực hiện hóa nó bằng các kế hoạch chắc chắn. Có niềm
tin thì chắc chắn sẽ có động lực để phấn đấu, vươn lên nhằm đạt được những
mục tiêu cao đẹp. Cụ thể là, mục tiêu bây giờ của tơi chính là tốt nghiệp đại học
với tấm bằng loại khá trở trên nhưng muốn thực hiện được điều ấy thì phải lập ra
thời gian biểu học tập cụ thể với một phương pháp học đúng đắn kèm theo.
Ý chí biểu hiện cho sức mạnh tinh thần của con người, giúp con người
vượt qua những khó khăn, trở ngại để đạt được những mục tiêu đã đặt ra. Môi
trường đại học ẩn chứa nhiều thử thách và cám dỗ vì vậy chúng ta cần phải xây
dựng cho mình một ý chí kiên định để tránh xa những thói hư tật xấu. Ví dụ như,
cuộc sống sinh viên tự do đòi hỏi sinh viên phải lập ra những qui tắc riêng cho
bản thân để giữ vững lập trường của mình trước những cạm bẫy trước mắt: tránh
tụ tập nhậu nhẹt sa đà, khơng vì lười biếng mà cúp học, chưa học bài xong chưa
đi ngủ chưa học bài đủ chưa đi chơi, không nên chạy theo những cơng việc chỉ
sinh ra lợi ích tức thời mà bỏ bê việc học, nên học theo tinh thần của câu
nói:”Học, học nữa, học mãi” của Lê-nin.
Sinh viên phải có được những phương pháp để tiếp thu tri thức thời đại, rồi vận
dụng những tri thức đó vào thực tế góp phần xây dựng xã hội ngày càng phồn
vinh, tươi đẹp. Bên cạnh đó, sinh viên cần phải rèn luyện cả về phẩm chất, có
những quan điểm, nhận thức đúng đắn.
10
KẾT LUẬN
Sự hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam hiện nay dưới
tác động của giáo dục triết học Mác - Lênin nói chung và quan điểm về tri
thức nói riêng cũng chính là q trình hình thành ở họ những phẩm chất
cần thiết, thể hiện sự tri thức hóa, sự trưởng thành đến độ nhất định về mặt
xã hội, giúp sinh viên nâng cao nhận thức lý luận, ý thức chính trị, nhạy bén
với thực tiễn, xử lý tốt các tình huống xảy ra trong thực tiễn, sống có lý
tưởng, có ước mơ để học tập, phấn đấu và cống hiến. Trong cuộc sống
con người không thể sống mà thiếu tri thức. Vì vậy, giáo dục triết học Mác Lênin nhằm từng bước xây dựng lý tưởng cách mạng cho sinh viên là vấn
đề được quan tâm hàng đầu. Đó cũng chính là giá trị đạo đức của từng cá
nhân sinh viên mang nhân cách, là mục tiêu phấn đấu của mỗi sinh viên.
Đạt đến mục tiêu này, giáo dục triết học Mác - Lênin hoàn tồn khẳng định
vai trị quan trọng và quyết định của mình trong cuộc đấu tranh ngăn ngừa
những biểu hiện về suy thoái đạo đức, nhân cách của sinh viên trước
những tác động tiêu cực của quá trình phát triển kinh tế thị trường, hội
nhập quốc tế hiện nay.
11
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Giáo trình triết học, NXB Giáo dục.
[2]. Một vài suy nghĩ về vai trò triết học và “ý niệm tuyệt đối” của ơng, Vũ
Hùng, Tạp chí Triết học.
[3]. />
12