MỤC LỤC
I. Mở đầu………………………………………………………………………
1
1. Lý do chọn đề tài……………………………………………………………
1
2. Mục đích phạm vi nghiên cứu………………………………………………
2
II. Nội dung……………………………………………………………………
2
1. Khái quát chung về phường Hồng Hà thành phố Hạ Long…………………
2
2. Đánh giá thực trạng các vấn đề nghiên cứu thực tế………………...
…………..4
2.1. Kết quả đạt được……………………………………….…………………4
2.2. Hạn chế và nguyên nhân của hạn chế…………………………………….
…..8
2.2.1.
Hạn
chế……………………………………….
………………………….9
2.2.2. Nguyên nhân của hạn chế……………………………….………………
9
2.3. Một số giải pháp cơ bản …………………………………………………
10
3. Kiến nghị, đề xuất…………………………………………………………16
III. Kết luận………………………………………………………………..…
17
I. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là một tất yếu khách quan của cuộc
đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc, là điều kiện tiên quyết để giai cấp công
nhân Việt Nam thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình. Đảng Cộng sản Việt Nam
ra đời là sự kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công
nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Nguyên tắc xây dựng Đảng dựa trên
hệ thống các nguyên tắc xây dựng Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân của
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, một trong những ngun tắc
đó là: “tự phê bình và phê bình”. Tự phê bình và phê bình là quy luật phát
triển của Đảng, là nguyên tắc, chế độ thường xuyên trong sinh hoạt đảng. Tự
phê bình và phê bình là nêu ưu điểm, vạch rõ khuyết điểm của tổ chức đảng,
của cấp uỷ và cán bộ, đảng viên, qua đó tìm biện pháp phát huy ưu điểm, khắc
phục, sửa chữa sai lầm, khuyết điểm, giúp tổ chức và mỗi người tiến bộ. Tự
phê bình và phê bình chính là nhằm củng cố khối đoàn kết thống nhất trong
Đảng, giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy trí tuệ sáng tạo của
mọi cán bộ, đảng viên tham gia xây dựng nghị quyết và lãnh đạo tổ chức thực
hiện thắng lợi nghị quyết của đảng bộ, chi bộ và nhiệm vụ của đơn vị. Thực
chất tự phê bình và phê bình chính là giải quyết mâu thuẫn trong nội bộ tổ
chức đảng dựa trên nền tảng Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh,
Cương lĩnh, đường lối, nguyên tắc và điều lệ của Đảng, trong mối quan hệ
của những người đồng chí cùng mục đích, lý tưởng. Tự phê bình và phê bình
vừa mang tính cách mạng và khoa học, vừa mang tính nhân văn, thúc đẩy con
người vươn tới sự hồn thiện. Do đó, tự phê bình và phê bình địi hỏi tính
đảng, tính ngun tắc cao, phải khách quan, trung thực, thẳng thắn, chân
2
thành, cơng khai, có lý, có tình. Tự phê bình và phê bình cịn có vai trị đặc
biệt quan trọng, trực tiếp góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của tổ chức đảng, giữ gìn phẩm chất, tư cách đảng viên, nâng cao uy tín
của Đảng và củng cố niềm tin của quần chúng đối với Đảng.
1.2. Mục đích và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng: Đề tài nghiên cứu Cán bộ, đảng viên phường Hồng Hà,
Thành phố Hạ Long thực hiện nguyên tắc tự phê bình và phê bình theo quan
điểm Hồ Chí Minh. Trên kết quả nghiên cứu đánh giá nhưng ưu điểm, tồn tại
từ đó đưa ra những giải pháp khắc phục các tồn tại, hạn chế đồng thời kiến
nghị với các cấp có thẩm quyền về vấn đề được nghiên cứu nhằm thực hiện
tốt đề tài được nghiên cứu ở tại cơ quan đơn vị, địa phương.
* Phạm vị nghiên cứu: Năm 2022.
II. NỘI DUNG
1. Khái quát chung về phường Hồng Hà, Thành phố Hạ Long
Ngày 19/09/1981, Hội đồng bộ trưởng (Nay là Chính phủ) ra Quyết
định số 63/HĐBT gải thể thị trấn cột 5 thuộc khu mỏ Hòn Gai, thành lập
phường Hồng Hà thị xã Hòn Gai. Phường Hồng Hà nằm ở phía đơng thành
phố Hạ Long, địa giới Phường hồng Hà trải dài từ nhà máy điện cột 5 (cũ)
đến cầu Trắng, phía Bắc giáp với phường Hà Trung. Phía Nam giáp với Vịnh
Hạ Long. Phía Đơng giáp với phường Hà Tu. Phía Tây giáp với phường Hồng
Hải. Diện tích tự nhiên khoảng 4km2, dân số có 7.273 hộ với 24.483 nhân khẩu,
gồm 9 khu phố, 111 tổ dân phố. Thành phần kinh tế phát triển chủ yếu là thương
mại, dịch vụ, du lịch. Tồn phường có trên 328 cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp
nhà nước và tư nhân, doanh ngiệp có vốn đầu tư nước ngồi, trên 660 hộ kinh
doanh cá thể trên địa bàn và tại chợ Hồng Hà. Tổng thu ngân sách nhà nước năm
2022 được giao trên 13 tỷ đồng. Tổng thu ngân sách của phường theo kế hoạch
được giao trên 4,4 tỉ đồng. Chi ngân sách 9,2 tỷ đồng.
Trên địa bàn phường có bãi tăm Hòn Gai nằm trên địa bàn khu phố 6
được khánh thành vào dịch 30/4/, 01/05 năm 2021, chiều dài 900m, chiều rộng
185m với nhiều hạng mục có tổng đầu tư khoảng 100 tỷ đồng. Phường có 05
3
trường học ở đủ các cấp học Mầm non, Tiểu học, THCS, THPT (Có cả trường
cơng lập, liên cấp dân lập). Có 14 trường, nhóm trường lớp Mầm non cơng lâp.
Trình độ dân trí người dân tương đối cao, đời sống nhân dân cơ bản ổn
định, số hộ khá, giàu chiếm 40%. Phường hiện tại khơng có hộ nghèo, cận
nghèo. Đảng bộ phường có 1.700 đảng viên sinh hoạt tại 16 chi bộ (gồm 09 chi
bộ khu phố, 07 chi bộ đương chức là các trường học, công an, y tế), với trên
2.700 Đảng viên về sinh hoạt tại khu phố theo Quyết định 213-QĐ/TW.
Cấp Ủy chi bộ có 82 đồng chí, hiện tại 9/9 khu phố thực hiện nhất thể hóa
Bí thư chi bộ đồng thời là khu trưởng khu phố, Phó bí thư chi bộ kiêm trưởng
ban cơng tác mặt trận. 100% cơ quan đơn vị thực hiện Bí thư chi bộ là người
đứng đầu cơ quan, đơn vị.
Ban chấp hành Đảng bộ phường đầu nhiệm kì (2020 - 2025) đến nay gồm
15 đồng chí; Ban thường vụ 05 đồng chí từ tháng 01 năm 2021 đến nay, phường
tiếp nhận 03 đồng chí chủ chốt về cơng tác tại phường đảm nhận vị trí lãnh đạo,
quản lí. Luân chuyển 01 đồng chí Phó bí thư Đảng ủy về cơng tác tại phường Hà
trung, 01 đồng chí cán bộ Đồn về cơng tác tại UBND xã Thống Nhất. Ủy ban
kiểm tra Đảng Ủy phường gồm 05 đồng chí; Ban tuyên giáo; 07 đồng chí; Khối
dân vận: 09 đồng chí; Văn phịng Đảng ủy (kiêm nhiệm 01 đồng chí).
Cán bộ, cơng chức phường có 21 đồng chí (trong đó nhất thể hóa chức
danh Bí thư Đảng ủy đồng thời làm Chủ tịch UBND phường; 01 đồng chí Phó bí
thư Đảng ủy đồng thời làm Chủ tịch HĐND phường; 01 đồng chí Phó bí thư
Đảng ủy kiêm Chủ tịch UBMTTQ phường; Có 02 đồng chí Phó chủ tịch UBND
phụ trách Văn hóa, xã hội, Địa chính - đơ thi - mơi trường , các cán bộ chun
mơn: địa chính - Tài ngun - Mơi trường có 03 đồng chí; Văn hóa - xã hội 02
đồng chí; Tư pháp - Hộ tịch 02 đồng chí; Văn phịng thống kê 02 đồng chí; Qn
sự có 01 đồng chí.
Phường có 9 tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội (UBNTTQ gồm 30
thành viên, hội phụ nữ trên 3.200 hội viên, Hội cựu chiến binh 712 hội viên,
Đoàn thanh niên 100 đoàn viên, Cơng đồn có 26 đồn viên, hội Chưc thập đỏ
4
gần 2.300 hội viên, hội Nạn nhân chất độc da cam 95 hội viên, hội người cao
tuổi 1.700 hội viên, hội khuyến học 5.000 hội viên.
Thuận lợi: Phường Hồng Hà có dân số đơng, Đảng bộ có số lượng Đảng
viên lớn, có chất lượng, phần đơng đảng viên là cán bộ hưu trí có trình độ, kinh
nghiệm cơng tác, đã được rèn luyện qua nhiều thử thách và qua các vị trí cơng
tác khác nhau từ cơ quan Đảng, chính quyền, đồn thể, lực lượng vũ trang,
doanh nghiệp, ln kiên định và có lập trường tư tưởng vững vàng, tuyệt đối tin
tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng; bên cạnh đó là lực lượng trên 2.700 Đảng viên
đang cơng tác và sinh hoạt tại khu phố theo Quyết định số 213-QĐ/TW. Hệ
thống chính trị của phường thường xuyên được kiện toàn và hoạt động hiệu quả.
Với vị thế là phường trung tâm là nơi đặt trụ sở chính của hầu hết các cơ quan
Đảng, chính quyền. Đồn thể của Tỉnh, phường Hồng Hà luôn nhận được sự
quan tâm, lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, thường xuyên của Thành ủy, HĐND,
UBND Thành phố, sự phối hợp có hiệu quả của các đồn thể, phịng, ban, đơn vị
của thành phố. Đặc biệt trong những năm qua cùng với sự phát triển vượt bậc
của thành phố, hạ tầng kinh tế - xã hội trên địa bàn phường đã được đầu tư, hoàn
thiện, tạo động lực cho phát triển bền vững, diện mạo đô thị đang thay đổi từng
ngày theo hướng hiện đại.
Khó khăn: Phường Hồng Hà có mật độ dân cư cao, đang viên sinh hoạt
nơi chi bộ đông, địa điểm sinh hoạt tại các nhà văn hóa diện tích nhỏ, hẹp chưa
đáp ứng được nhu cầu, mặt khác thiên tại, dịch bệnh đặc biệt tình hình diễn biến
phức tạp của dịch Covid - 19 trong thời gian qua đã làm ảnh hưởng không nhỏ
đến việc sản xuất, kinh doanh của các đơn vị, doanh nghiệp và đời sống, sinh
hoạt của nhân dân trên địa bàn.
2. Đánh giá thực trạng các vấn đề nghiên cứu thực tế
2.1. Kết quả đạt được
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định “nghiêm chỉnh tự phê bình và
phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất
của Đảng”. Và phê bình và tự phê bình như là một nhu cầu tự nhiên: “…ăn
cho khỏi đói, rửa mặt cho khỏi bẩn”, “Người ta ln ln cần khơng khí để
5
sống. Người cách mạng và đoàn thể cách mạng cần phê bình và tự phê bình
thiết tha như cần khơng khí”.
Tự phê bình là thật thà cơng khai nhận trước mặt mọi người những ưu,
khuyết điểm của mình để phát huy ưu điểm và khắc phục khuyết điểm. Điều
đó nói thì dễ, nhưng làm thì khó, nhất là khi nói về khuyết điểm của mình, bởi
vì người ta hay có lòng tự ái. Thừa nhận cái sai, cái dốt, cái kém của mình, sợ
mất thể diện, mất uy tín, mất địa vị, đặc biệt là những cán bộ lãnh đạo có
chức, có quyền. Họ khơng muốn tự phân tích, phê phán mọi việc của mình và
khơng muốn cơng khai thừa nhận các thiếu sót của mình trước cơng chúng,
song, lại thích phê bình “lên lớp” người khác, trước hết là những tổ chức và
nhân viên dưới quyền lãnh đạo của họ.
Giữa tự phê bình và phê bình có mối quan hệ hữu cơ lẫn nhau. Chỉ khi
nào người tự phê bình, nhất là cấp trên là người lãnh đạo gương mẫu tự giác
phê bình mình trước cấp dưới, thì mới khuyến khích mọi người phê bình mình
để khắc phục những khuyết điểm và sai lầm trong cơng tác của mình.
Nhận thức được vai trò quan trọng nêu trên cán bộ, Đảng viên phường
Hồng Hà thành phố Hạ Long đã thực hiện hiệu quả nguyên tắc tự phê bình và
phê bình đạt một số kết quả như sau:
Hiện nay, công tác tự phê bình và phê bình ở mỗi Đảng viên luôn được
các chi bộ quan tâm. Chi bộ thường xuyên giáo dục cho đảng viên thấy rõ sự
cần thiết phải tăng cường tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt chi bộ để
các đảng viên thống nhất tư tưởng và hành động, khắc phục những biểu hiện
buông lỏng sinh hoạt Đảng, coi nhẹ tự phê bình và phê bình. Qua cơng tác tự
phê bình và phê bình, các đảng viên đã được chỉ ra những điểm mạnh để phát
huy, những điểm hạn chế để sửa chữa khắc phục. Từng cá nhân đảng viên qua
cơng tác phê bình cịn có thể khắc phục khuyết điểm trên từng công việc và
lĩnh vực mà mỗi đảng viên được chi bộ, cơ quan giao. Ở các chi bộ đã định
hướng cho các đảng viên phát huy cao nhất ý thức tự giác, dân chủ, mạnh dạn
tham gia đóng góp ý kiến. Qua kiểm điểm, ý thức tự phê bình và phê bình của
6
đảng viên được nâng lên. Vì vậy, tính chiến đấu và bản lĩnh chính trị của mỗi
đảng viên được nâng cao.
Cấp ủy các cấp đã quán triệt và thực hiện nghiêm quy định của Trung
ương, đặc biệt là của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về việc sử dụng xe công, tổ
chức các hội nghị, lễ cưới, lễ tang; quy định không uống rượu, bia buổi trưa
trong các ngày làm việc; xây dựng và ban hành các quy định về trách nhiệm
nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là đối với cán bộ chủ chốt ở các cấp,
lãnh đạo các cấp trực tiếp đối thoại với nhân dân, nâng cao chất lượng sinh
hoạt chi bộ; rà sốt, kiện tồn tổ chức bộ máy và sắp xếp, bố trí lại cán bộ ở
một số cơ quan, đơn vị cho phù hợp; chỉ đạo việc thanh tra, kiểm tra, và kết
luận để điều chuyển hoặc xem xét, xử lý kỷ luật đối với những cán bộ, đảng
viên, cơng chức có dư luận liên quan đến tham nhũng, tiêu cực; tập trung xem
xét, giải quyết các vụ khiếu kiện lâu ngày và đưa ra xét xử những vụ án lớn,
gây bức xúc trong dư luận xã hội ...
Cơng tác tự phê bình và phê bình được quan tâm thường xuyên nên các
đảng viên cũng tránh được sai lầm, khuyết điểm tái diễn, kéo dài. Bên cạnh
đó, khuyết điểm của đảng viên được các đảng viên khác cùng giúp đỡ, khắc
phục để cùng tiến bộ, hoàn thành thắng lợi mục tiêu nhiệm vụ đã đề ra.
Việc nêu gương trong cơng tác tự phê bình và phê bình của Cán bộ,
đảng viên nhất là Đảng viên giứ chức vụ quản lí, lãnh đạo, người đứng đầu
ln được quan tâm thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả cao.
Các chi bộ đã tăng cường kỷ luật, kỷ cương, từng đảng viên trong chi
bộ phải chấp hành nghiêm các nguyên tắc, chế độ sinh hoạt Đảng, các chỉ thị,
nghị quyết của cấp trên và nghị quyết của Chi bộ, nêu cao tính tiên phong,
gương mẫu của người đảng viên trên vị trí cơng tác của mình.
Cơng tác tự phê bình và phê bình đang đi vào thực chất, khơng phê
bình chung chung, hình thức.
Thơng qua đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong tồn Đảng kiểm điểm,
tự phê bình và phê bình theo Nghị quyết Trung ương 4 và việc tổ chức kiểm
điểm đối với tập thể và cá nhân hàng năm đã góp phần củng cố, nâng cao và
7
tạo sự thống nhất nhận thức tư tưởng trong các cấp ủy, tổ chức đảng và đội
ngũ cán bộ, đảng viên về tình hình Đảng và sự suy thối về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên hiện nay; tiếp
tục đổi mới, chỉnh đốn Đảng để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, đáp
ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong thời kỳ mới.
Việc tiến hành kiểm điểm tự phê bình và phê bình đã giúp các cấp ủy,
tổ chức đảng và mỗi cấp ủy viên thấy rõ hơn những ưu điểm của mình để tiếp
tục phát huy; những hạn chế, thiếu sót, khuyết điểm để kịp thời sửa chữa,
khắc phục.
Qua cơng tác kiểm điểm, tự phê bình và phê bình thẳng thắn, chân
thành trên tinh thần đồng chí đã tăng cường sự đoàn kết, thống nhất trong
Đảng; trong nội bộ từng cơ quan, đơn vị, địa phương có sự hiểu biết, cảm
thông và chia sẻ với nhau hơn; nhiều người đã nhận dạng rõ hơn, sâu sắc hơn
về những biểu hiện của sự suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,
làm cơ sở để mỗi người đánh giá ưu điểm, khuyết điểm mình chính xác hơn.
Sau kiểm điểm, các cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên đã và
đang tích cực sửa chữa, khắc phục khuyết điểm. Thơng qua kiểm điểm, tự phê
bình và phê bình, cùng với việc nhận rõ những khuyết điểm, yếu kém của
mình, mỗi cấp ủy, tổ chức đảng và từng cấp ủy viên đã đề ra được phương
hướng phấn đấu và các giải pháp cụ thể, phù hợp để sửa chữa, khắc phục
khuyết điểm.
Cấp ủy và bí thư cấp ủy ln là “người cầm cân nảy mực” trong tự phê
bình và phê bình. Cơng tâm trong xem xét đánh giá, kết luận, ưu, khuyết điểm
của từng cán bộ, đảng viên. Tạo động lực và khơng khí tốt từ đó tránh được
việc ra những tiêu cực, gây ra sự thiếu tin tưởng lẫn nhau, làm ảnh hưởng xấu
tới năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các chi bộ chi ủy và bí thư, ln
kịp thời biểu dương đối với những đảng viên có tinh thần trách nhiệm cao,
trung thực, thẳng thắn, mạnh dạn trong cả tự phê bình và phê bình. Có thái độ
kiên quyết xử lý đối với những đảng viên khơng tiếp thu ý kiến phê bình
8
đúng, có thái độ trù dập người phê bình hoặc lợi dụng người phê bình để
xun tạc, nói xấu cán bộ lãnh đạo quản lý và đồng chí mình.
Hàng năm việc xây dựng kế hoạch, chỉ thị, nghị quyết… về cơng tác tự
phê bình và phê bình ln đảm bảo kịp thời hiệu quả… đồng thời cơng tác
tổng kết lí luận và thực tiến trong cơng tác tự phê bình và phê bình ln được
quan tâm thực hiện đúng thời gian quy định.
Cấp ủy các cấp luôn hướng dẫn đảng viên góp ý làm rõ những vấn đề
được coi là “phức tạp, tế nhị” mà đảng viên có biểu hiện né tránh nể nang,
khơng dám góp ý phê bình đối với lãnh đạo, cán bộ quản lý đơn vị. Đồng thời
công tác bảo vệ cán bộ, đảng viên thực hiện tốt, thẳng thắn và nghiêm túc
trong công tác tự phê bình và phê bình cũng được quan tâm, thực hiện tốt.
Cấp ủy và mọi cán bộ, đảng viên luôn nhận thức đúng đắn, đầy đủ, sâu
sắc hơn nữa về tầm quan trọng và mục đích của tự phê bình và phê bình theo
tư tưởng Hồ Chí Minh để từ đó xác định thái độ, động cơ và biện pháp tiến
hành tự phê bình và phê bình cho phù hợp và có kết quả tích cực. Mỗi cán bộ,
đảng viên ln tự quán triệt rằng, tự phê bình và phê bình là một trong những
qui luật phát triển cơ bản của Đảng, là nguyên tắc, chế độ cơ bản của Đảng
cũng như mỗi cán bộ, đảng viên.
Cấp ủy và mọi cán bộ, đảng viên luôn hết sức coi trọng, nâng cao chất
lượng, hiệu quả tự phê bình và phê bình của từng đảng viên ở chi bộ. Bởi vì
chi bộ là nơi mà mỗi cán bộ, đảng viên thể hiện một cách trực tiếp, rõ nét nhất
về phẩm chất, năng lực, đạo đức, lối sống cũng như khả năng, mức độ hồn
thành nhiệm vụ của họ. Chi bộ cịn là nơi trực tiếp giáo dục, quản lý, rèn
luyện cán bộ, đảng viên, kể cả những đảng viên là cán bộ cao cấp.
2.2. Hạn chế và nguyên nhân của hạn chế
2.2.1. Hạn chế
Một là: Một bộ phận nhỏ cán bộ, đảng viên nhận thức chưa đúng, chưa
đầy đủ về vị trí, vai trị, mục đích, ý nghĩa, tác dụng của tự phê bình và phê
bình nên cịn chưa nghiêm túc và tự giác chấp hành. Vì vậy, dẫn đến một số
chi bộ bị giảm vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu.
9
Hai là: Một số ít cán bộ, đảng viên tuy nhận thức được rõ vị trí, vai trị,
mục đích, ý nghĩa, tác dụng của tự phê bình và phê bình nhưng do tính chiến
đấu cịn kém, khơng có chính kiến, bản lĩnh.
Ba là: Một số ít đảng viên có thiếu sót, khuyết điểm khơng tự giác tự
phê bình và phê bình, tìm mọi cách trốn tránh, bao che, giấu giếm khuyết
điểm, đổ lỗi cho khách quan, thậm chí cịn viện cớ là sợ mất thành tích.
Bốn là: Một số ít cán bộ lãnh đạo chủ chốt thấy nhân viên của mình có
khuyết điểm, vi phạm nhưng sợ mất thành tích của đơn vị, sợ bị mất phiếu khi
bầu cử, đề bạt, bình bầu khi thi đua, khen thưởng, nên chỉ nhắc nhở qua loa,
không xử lý nghiêm túc.
Năm là: Một bộ phận nhỏ Đảng viên thấy thủ trưởng hoặc đồng chí
mình có thiếu sót, khuyết điểm nhưng nhận thức khơng đúng, sợ bị trả thù, trù
dập, ảnh hưởng đến quyền lợi chính trị của bản thân nên cũng khơng dám đấu
tranh, phê bình cấp trên; hoặc cũng đã có khuyết điểm, vi phạm sợ nói ra sẽ bị
“trù dập” nên đành “im lặng” để phòng thân, chủ động “dàn xếp” một cách ổn
thỏa, tránh rắc rối cho mình.
2.2.2. Nguyên nhân của hạn chế
Một là: Một số ít cán bộ, đảng viên chưa nhận thức đúng đắn về vai trị,
vị trí, tác dụng của nguyên tắc tự phê bình và phê bình vì vậy thực hiện tự phê
bình và phê bình còn chưa nghiêm túc, chưa tự giác, chưa thường xuyên.
Hai là: Một số cán bộ, đảng viên chưa nâng cao sức chiến đấu chiến
đấu cịn kém, khơng có chính kiến, thiếu bản lĩnh chính trị.
Ba là: Số ít đảng viên cịn ngại va chạm, tìm mọi cách trốn tránh, bao
che, giấu giếm khuyết điểm, đổ lỗi cho khách quan, thậm chí cịn viện cớ là
sợ mất thành tích. Hoặc có phê bình nhưng hình thức, chung chung, chiếu lệ,
khơng có địa chỉ phê bình cụ thể.
Bốn là: Một số tổ chức cơ sở Đảng, người đứng đầu cấp ủy chưa
nghiêm túc trong cơng tác tự phê bình và phê bình nhiều nơi cịn chạy theo
thành tích nên khơng giám nhận khuyết điểm.
10
2.3. Một số giải pháp cơ bản
Một là: Nâng cao nhận thức cho các cấp uỷ nhất là người đứng đầu cần
tăng cường tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, nâng cao nhận thức cho cán bộ,
đảng viên về tự phê bình và phê bình.
Bằng nhiều hình thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục cụ thể, thiết thực
về tự phê bình và phê bình giúp cho cán bộ, đảng viên có đủ năng lực và trình
độ để nhận thức đúng bản chất của tự phê bình và phê bình là quy luật phát
triển của Đảng, của từng cán bộ, từng đảng viên. Thường xuyên tổ chức cho
cán bộ, đảng viên nghiên cứu, quán triệt, vận dụng thực hiện sáng tạo tư
tưởng Hồ Chí Minh về rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, dám nhìn
thằng vào sự thật, bảo vệ cái đúng, đấu tranh với những sai trái trong hoạt
động lãnh đạo của tập thể cấp ủy, tổ chức đảng và của đảng viên trong tự phê
bình và phê bình. Thấy rõ được mục đích, ý nghĩa, tác dụng của tự phê bình
và phê bình khơng phải là “bới lơng tìm vết” mà là “trị bệnh cứu người”, giúp
cho tổ chức đảng và đảng viên thấy rõ ưu điểm để phát huy, thiếu sót, khuyết
điểm để uốn nắn, sửa chữa, khắc phục, nếu có vi phạm đến mức phải xử lý thì
tự giác nhận khuyết điểm, vi phạm, tự nhận hình thức kỷ luật.
Hai là: Cấp ủy chủ động gợi ý nội dung để đảng viên kiểm điểm, tự
phê bình và phê bình, thực hiện nghiêm tự phê bình và phê bình từ cấp Đảng
ủy đến cơ sở.
Từ Đảng ủy phường đến từng chi bộ, đảng viên phải thực hiện nghiêm
chỉnh tự phê bình và phê bình, việc cấp ủy chủ động gợi ý nội dung để đảng
viên kiểm điểm là một phương pháp gợi mở cho đảng viên tự giác nhìn nhận
khuyết điểm của mình, nhất là những đảng viên có biểu hiện suy thối, “tự
diễn biễn”, “tự chuyển hóa”. Làm tốt phương pháp này sẽ có tác dụng nhiều
mặt đối với đảng viên, khắc phục tư tưởng làm lướt, qua loa, chiếu lệ, không
thực chất. Phương pháp này giúp cho mỗi cá nhân cán bộ, đảng viên phải ln
nhìn lại bản thân mình một cách tự giác về ưu điểm, hạn chế để có sự điều
chỉnh phù hợp nhằm nâng cao ý thức, trách nhiệm trước công việc. Để thực
hiện phương pháp này có hiệu quả, trước hết cấp ủy cần hướng dẫn cụ thể về
11
việc lấy ý kiến gợi ý và tiến hành gợi ý, tiến hành thảo luận trong cấp ủy để
thống nhất và quyết định những vấn đề gợi ý kiểm điểm, tự phê bình và phê
bình, xem xét những gợi ý một cách khách quan, chuẩn xác những ý kiến
khác nhau, bảo đảm thông tin gợi ý xác thực, đúng việc, đúng người, đúng
hồn cảnh. Ðồng thời, nhanh chóng phát hiện, ngăn chặn kịp thời việc gợi ý
kiểm điểm, tự phê bình và phê bình để thực hiện động cơ cá nhân, thiếu tinh
thần xây dựng, gây ảnh hưởng xấu tới nội bộ Ðảng. Việc cấp ủy gợi ý kiểm
điểm, tự phê bình và phê bình, chỉ rõ hiện tượng, yếu kém và yêu cầu đảng
viên phải làm rõ so với việc bảnthân đảng viên đó “tự nhận” khuyết điểm rõ
ràng mang lại hiệu quả cao hơn. Đảng viên có biểu hiện suy thối muốn né
tránh khuyết điểm cũng khó, chưa nói đến việc khơng nhận khuyết điểm,
kiểm điểm khơng đạt yêu cầu phải làm cho đến khi đạt yêu cầu. Đó chính là
tác dụng lớn của việc gợi ý nội dung để đảng viên kiểm điểm, tự phê bình và
phê bình. Mặt khác, phải ln “coi trọng kiểm tra việc khắc phục hạn chế,
khuyết điểm”, đây cũng là một trong những giải pháp mà Đại hội Đảng XIII
nhắc đến đối với thực hiện tự phê bình và phê bình, bởi tự phê bình, tự kiểm
điểm xong mà khơng khắc phục thì cũng như khơng có tự phê bình, kiểm
điểm.
Ba là: Xây dựng kế hoạch, nội dung, tổ chức triển khai tự phê bình và
phê bình của đảng viên đảm bảo khoa học, kịp thời, hiệu quả.
Việc xây dựng kế hoạch, tổ chức triển khai tự phê bình và phê bình là
một phương pháp mang lại sự đồng bộ, nhất quán về nội dung, hình thức cũng
như phương pháp. Thơng qua đó, đối với mỗi đảng viên, nội dung chủ yếu
kiểm điểm phải cụ thể tập trung vào nhiệm vụ chính trị được giao, đó là: tự
phê bình và phê bình về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; kiểm điểm về
thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao; kiểm điểm về việc thực hiện quy
định những điều đảng viên khơng được làm; đi sâu kiểm điểm cá nhân có suy
thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống khơng? Nếu có thì ở mức độ
nào? Nội dung suy thối về tư tưởng chính trị là phai nhạt lí tưởng cách mạng,
không kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, mơ hồ, giao động, thiếu niềm
12
tin, thiếu gương mẫu ở các đảng viên giữ chức vụ chủ chốt, sa sút trong ý chí
chiến đấu, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh, phụ họa theo
nhận thức sai trái, quan điểm lệch lạc, không cịn ý thức hết lịng vì nước vì
dân, khơng làm trịn bổn phận chức trách được giao, khơng thực hiện đúng
ngun tắc sinh hoạt đảng; giữ gìn đồn kết, thống nhất trong Đảng, giữa
đảng viên và nhân dân, thái độ phục vụ nhân dân; vận động gia đình gương
mẫu chấp hành đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước,
quy định của cơ quan, địa phương và đơn vị. Đảng ta yêu cầu: “Các tổ chức
đảng từ trung ương đến cơ sở phải nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình, cấp
trên phải tự phê bình trước cấp dưới và tổ chức tốt việc phê bình từ dưới lên.
Tự phê bình và phê bình phải thành thật, thẳng thắn và nhằm mục đích hồn
thành nhiệm vụ, xây dựng tổ chức, giúp đỡ nhau tiến bộ. Đảng nghiêm cấm
những hành động trấn áp phê bình, trù dập cá nhân và có thái độ nghiêm khắc
đối với bất cứ cán bộ, đảng viên và tổ chức nào phạm các khuyết điểm ấy”.
Cần khắc phục lối phê bình chụp mũ, quy kết tư tưởng một cách độc đoán,
thái độ đấu tranh thơ bạo, thiếu tình, thiếu lý, nhưng khơng vì thế mà đi đến
xuề xịa, nể nang, khơng đấu tranh nội bộ một cách nghiêm túc, khơng phân
tích sâu sắc tính chất và nguyên nhân sai lầm, khuyết điểm để có thể khắc
phục một cách triệt để. Việc khéo léo kết hợp các phương pháp trong tự phê
bình và phê bình giúp đảng viên dễ dàng tiếp thu những khuyết điểm của
mình, mặt khác, sử dụng khơng phù hợp, khéo léo thì hiệu quả thu được thấp,
thậm chí cịn gây nhiều tác hại sau này. Phải phê bình đúng lúc, đúng chỗ, có
cách nói thích hợp để người bị phê bình dễ tiếp thu, sửa chữa. Làm sao
phương pháp tự phê bình và phê bình phải đảm bảo nguyên tắc, mềm dẻo và
khéo léo về cách thức tiến hành, phải thể hiện rõ những tính chất cơ bản của
tự phê bình và phê bình mới có hiệu quả. Đối với tự phê bình và phê bình,
khơng nên dùng phương pháp hành chính mệnh lệnh mà phải dựa trên “tình
đồng chí thương u lẫn nhau”. Khi phê bình người khác khơng được áp đặt,
xoi mói, mang tính “bới lơng, tìm vết”, “hạ bệ” lẫn nhau; phê bình việc chứ
khơng phê bình người, tránh cơng kích cá nhân, trả thù.
13
Bốn là: Thực hiện nghiêm túc, hiệu quả tự phê bình và phê bình, đánh
giá, xếp loại chất lượng tổ chức đảng, đảng viên hàng năm.
Đảng ta coi tự phê bình và phê bình là một nội dung quan trọng, một
chế độ, một nguyên tắc trong sinh hoạt đảng. Một phương pháp, công cụ hữu
hiệu, đắc lực để thực hiện tốt việc đánh giá, xếp loại cán bộ, đảng viên, đó
chính là tự phê bình và phê bình. Thơng qua việc kiểm điểm tự phê bình và
phê bình, đánh giá xếp loại chất lượng tổ chức đảng, đảng viên hằng năm là
dịp để các cấp ủy, tổ chức đảng, tập thể lãnh đạo từng cơ quan, đơn vị và cá
nhân tự soi lại mình, từ đó phát huy ưu điểm, đề ra giải pháp khắc phục hạn
chế để thực hiện tốt hơn nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị và của mỗi
đảng viên.Vì vậy, chấp hành nghiêm quy định về tự phê bình và phê bình
trong đánh giá, xếp loại chất lượng tổ chức đảng, đảng viên hàng năm được
xem là một yêu cầu bắt buộc trong việc thực hiện tốt tự phê bình và phê bình,
là kết quả của việc đánh giá chất lượng hoạt động lãnh đạo của cấp ủy đối với
tổ chức đảng và đảng viên.Thực hiện đánh giá chất lượng phải liên tục, đa
chiều, theo tiêu chí, bằng nhiệm vụ cụ thể hoặc có sự so sánh giữa các vị trí
tương đương sau đó công khai kết quả. Thực hiện nghiêm túc tự phê bình và
phê bình, tổ chức đảng và đảng viên được rèn luyện tinh thần dân chủ, tính tự
giác, ý thức trách nhiệm đối với bản thân và tổ chức đảng. Tự cá nhân đấu
tranh chưa đủ mà cần có sự giúp đỡ nhắc nhở thường xuyên của tập thể, do đó
chi bộ và tập thể đảng viên cũng cần quan tâm giúp đỡ và tạo điều kiện để
đảng viên sửa chữa khuyết điểm, có kế hoạch tiến hành tự phê bình và phê
bình thường xun, khơng phải chờ đến kỳ sinh hoạt cuối năm mới góp ý.
Dân chủ trong sinh hoạt của cấp ủy, chi bộ càng được mở rộng, phát huy thì
tính đảng trong tự phê bình và phê bình càng được nâng cao, khối đồn kết
thống nhất trong Đảng, trong cấp ủy được củng cố và tăng cường.
Năm là: Phát huy dân chủ trong sinh hoạt đảng gắn với kỷ luật, kỷ
cương, tự phê bình và phê bình.
Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ trong Đảng cùng với việc
thực hành dân chủ thì “tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất” để củng cố và
14
phát triển sự đoàn kết, thống nhất của Đảng. Người căn dặn: “Trong Đảng
thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê
bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đồn kết và thống nhất của
Đảng”. Vì vậy, việc phát huy dân chủ trong sinh hoạt đảng gắn với kỷ luật, kỷ
cương, tự phê bình và phê bình là một giải pháp quan trọng trong giai đoạn
hiện nay. Có thực hành dân chủ rộng rãi, thì tự phê bình và phê bình mới trở
thành nền nếp được thực hiện thường xuyên trong Đảng. Tự phê bình và phê
bình là cuộc đấu tranh tư tưởng cam go, phức tạp giữa cái đúng, cái sai, giữa
thiện và ác, nếu như không thực hiện dân chủ, thì cán bộ, đảng viên dù có ý
kiến cũng khơng dám nói, muốn phê bình cũng sợ khơng dám phê bình, thấy
sai sẽ xem như khơng thấy, cũng khơng dám lên tiếng mà phải xem tự phê
bình và phê bình xuất phát từ lợi ích của mỗi đảng viên. Tự phê bình và phê
bình khơng làm giảm sút uy tín của cán bộ, đảng viên, mà thể hiện dũng khí
của người đảng viên Đảng Cộng sản, vì vậy, mỗi đảng viên nghiêm túc thực
hiện tự phê bình và phê bình, khơng vì sĩ diện cá nhân, hay nịnh bợ cấp trên
mà đưa ra những ý kiến phê bình qua loa, che giấu khuyết điểm hay nêu
khuyết điểm nhưng thực chất là đề cao ưu điểm. Tự phê bình và phê bình phải
gắn với kỷ luật, kỷ cương, phê bình đúng lúc, đúng nơi, đúng chỗ, khơng phê
bình người khác một cách nặng nề, khơng nói xấu cán bộ, đảng viên trong tổ
chức đảng,lựa chiều khi phê bình người khác, nhất là khi phê bình cán bộ chủ
chốt, cán bộ cấp trên và tất cả những ý kiến phê bình phải tn thủ những nội
dung phê bình, khơng đem những chuyện cá nhân, riêng tư, vụn vặt không
ảnh hưởng đến tổ chức để phê bình trước tổ chức mà phải làm sao để người bị
phê bình thấy được khuyết điểm. Bác Hồ đã dạy cán bộ, đảng viên: “Thấy
được khuyết điểm là một bước tiến bộ. Nhưng mới chỉ là bước đầu. Thấy rồi
phải lo sửa. Đang sửa thì phải sửa cho hết. Đã sửa rồi thì phải giữ mình đừng
để mắc phải nữa”. Cho nên, qua mỗi kỳ tự phê bình và phê bình, đảng viên
hay là đảng viên giữ chức vụ lãnh đạo phải kịp thời rút kinh nghiệm để có
biện pháp cụ thể phát huy ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm, trường hợp đảng
viên vi phạm đến mức phải kỷ luật thì khơng khoan nhượng, chậm trễ, thực
15
hiện xử lý kỷ luật theo quy định mà Đảng đã đề ra. Tính chủ động trong việc
thực hiện tự phê bình và phê bình khơng tự nhiên mà có, nó địi hỏi năng lực,
trình độ và cả bản lĩnh chính trị vững vàng khơng ngừng học tập, tu dưỡng,
dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệmcủa mỗi đảng viên tự rèn giũa mà
nên.
Sáu là: Đồng thời các cấp bộ Đảng cần tập trung vào một số biện pháp
chủ yếu như Đại hội X chỉ ra: “Tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, tự tu
dưỡng, rèn luyện của cán bộ, đảng viên; công tác quản lý cán bộ, đảng viên
của tổ chức đảng; đẩy mạnh đấu tranh tự phê bình và phê bình, mở rộng dân
chủ, cơng khai. Biểu dương và nhân rộng những tấm gương cần kiêm, liêm
chính, chí cơng vơ tư”. Chú ý giáo dục đạo đức cách mạng, làm cho cán bộ,
đảng viên hiểu rõ vai trị, sự cần thiết phải đẩy mạnh tự phê bình và phê bình,
mục đích phương pháp tự phê bình và phê bình, kiên quyết duy trì, thực hiện
nghiêm túc nền nếp chế độ tự phê bình và phê bình trong các cấp ủy, tổ chức
Đảng, cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội. Thực hiện đúng nguyên tắc tập
trung dân chủ, giữ gìn sự đồn kết thống nhất trong Đảng, chống mọi biểu
hiện chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ hội thực dụng, cục bộ bè phái, mất đoàn
kết.
Bảy là: Thực hiện tốt dân chủ trong Đảng, nâng dần trình độ mọi mặt
và cung cấp thơng tin cho cán bộ, đảng viên. để nâng cao chất lượng tự phê
bình và phê bình, phải đi liền với tăng cường tập trung, giữ vững kỷ luật. nếu
khơng thì tự phê bình và phê bình sẽ khơng đúng hướng, gây tác hại cho Đảng
và cho cách mạng.
Tám là: Kết hợp chặt chẽ tự phê bình và phê bình trong Đảng với phê
bình của quần chúng. đây là biện pháp khắc phục triệt để những khuyết điểm
của tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên. Việc phê bình của quần chúng
đối với Đảng là cung cấp thông tin quan trọng và cần thiết cho tổ chức đảng
nghiên cứu, xem xét, đánh giá hoạt động của mình, cũng như phẩm chất năng
lực của cán bộ, đảng viên. Bởi vậy, quần chùng tổ chức phê bình tổ chức đảng
16
và cán bộ, đảng viên là nhân tố không thể tách rời, khơng thể thiếu trong tư
tưởng Hồ Chí Minh để nâng cao chất lượng tự phê bình và phê bình.
Chín là: Gắn tự phê bình và phê bình với công tác kiểm tra, kịp thời
phát hiện và xử lý nghiêm những tổ chức đảng, đảng viên không thực hiện tốt
Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng về tự phê bình và phê bình, nhất là những người
có thái độ thành kiến, trù dập người phê bình; phải có biện pháp bảo vệ người
phê bình đã dũng cảm đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực; mặt khác phải
có biện pháp cụ thể buộc người có khuyết điểm, bị phê bình phải sửa chữa
khuyết điểm. Nhất là với những tổ chức đảng yếu kém và kém nát, nội bộ có
nhiều vấn đề phức tạp là việc lớn và khó, chỉ mình tổ chức đảng đó khơng thể
thực hiện tốt được. Những nơi này càng địi hỏi phải có sự quan tâm giúp dỡ
của cấp trên, đặc biệt là cấp trên trực tiếp của tổ chức đảng.
3. Kiến nghị, đề xuất
* Đối với Đảng ủy, HĐND, UBND và các tổ chức chính trị phường
Hồng Hà, Thành phố Hạ Long
Tiếp tục duy trì và phát huy hiệu qua các thành tưu, kết quả đã đạt
được trong nhưng năm qua. Đồng thời Tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo sát sao việc
thực hiện nguyên tắc “tự phê bình và phê bình” trong các Tổ chức cơ sở
Đảng, Đảng viên, cán bộ công chức, viên chức của phường để việc tự phê
bình và phê bình thường xuyên, thực chất hơn nữa. Đồng thời tổ chức các
cuộc thi, giao lưu tìm hiểu việc thực hiện nguyên tắc tự phê bình và phê bình
để tạo sức lan tỏa đến cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức của phường.
* Đối với trường chính trị Tỉnh Lào Cai
Tham mưu, đề xuất với cấp có thầm quyền đưa nguyên tắc “tự phê
bình và phê bình” thành một chuyên đề (bài học), được xây dựng xuyên suốt
theo hướng tiếp cận lí luận và tăng thời gian thực hành, xử lí các tình huống
gắn liền với thực tiễn để học viên nắm rõ, hiểu và thực hành tốt hơn nguyên
tắc “tự phê bình và phê bình”.
III. KẾT LUẬN
17
Tự phê bình và phê bình là phương tiện quan trọng nhất để xây dụng,
củng cố đoàn kết, thống nhất trong Đảng. Do vậy, trong giai đoạn cách mạng
mới hiện nay tự phê bình và phê bình là việc làm khơng thể thiếu và nó bao
trùm lên tất cả trong xây dựng và hoạt động của Đảng. Nó giúp cho cán bộ,
đảng viên và tổ chức đảng thấy được những ưu điểm, khuyết điểm của mình,
tìm ra cách thức, phương pháp khắc phục để thực hiện nhiệm vụ sắp tới nặng
nề hơn. đặc biệt Đảng ta đang chỉ đạo quyết liệt việc thực hiện có chất lượng
tự phê bình và phê bình gắn với cuộc vận động học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí minh trong tất cả các lĩnh vực hoạt động của mình,
nhất là thách thức của việc phòng chống tham nhũng hiện nay. Như vây việc
thực hiện tốt nguyên tắc tự phê bình và phê bình của Cán bộ, đảng viên
phường Hồng Hà, Thành phố Hạ Long cũng góp phần vào việc thực hiện
thắng lợi mục tiêu toàn Đàng, Nhà nước và nhân dân ta thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ kinh tế - xã hội và những nhiệm vụ xây dựng Đảng mà Nghị quyết
Đại hội XIII đã đề ra.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo cáo kết quả công tác 6 tháng đầu năm; phương hướng nhiệm vụ 6
tháng cuối năm 2022 của Đảng ủy phường Hồng Hà thành phố Hạ Long tỉnh
Quảng Ninh.
2. Giáo trình trung cấp lý luận chính trị “Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ
Chí Minh” của nhà xuất bản Lý luận chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
3. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII.
18
19