Tải bản đầy đủ (.docx) (90 trang)

KHOÁ LUẬN BẢO ĐẢM VÀ THÚC ĐẨY QUYỀN TIẾP CẬN THÔNG TIN (9.8 điểm)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (436.77 KB, 90 trang )

[BÌA]

1


LỜI CẢM ƠN

Trước tiên, em xin cảm ơn tất cả q thầy, cơ giáo đã tận
tình hướng dẫn, giảng dạy trong suốt quá trình em học tập và
rèn luyện tại Học viện Thanh thiếu niên Việt, để em có những
kiến thức cơ bản về ngành Luật, làm cơ sở thực hiện khóa luận
tốt nghiệp này.
Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới cô TS. Trần
Thị Tuyết Nhung - giảng viên hướng dẫn khóa luận tốt nghiệp đã
tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em trong suốt quá trình xây dựng
đề cương, nghiên cứu và hồn thành khóa luận tốt nghiệp.
Em xin chân thành cảm ơn lãnh đạo Học viện Thanh thiếu
niên Việt Nam cùng các cán bộ, công chức đã tạo điều kiện
thuận lợi nhất về tài liệu tham khảo giúp em hồn thành khóa
luận này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng để hồn thiện đề tài song
khơng thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Em rất mong
nhận được sự góp ý của q thầy cơ để khóa luận được hồn
chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!.
Sinh viên

1


2




DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

HRC

: Ủy ban nhân quyền

ICCPR

: Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính
trị năm 1966

TCTT

: Tiếp cận thơng tin

VBQPPL

: Văn bản quy phạm pháp luật

QLNN

: Quyền lực nhà nước

MỤC LỤC
3


DANH MỤC


Tran
g

PHẦN MỞ ĐẦU

1

1. Tính cấp thiết của đề tài

1

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

4

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

5

4. Phương pháp nghiên cứu

5

5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Khóa luận

6

6. Kết cấu của khóa luận


6

CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM

7

VÀ THÚC ĐẨY QUYỀN TIẾP CẬN THÔNG TIN
1.1. Khái quát chung về quyền tiếp cận thông tin

7

1.1.1. Khái niệm quyền tiếp cận thông tin

7

1.1.2. Nội dung quyền tiếp cận thông tin của công

12

dân
1.1.3. Ý nghĩa của quyền tiếp cận thông tin

14

1.1.4. Nguyên tắc bảo đảm quyền tiếp cận thông

15

tin
1.2. Bảo đảm và thúc đẩy quyền tiếp cận thông tin


19

1.2.1. Khái niệm, đặc điểm bảo đảm và thúc đẩy

19

quyền tiếp cận thông tin
1.2.2. Các bảo đảm và thúc đẩy quyền tiếp cận

20

thông tin
1.3. Các yếu tố tác động đến bảo đảm và thúc đẩy

22

quyền tiếp cận thông tin
1.3.1.

Nhu cầu thông tin và nhận thức của người

22

dân về quyền tiếp cận thông tin
1.3.2. Năng lực, trách nhiệm của Nhà nước trong việc
4

22



cung cấp thông tin
1.3.3. Sự phát triển của công nghệ thông tin

23

1.4. Cơ chế bảo đảm và thúc đẩy quyền tiếp cận

24

thông tin
1.4.1. Cơ chế bảo đảm và thúc đẩy quyền tiếp cận

24

thông tin
1.4.2. Cơ chế bảo đảm và thúc đẩy quyền tìm kiếm

27

thơng tin
1.4.3. Khiếu nại và xử lý hành vi vi phạm quyền tiếp

28

cận thông tin
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM VÀ THÚC ĐẨY

31


QUYỀN TIẾP CẬN THÔNG TIN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Thực trạng hệ thống pháp luật về quyền tiếp

31

cận thơng tin
2.1.1. Các chủ trương, chính sách của Đảng trong

31

bảo đảm và thúc đẩy quyền tiếp cận thông tin
2.1.2. Hệ thống pháp luật Việt Nam về quyền tiếp

32

cận thông tin
2.2. Thực tiễn bảo đảm và thúc đẩy quyền tiếp cận

36

thông tin ở Việt Nam từ năm 2016 đến nay
2.2.1. Thực trạng các yếu tố tác động đến bảo đảm

36

và thúc đẩy quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam
2.2.2. Thực trạng cơ chế bảo đảm và thúc đẩy

39


quyền tiếp cận thông tin ở việt nam từ năm 2016
đến nay
2.3. Đánh giá việc bảo đảm và thúc đẩy quyền tiếp

44

cận thông tin ở Việt Nam từ năm 2016 đến nay
2.3.1. Những thành thực trong việc bảo đảm và
thúc đẩy quyền tiếp cận thông tin
5

44


2.3.2. Những bất cập, hạn chế trong việc bảo đảm

47

và thúc đẩy quyền tiếp cận thông tin
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO

50

HIỆU LỰC HIỆU QUẢ BẢO ĐẢM VÀ THÚC ĐẨY QUYỀN
TIẾP CẬN THÔNG TIN Ở VIỆT NAM
3.1. Yêu cầu việc bảo đảm và thúc đẩy quyền tiếp cận thông tin ở

50

Việt Nam

3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả bảo đảm và thúc

52

đẩy quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam
3.2.1. Đổi mới hoạt động của các cơ quan nhà nước

52

nhằm bảo đảm và thúc đẩy quyền tiếp cận thông
tin
3.2.2. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến về

53

quyền tiếp cận thông tin của công dân
3.2.3. Tăng cường ứng dựng công nghệ thông tin

57

trong cung cấp thông tin
3.2.4. Tăng cường giám sát, thanh tra, xử lý vi

58

phạm pháp luật về quyền tiếp cận thông tin
KẾT LUẬN

60


6


PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Thơng tin là một nhu cầu khách quan, thực tế của con
người. Thơng tin gắn bó chặt chẽ, mật thiết và có tính quyết
định đến sự phát triển của xã hội lồi người. Thông tin tạo ra
các cuộc cách mạng về khoa học, kỹ thuật và các cuộc cách
mạng xã hội trong lịch sử. Mọi tri thức của nhân loại đều được
cập nhật, lưu trữ và phổ biến dưới dạng thông tin. Vì vậy, nhu
cầu về thơng tin đang gia tăng một cách nhanh chóng.
Tiếp cận thơng tin (TCTT) trở thành một nhu cầu và một
quyền cấp thiết cần phải bảo đảm đối với mọi công dân bởi
thông tin, đặc biệt là thơng tin về pháp luật, chính sách và hoạt
động của các cơ quan nhà nước được coi là yếu tố cốt yếu trong
mọi hoạt động khi xã hội được quản lý, vận hành theo nguyên
tắc của Nhà nước pháp quyền. TCTT là một trong những quyền
cơ bản của con người, thuộc nhóm quyền dân sự - chính trị. Tơn
trọng và đảm bảo quyền TCTT là một xu thế tiến bộ và mang
tính chất tất yếu trong q trình phát triển của xã hội loài
người.
Quyền TCTT là một trong những quyền cơ bản của con
người, quyền này đã được ghi nhận trong hệ thống pháp luật
quốc tế như: Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948
[19]; Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm
1966 [20]; Công ước của Liên Hợp quốc về chống tham nhũng
năm 2003; Tuyên bố Rio về môi trường và phát triển năm 1992;
Công ước UNECE về tiếp cận thông tin môi trường năm 1998 của

Ủy ban kinh tế Châu Âu của Liên hợp quốc.
1


Ngày càng có nhiều quốc gia đánh giá cao vai trò của quyền
TCTT và tầm quan trọng của việc bảo đảm và thúc đẩy quyền
này đối với sự phát triển quốc gia. Cho đến nay đã có hơn 80
Quốc gia quy định về quyền TCTT ngay trong Hiến pháp của
mình và có khoảng 112 quốc gia ban hành Luật Tự do Thông
tin; Luật TCTT hoặc Luật Công khai thông tin của cơ quan chính
quyền…
Bảo đảm và thúc đẩy quyền TCTT nhằm tăng cường tính minh
bạch trong hoạt động của cơ quan nhà nước, đồng thời tăng
cường sự tham gia của người dân trong hoạt động quản lý Nhà
nước. Đảm bảo công khai, minh bạch hướng đến một đất nước
dân chủ với phương châm “đất nước của Nhân dân, do Nhân dân,
vì Nhân dân”.
Với chủ trương hội nhập quốc tế, Việt Nam đã phê chuẩn
Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (ICCPR,1966).
Nhằm nội luật hóa quy định của Liên Hợp quốc về quyền TCTT,
nhiều chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước
đã nghi nhận quyền này. Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thông qua tại Đại hội VII năm
1991 đã khẳng định: “Bảo đảm quyền được thông tin, quyền tự
do sáng tạo của công dân. Phát triển các phương tiện thông tin
đại chúng đồng bộ, hiện đại, thông tin chân thực, đa dạng, kịp
thời, phục vụ có hiệu quả sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc”[12]. Lần đầu tiên Hiến pháp Việt Nam ghi nhận: “Cơng
dân có quyền tự do ngơn luận, tự do báo chí, có quyền được
thơng tin… theo quy định của pháp luật”[31]. Cụ thể hoá quy

định của Hiến pháp, nhiều văn bản pháp luật đã được ban hành
trong đó có các quy định về quyền được thông tin và trách
nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc cung cấp thông tin
2


do cơ quan nhà nước đang nắm giữ như: Luật Ngân sách nhà
nước, Luật Kiểm toán nhà nước, Luật Nhà ở, Luật Báo chí; Pháp
lệnh Bảo vệ bí mật nhà nước, Luật Ban hành tiếp cận thông tin
của HĐND, UBND, Luật Phịng, chống tham nhũng... Thơng qua
việc ban hành các văn bản, Nhà nước ta luôn quan tâm đến
quyền được thông tin của người dân nhằm thực hiện chủ trương
“dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” trong quá trình xây
dựng Nhà nước pháp quyền. Hiến pháp năm 2013 tiếp tục kế
thừa tư tưởng, chủ trương của Nhà nước ta về quyền TCTT:
“Cơng dân có quyền tự do ngơn luận, tự do báo chí, tiếp cận
thơng tin…Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy
định”[32].
Bắt kịp xu thế chung của thế giới, ở Việt Nam quyền TCTT đã
được thể hiện trong nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và
được hiến định trong Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp năm
2013. Khoản 1 Điều 14 Hiến pháp 2013 quy định: “Ở nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền
cơng dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được cơng
nhận, tơn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp
luật”[31]; Điều 25, Hiến pháp 2013 quy định: “Cơng dân có
quyền tự do ngơn luận, tự do báo chí, tự do tiếp cận thơng tin,
hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp
luật quy định”[32]. Với các quy định trên, Hiến pháp 2013 đã
thể hiện sự phát triển quan trọng về nhận thức lý luận và tư duy

lập hiến trong việc ghi nhận quyền con người, quyền công dân so
với Hiến pháp năm. Quyền TCTT thuộc nhóm quyền con người,
quyền cơng dân, do vậy phải được công nhân, tôn trọng, bảo vệ,
bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật.

3


Cụ thể hoá quy định của Hiến pháp, thực hiện chủ trương
của Đảng, đồng thời nội luật hoá một số quy định trong các điều
ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, nhiều văn bản pháp
luật đã được ban hành có quy định về quyền được thơng tin và
trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc cung cấp
thơng tin như Luật Kiểm tốn 2015, Luật Ban hành tiếp cận
thông tin năm 2015 (sửa đổi năm 2020), Luật Xuất bản năm
2012, Luật phòng chống tham nhũng năm 2018 (sửa đổi bổ
sung 2019), Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 2013,
Luật Báo chí 2016, Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường,
thị trấn (2007)…. Trong đó nổi bật nhất phải nhắc đến Luật TCTT
được Quốc hội thơng qua và ban hành ngày 06/04/2016.
Các chủ trương, chính sách của Đảng, văn bản pháp luật
được Nhà nước thể chế hóa về quyền TCTT trong những năm
qua đã từng bước làm minh bạch hóa hoạt động của cơ quan
nhà nước, giúp người dân tiếp cận ngày một dễ dàng và thuận
lợi hơn đối với các thông tin do cơ quan nhà nước nắm giữ. Đã
làm hạn chế các hành vi quan liêu, hách dịch, cửa quyền trong
công việc của các cơ quan nhà nước, các cán bộ, công chức đối
với người dân. Người dân càng ngày càng nhận thức sâu sắc,
toàn diện hơn về quyền được tiếp cận và cung cấp những thơng
tin có liên quan đến lợi ích của mình.... Tuy nhiên, các quy định

của pháp luật cũng như trong quá trình quyền này được thực thi
trên thực tế còn gặp nhiều bất cập, hạn chế. Việc thực thi pháp
luật về TCTT thiếu công khai, minh bạch dẫn đến tình trạng áp
dụng pháp luật khơng thống nhất, tùy tiện; vẫn cịn tình trạng
tham nhũng, tiêu cực của một bộ phận cán bộ, công chức trong
một số lĩnh vực về đất đai, đền bù giải phóng mặt bằng, giao
thơng, xây dựng, các dự án ưu đãi… dẫn đến khiếu kiện kéo dài,
4


khiếu kiện vượt cấp. Nhiều văn bản pháp luật quy định quyền
được TCTT của người dân, nhưng trên thực tế, quyền TCTT của
người dân hết sức khó khăn, chưa được bảo đảm, vẫn cịn tình
trạng người dân bị sách nhiễu, gây phiền hà, bị vi phạm. Người
dân có quyền được biết thông tin theo quy định của pháp luật
nhưng rất ít người nhận thức được quyền này của mình.
Việc cung cấp thơng tin từ phía cơ quan nhà nước cịn chưa
đầy đủ, hời hợt nhất là các thông tin liên quan trực tiếp đến
quyền, lợi ích của người. Thực trạng này dẫn đến tình trạng bất
bình đẳng trong xã hội, tạo điều kiện cho một số cán bộ, công
chức trục lợi, gây khó khăn cho người dân.
Với những lý do trên, em đã chọn đề tài “Bảo đảm và thúc
đẩy quyền tiếp cận thông tin ở Việt Nam hiện nay” làm đề
tài khóa luận tốt nghiệp cử nhân Luật. Thơng qua Khóa luận, em
mong muốn đóng góp một phần cơng sức vào việc bảo vệ quyền
con người qua việc TCTT, nâng cao tính minh bạch, dân chủ
trong thực hiện QLNN, tạo tiền đề vững chắc cho xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam không ngừng phát
triển và hội nhập.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu:
Khóa luận nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về
quyền TCTT, bảo đảm và thúc đẩy quyền TCTT theo quy định
của pháp luật. Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng việc
bảo đảm và thúc đẩy quyền TCTT ở Việt Nam, đề xuất một số
giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả việc đảm bảo thúc
đẩy quyền TCTT ở Việt Nam trong thời gian tới.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:

5


Để đạt được mục đích trên, Khóa luận tập trung nghiên cứu,
giải quyết các nhiệm vụ cụ thể sau:
Thứ nhất, nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận về quyền TCTT
và bảo đảm và thúc đẩy quyền TCTT.
Thứ hai, phân tích, đánh giá thực trạng quy định pháp luật
về bảo đảm và thúc đẩy quyền TCTT ở Việt Nam; chỉ ra những
kết quả đạt được, những vấn đề còn tồn tại, nguyên nhân của
những bất cập, tồn tại trong việc bảo đảm và thúc đẩy quyền
TCTT ở Việt Nam;
Thứ ba, đề xuất một số giải pháp nhằm bảo đảm và thúc
đẩy thực hiện quyền TCTT ở Việt Nam trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Khóa luận tập trung đi sâu nghiên cứu các quy định pháp
luật hiện hành về việc bảo đảm và thúc đẩy quyền TCTT của
người dân (cá nhân) ở Việt Nam hiện nay dưới góc độ tiếp cận
ngành Luật.
3.2. Phạm vi nghiên cứu

Về nội dung: Khóa luận tốt nghiệp tập trung nghiên cứu
những vấn đề lý luận về việc bảo đảm quyền TCTT trong đó tập
trung nghiên cứu về khái niệm, vai trò của quyền TCTT và cơ
chế bảo đảm và thúc đẩy quyền TCTT hiện nay. Đánh giá thực
tiễn thực hiện việc bảo đảm và thúc đẩy quyền TCTT ở nước ta
để từ đó đưa ra những kiến nghị để hoàn thiện cơ chế bảo đảm
và thúc đẩy quyền TCTT một cách hữu hiệu nhất.
Về khơng gian: Khóa luận chủ yếu nghiên cứu về vấn đề
bảo đảm và thúc đẩy quyền TCTT tại Việt Nam.

6


Về thời gian: Khóa luận tập trung nghiên cứu về vấn đề bảo
đảm và thúc đẩy quyền TCTT từ khi Luật TCTT 2016 được thơng
qua và có hiệu lực thi hành đến nay
4. Phương pháp nghiên cứu
Để làm rõ các vấn đề nghiên cứu, Khóa luận vận dụng
phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật
lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin. Đây là phương pháp luận khoa
học được vận dụng nghiên cứu trong toàn bộ luận án để đánh
giá khách quan quyền TCTT ở nước ta hiện nay. Khóa luận cũng
được nghiên cứu dựa trên đường lối, chính sách phát triển kinh
tế - xã hội của Đảng và Nhà nước ta.
- Phương pháp hệ thống: Phương pháp này được sử dụng
xun suốt tồn bộ Khóa luận nhằm trình bày các vấn đề, nội
dung của đề tài theo trình tự, bố cục hợp lý, chặt chẽ, có sự gắn
kết, kế thừa, phát triển các vấn đề để đạt được mục đích, u
cầu đã được xác định cho Khóa luận.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Phương pháp này được

sử dụng trong các chương của Khóa luận nhằm tổng hợp, phân
tích, đánh giá quyền TCTT, việc bảo đảm và thúc đẩy quyền
TCTT ở nước ta thời gian qua.
- Phương pháp luật học so sánh: nhằm so sánh quyền TCTT
trong các quy định của pháp luật Việt Nam với một số nước trên
thế giới (nếu có).
- Phương pháp thống kê: nhằm thống kê, so sánh quá trình
bảo đảm và thúc đẩy quyền TCTT từ khi Luật TCTT được ban
hành đến nay.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Khóa luận
Kết quả nghiên cứu của Khóa luận sẽ góp phần bổ sung tri
thức khoa học cơ bản mang tính lý luận, giúp người đọc có cái
7


nhìn đầy đủ và tồn diện hơn về bảo đảm và thúc đẩy quyền
TCTT ở Việt Nam hiện nay.
Góp phần nâng cao nhận thức của mỗi cá nhân, tổ chức, cơ
quan nhà nước về thực hiện quyền TCTT và bảo đảm và thúc đẩy
quyền TCTT một cách hiệu quả.
Ngoài ra Khóa luận cũng có thể làm tài liệu tham khảo đối
với sinh viên đại học và cao học luật, phục vụ cho công tác
nghiên cứu và giảng dạy pháp luật cũng như một số chuyên
ngành liên quan ở các trường đại học.
6. Kết cấu của khóa luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo,
Khóa luận gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về đảo đảm và thúc đẩy
quyền TCTT.
Chương 2: Thực trạng bảo đảm và thúc đẩy quyền TCTT ở

Việt Nam từ năm 2016 đến nay.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu
quả bảo đảm và thúc đẩy quyền TCTT ở Việt Nam thời gian tới.
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM VÀ
THÚC ĐẤY QUYỀN TIẾP CẬN THÔNG TIN
1.1. Khái quát chung về quyền tiếp cận thông tin
1.1.1. Khái niệm quyền tiếp cận thông tin
1.1.1.1. Khái niệm thông tin
Thông tin là một nhu cầu khách quan, thực tế của con
người. Thơng tin gắn bó chặt chẽ, mật thiết và có tính quyết
định đến sự phát triển của xã hội. Thông tin tạo ra các cuộc
cách mạng khoa học, kỹ thuật và các cuộc cách mạng xã hội
8


trong lịch sử. Mọi tri thức của nhân loại đều được cập nhật, lưu
trữ và phổ biến dưới dạng thông tin thơng qua các hình thức
như: văn bản giấy, tập file điện tử…Thơng tin đáp ứng mọi nhu
cầu tìm hiểu, nghiên cứu của con người, là động lực thúc đẩy sự
phát triển của xã hội và sự tiến hóa của nhân loại [15,tr8]. Có
rất nhiều cách hiểu về thơng tin.
Theo Đại từ điển tiếng Việt, thuật ngữ “thông tin” được hiểu là
“tin tức về các sự kiện diễn ra trong thế giới xung quanh”
[27,tr.1587]. Theo cách hiểu này thì mọi tin tức về các sự kiện
diễn ra trong thế giới tự nhiên và xã hội đều trở thành thông tin.
Dưới góc độ triết học, thơng tin là sự phản ánh của tự nhiên
và xã hội (thế giới vật chất) bằng ngơn từ, ký hiệu, hình ảnh…
hay nói rộng hơn, thơng tin là tất cả mọi mặt của đời sống xã
hội tác động lên giác quan của con người. Theo cách hiểu thông

thường, thông tin là tất cả các sự việc, sự kiện, ý tưởng, phán
đoán làm tăng thêm sự hiểu biết của con người, thơng tin hình
thành trong q trình nhận biết hiện tượng xung quanh, trong
quá trình giao tiếp.
Pháp luật một số quốc gia trên thế giới đều có điều khoản
riêng quy định về thông tin. Luật về quyền được thơng tin ở Ấn
Độ quy định: “Thơng tin có nghĩa là bất cứ hình thức nào bao
gồm các hồ sơ, tài liệu, bản ghi nhớ, thư điện tử, các quan
điểm, các lời tư vấn, các thơng cáo báo chí, thơng tư, sắc lệnh,
mơ hình, tư liệu lưu giữ dưới dạng điện tử và bất kỳ thông tin
nào liên quan đến bất kỳ chủ thể tư nhân nào mà có thể phải
tiếp cận bởi một nhà chức trách công cộng nào theo như quy
định trong bất kì Luật nào khác đang có hiệu lực”[23,điều 2].
Luật về cơng khai thơng tin của các cơ quan chính quyền
Hàn Quốc quy định: “Thơng tin có nghĩa là các tin tức được soạn
9


thảo, sở hữu và quản lý bởi các cơ quan chính quyền trong khi
họ thi hành nhiệm vụ của mình, có thể dưới dạng văn bản,
tranh ảnh, bản vẽ, phim, bảng biểu, trình chiếu và các hình
thức vi tính khác” [22 điều 2].
Theo Điều 2, Pháp lệnh nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
về cơng khai thơng tin của chính quyền quy định: Thơng tin của
chính quyền được nêu trong Pháp lệnh này được hiểu là bất cứ
thông tin nào được tạo ra hoặc thu được trong quá trình thực thi
chức năng nhiệm vụ chính thức của các cơ quan công quyền,
mà được ghi chép hoặc lưu giữ dưới bất kỳ hình thức nào. Với
cách hiểu như vậy thơng tin được khuyến khích mở một cách tối
đa cho sự tiếp cận. Theo đó khái niệm về thơng tin có thể được

tiếp cận trong các đạo luật về tự do thông tin, TCTT cũng được
hiểu rộng hơn các “tài liệu hành chính” hoặc “tài liệu chính
thức”. Ví dụ như tài liệu chính thức thì sẽ khơng bao gồm “tin
tức” [29].
Theo Luật TCTT năm 2016 của Việt Nam: “Thông tin là tin,
dữ liệu được chứa đựng trong văn bản, hồ sơ, tài liệu có sẵn, tồn
tại dưới dạng bản viết, bản in, bản điện tử, tranh, ảnh, bản vẽ,
băng, đĩa, bản ghi hình, ghi âm hoặc các dạng khác do cơ quan
nhà nước tạo ra. Thông tin do cơ quan nhà nước tạo ra là tin, dữ
liệu được tạo ra trong quá trình cơ quan nhà nước thực hiện chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của pháp luật, được
người có thẩm quyền của cơ quan nhà nước đó ký, đóng dấu
hoặc xác nhận bằng văn bản” [33, khoản 1,2, điều 2].
Như vậy, có thể thấy một số điểm tương đồng trong quy
định về thông tin của các nước như: (i) Thơng tin phải do cơ
quan chính quyền tạo ra hoặc thu thập được trong quá trình

10


thực thi cơng vụ; (ii) Thơng tin có thể được lưu giữ dưới bất kỳ
hình thức nào.
1.1.1.2. Khái niệm quyền tiếp cận thông tin:
Khái niệm TCTT đầu tiên xuất hiện vào năm 1766 tại Thụy
Điển trong Luật về tự do báo chí của nước này có quy định: “Các
hồ sơ của Chính phủ phải cơng khai cho cơng chúng, người dân
có quyền được yêu cầu tiếp cận các văn bản của các cơ quan
Chính phủ. Ở đạo luật này cơng dân có quyền tự do ngơn luận
trừ trường hợp: “báng bổ và chỉ trích nhà nước”, mặt khác cho
cơng dân có “quyền tiếp cận tài liệu cơng”. Đây là hai khía cạnh

cơ bản và quan trọng nhất trong khái niệm quyền TCTT. Điều
này có ý nghĩa lịch sử đối với sự phát triển của các quyền con
người nói chung, quyền TCTT nói riêng bởi lần đầu tiên quyền
TCTT được đề cập, ghi nhận và bảo vệ bởi đạo luật của một
quốc gia. Nó đã tạo ra một bước đột phá lớn trong nhận thức
của các quốc gia trên thế giới, coi việc được TCTT của người dân
không chỉ là một nhu cầu thực tế mà còn là quyền con người cơ
bản.
Nhận thức được tầm quan trọng của thông tin đối với con
người và xã hội, quyền tự do thông tin, quyền TCTT hay quyền
được thông tin ngày càng được quốc tế và các quốc gia coi là
một quyền con người cơ bản, là điều kiện tiên quyết để thực
hiện quyền công dân và quyền con người. Tuyên ngôn thế giới
về quyền con người năm 1948 đã khẳng định: “Mọi người đều
có quyền tự do ngơn luận và bày tỏ ý kiến, kể cả tự do bảo lưu
quan điểm mà không bị can thiệp, cũng như tự do tìm kiếm,
tiếp nhận và truyền bá các ý tưởng và thông tin bằng bất cứ
phượng tiện thông tin đại chúng nào mà không bị giới hạn về
biên giới" [19, điều 19]. Với tinh thần của Tuyên ngôn thế giới về
11


quyền con người, Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính
trị (ICCPR) quy định: “Mọi người có quyền tự do ngơn luận.
Quyền này bao gồm tự do tìm kiếm, tiếp nhận và truyền đạt
mọi thông tin, ý kiến, khơng phân biệt lĩnh vực, hình thức tun
truyền bằng miệng, bằng bản viết, in, hoặc dưới hình thức nghệ
thuật, thơng qua bất kỳ phương tiện thông tin đại chúng nào
tuỳ theo sự lựa chọn của họ”[20, điều 19].
Về khái niệm quyền TCTT, mặc dù Điều 19 ICCPR không đề

cập đến thuật ngữ “quyền tiếp cận thơng tin”, nhưng tại Bình
luận chung số 34 của Ủy ban nhân quyền (HRC), đã đặc biệt lưu
ý đến quyền tiếp cận các thông tin được nắm giữ bởi cơ quan
nhà nước. HRC giải thích rằng, quyền này được bao hàm trong
khoản 2 Điều 19 ICCPR, theo đó, mọi người có quyền TCTT mà
các cơ quan công quyền nắm giữ. Các thông tin ấy bao gồm các
dạng hồ sơ do một cơ quan công quyền nắm giữ, bất kể hình
thức lưu trữ, nguồn tin và ngày xác lập. Các cơ quan công
quyền là các cơ quan được nêu trong đoạn 7 của Bình luận
chung này bao gồm “Tất cả mọi nhánh quyền lực Nhà nước
(hành pháp, lập pháp và tư pháp) và tổ chức của Chính phủ, dù
ở cấp độ nào quốc gia, khu vực hay địa phương”[21]. Những cơ
quan ấy có thể cũng bao gồm các pháp nhân đang thực hiện
chức năng công. Cũng theo quy định tại Điều 25 của Công ước,
quyền TCTT bao gồm một quyền mà với quyền ấy truyền thông
được TCTT về các vấn đề công và quyền của công chúng nói
chung được tiếp nhận sản phẩm truyền thơng. Mỗi cá nhân có
quyền xác định qua một hình thức dễ hiểu để xem rằng những
dữ liệu cá nhân nào được lưu trữ dưới dạng các tập dữ liệu tự
động và vì mục đích gì. Mỗi cá nhân cũng phải có thể xác định
cơ quan công quyền hay cá nhân hay tổ chức nào kiểm soát
12


hoặc có thể kiểm sốt dữ liệu cá nhân của mình... nếu khơng
đúng hoặc dữ liệu đó khơng được thu thập hay xử lý không theo
quy định của pháp luật thì mọi cá nhân đều phải có quyền u
cầu điều chỉnh dữ liệu của mình...[21].
Như vậy, quyền TCTT chỉ có thể bị giới hạn bởi pháp luật vì
nhu cầu tơn trọng những quyền tự do, thanh danh của người

khác và an ninh quốc gia, trật tự công cộng, sức khỏe công
cộng hay đạo lý. Đây là hai văn kiện pháp lý quốc tế nền tảng,
ghi nhận các quyền cơ bản của con người về dân sự, chính trị,
trong đó quyền TCTT được coi là quyền cơ bản nhất trong nhóm
các quyền dân sự, chính trị đó.
Bình luận chung số 34 của HRC đã kêu gọi: Để quyền TCTT
có hiệu lực, quốc gia thành viên phải chủ động cung cấp cho
công chúng những thơng tin Nhà nước vì lợi ích cơng. Quốc gia
thành viên phải dùng mọi nỗ lực để đảm bảo cho người dân
được TCTT này một cách dễ dàng, nhanh chóng, hiệu quả và
thực tiễn. Quốc gia thành viên phải xây dựng một thủ tục cần
thiết để một người có thể tiếp cận được thơng tin, ví dụ như
bằng các biện pháp lập pháp để tự do thông tin. Những thủ tục
ấy phải tạo điều kiện xử lý nhanh chóng các u cầu thơng tin
theo những ngun tắc rõ ràng và phù hợp với cơng ước. Chi phí
u cầu thông tin không được trở thành rào cản phi lý trong
TCTT. Cơ quan chức năng phải đưa ra lý do cho bất kỳ việc từ
chối cung cấp TCTT nào. Phải có cơ chế khiếu nại việc từ chối
TCTT cũng như những trường hợp không thực hiện việc phản hồi
yêu cầu TCTT [40, tr324-325].
Quyền TCTT tiếp tục được ghi nhận trong nhiều văn bản
quốc tế quan trọng khác như Công ước của Liên Hợp quốc về
chống tham nhũng năm 2003, Tuyên bố Rio về Môi trường và
13


phát triển năm 1992, Công ước UNECE về tiếp cận thông tin môi
trường, v.v…
Bước sang thế kỷ 20, với việc thừa nhận rộng rãi quyền tự do
dân chủ và quyền con người, đặc biệt, xu hướng về việc nội luật

hóa quyền TCTT đã hình thành trên phạm vi tồn cầu. Một số
quốc gia như Hoa Kỳ ban hành Luật Tự do thông tin (năm 1966),
Canada (1983), Hungary (1992), Anh (2000), Nam Phi (2000),
Mêxico… Đến nay, trên thế giới đã có hơn 100 nước ban hành
Luật về TCTT.
Tại một số quốc gia, Tòa án tối cao đã ra phán quyết rằng,
quyền TCTT là quyền hiến định và là một yếu tố điển hình của
quyền tự do ngơn luận và quyền tự do báo chí. Ngồi việc quy
định quyền TCTT trong Hiến pháp, nhiều quốc gia còn ban hành
đạo luật riêng về TCTT hoặc tự do thông tin.
Một số quốc gia trên thế giới ghi nhận Luật TCTT là một văn
bản pháp luật rất quan trọng, chỉ đứng sau Hiến pháp. Một số
đạo luật về tự do thông tin hoặc nêu rõ: các quy định về quyền
TCTT, tự nó, đã là các quy định hiến định. Một số quốc gia lại
quy định Luật TCTT có địa vị pháp lý cao hơn các đạo luật khác.
Ở Canada, Tòa án đã tuyên bố rằng Luật về TCTT là quy định
“mang tính chất của Hiến pháp”; ở New Zealand, năm 1988,
Tòa phúc thẩm đã phán quyết rằng “tầm quan trọng của Luật
Thơng tin chính thức là ở chỗ các biện pháp trong Luật này có
thể được coi là các biện pháp mang tính hiến định”. Nhiều quốc
gia trên thế giới có quan điểm mở về TCTT và tự do thông tin.
Hiện nay, hầu hết các quốc gia đều ghi nhận quyền TCTT
thành một đạo luật riêng hoặc quy định trong một đạo luật
chung. Theo đó “Quyền TCTT được hiểu là quyền của các chủ
thể được TCTT đang được cơ quan nhà nước quản lý hoặc kiểm
14


soát. Quyền này bao gồm các quyền: được xem các tác phẩm,
tài liệu, hồ sơ, được ghi chép, trích dẫn, sao chụp các tài liệu, hồ

sơ đó; được thu thập thông tin dưới dạng đĩa mềm, thẻ nhớ,
băng ghi âm, băng ghi hình hoặc bất kì dạng thiết bị điện tử nào
khác v.v…”[6, tr14]. Quyền TCTT bao hàm cả quyền tìm kiếm,
tiếp nhận và phổ biến thơng tin. Quyền này là một quyền có giới
hạn, có nghĩa là khơng được tự do tiếp cận tất cả các thông tin
Nhà nước đang nắm giữ hoặc được tự do tìm kiếm tất cả các loại
hồ sơ, tài liệu lưu trữ thông tin ngay cả khi “tự do thông tin”, việc
này phải chịu một số hạn chế nhất định được quy định trong
pháp luật.
Việc ghi nhận quyền TCTT là một quyền con người là nhu
cầu thực tế, khách quan và hết sức cần thiết đối với mỗi quốc
gia nhất là trong bối cảnh tồn cầu hóa, quốc tế hóa như hiện
nay. Theo Tony Mendel, chuyên gia quốc tế về quyền TCTT thì
xu hướng ngày càng có nhiều luật về tự do thơng tin được ban
hành bởi quan điểm phổ biến trên thế giới hiện nay là các cơ
quan công quyền nắm giữ thông tin khơng phải cho chính bản
thân họ mà là vì lợi ích cơng cộng [35].
Từ những phân tích ở trên, có thể đưa ra khái niệm quyền
TCTT như sau: Quyền TCTT tin là quyền của cá nhân, công dân
tiếp cận các thông tin do các cơ quan nhà nước nắm giữ để biết
được thông tin về tổ chức cũng như hoạt động của các cơ quan
đó nhằm mục đích thực hiện hoặc bảo vệ các quyền; lợi ích hợp
pháp của mình. Đây là quyền tự do cơ bản của con người, bao
gồm: Tự do tìm kiếm, tiếp nhận, tiếp cận và phổ biến thông tin.
1.1.2. Nội dung quyền tiếp cận thông tin của công
dân

15



Hiện nay có hai quan điểm về nội dung của quyền TCTT của
công dân:
Quan điểm thứ nhất, nội hàm quyền TCTT của công dân bao
gồm ba quyền: quyền TCTT, quyền tìm kiếm thơng tin và quyền
phổ biến thơng tin [11,tr 31-37]. Theo đó, truyền bá hay phổ
biến thơng tin có nghĩa là cá nhân, cơng dân có thơng tin được
quyền truyền đạt, chia sẻ quan điểm, thơng tin mà mình đang
nắm giữ cho mọi người mà khơng có bất kỳ sự phân biệt nào về
ranh giới hay các hình thức đưa tin [37,tr112-114].
Quan điểm thứ hai, nội hàm quyền TCTT của công dân chỉ
bao gồm quyền tiếp nhận thông tin và quyền tìm kiếm thơng
tin. Việc tiếp cận chỉ nằm ở phương diện hướng chủ thể đạt đến
mục đích thu thập thơng tin mà hồn tồn khơng đề cập đến
vấn đề sử dụng thơng tin, cịn hoạt động phổ biến thơng tin
nằm trong một khái niệm rộng hơn, đó là quyền tự do thông tin
[18]. Quan điểm này phù hợp với quy định Luật TCTT năm 2016
của nước ta. Theo đó, cơng dân được TCTT bằng các cách thức
sau: “Tự do tiếp cận thông tin được cơ quan nhà nước công
khai; Yêu cầu cơ quan nhà nước cung cấp thông tin” [33,điều
10].
Trong khóa luận này, tác giả tiếp cận quyền TCTT theo quan
điểm thứ hai, bao gồm quyền TCTT và quyền tìm kiếm thơng tin
của cơng dân.
1.1.2.1. Quyền tiếp nhận thông tin của công dân
Quyền TCTT của công dân là khả năng công dân nhận được
những thông tin, tài liệu do cơ quan nhà nước tạo ra, nắm giữ
trong quá trình thực hiện chức năng quản lý Nhà nước thơng
qua các hình thức cơng khai phù hợp, sẵn có mà không cần phải
yêu cầu.
16



Quyền TCTT của cơng dân thể hiện cơng dân có quyền tiếp
nhận những thông tin đúng, đủ, kịp thời và dễ tiếp cận. Thơng
tin đúng địi hỏi các cơ quan nhà nước phải cơng khai thơng tin
chính xác, khơng được đưa tin định hướng dư luận khác với sự
thật. Thông tin đủ đòi hỏi các cơ quan nhà nước phải công khai
đầy đủ nội dung, hiệu lực của thông tin, không được công khai
một phần thông tin. Thông tin kịp thời địi hỏi các thơng tin phải
cơng khai ngay khi có thể để phù hợp với những vấn đề quản lý
Nhà nước đang diễn ra, không được chậm trễ. Thông tin dễ tiếp
nhận địi hỏi việc cơng khai thơng tin phải có nhiều cách thức
khác nhau phù hợp với từng nhóm chủ thể khác nhau như ở
nơng thơn.
Quyền tiếp nhận thơng tin địi hỏi các cơ quan nhà nước
phải có trách nhiệm công bố thông tin cũng như tạo điều kiện
thuận lợi cho việc tiếp nhận thông tin. Thiếu các cơ chế để bảo
đảm quyền tiếp nhận thông tin đồng nghĩa với việc không bảo
đảm quyền TCTT của công dân. Hậu quả của việc thiếu cơ chế
bảo đảm quyền tiếp nhận thơng tin của người dân là tình trạng
đặc quyền, đặc lợi của những người có điều kiện, vị trí cơng tác
dễ dàng TCTT, gây nên sự bất bình đẳng, bất công bằng trong
xã hội, đặc biệt là trong lĩnh vực đất đai và kinh doanh. Vì vậy,
quyền tiếp nhận thông tin cũng gắn liền với quyền yêu cầu Nhà
nước có trách nhiệm bảo đảm rằng các loại thơng tin cần thiết
liên quan đến lợi ích của cộng đồng phải ln sẵn sàng cho việc
tiếp cận.
1.1.2.2. Quyền tìm kiếm thơng tin của cơng dân
Quyền tìm kiếm thơng tin của cơng dân chính là khả năng
của cơng dân có quyền u cầu cơ quan nhà nước có thẩm

quyền cung cấp thơng tin, tiếp xúc các thông tin, tài liệu do cơ
17


quan nhà nước đang nắm giữ mà mình cần hoặc quan tâm
trong phạm vi pháp luật cho phép.
Quyền tìm kiếm thông tin được xem là một trong những
điều kiện để bảo đảm cho việc tiếp nhận thơng tin. Do vậy,
ngồi những thông tin được công khai theo thủ tục pháp luật
quy định, nhiều thông tin sẽ chỉ được cung cấp khi có u cầu
của cơng dân vì thơng tin đó có thể chỉ liên quan đến quyền và
lợi ích của một hoặc một số công dân cụ thể.
Một trong những nội dung cơ bản của quyền TCTT là quyền
được có các thơng tin đang được quản lý hoặc kiểm sốt bởi các
cơ quan nhà nước. Để có được các thơng tin này, chủ thể của
quyền được thơng tin có quyền thực hiện việc chủ động tìm
kiếm, thu thập thơng tin theo đúng trình tự, thủ tục những
thơng tin cần thiết mà người đó quan tâm.
Quyền tìm kiếm thơng tin của người dân địi hỏi một nghĩa
vụ tương ứng từ phía các cơ quan nhà nước nắm giữ các thơng
tin. Đó là nghĩa vụ cung cấp thông tin. Như vậy, để bảo đảm
quyền tìm kiếm thơng tin cần có cơ chế quy định về trình tự, thủ
tục tạo điều kiện cho cơng dân có thể thực hiện được quyền này
một cách hiệu quả.
1.1.3. Ý nghĩa của quyền tiếp cận thông tin
TCTT là một quyền cơ bản của cơng dân, thuộc nhóm quyền
dân sự, chính trị, do đó tầm quan trọng của quyền này là rất lớn
trong việc đảm bảo thực hiện quyền con người, quyền công dân.
Tầm quan trọng của quyền TCTT đối với người dân trong một
quốc gia được thể hiện trên nhiều lĩnh vực khác nhau, phản ánh

và đánh giá sự công khai, minh bạch và dân chủ của một Nhà
nước, quyền này có ý nghĩa sau:

18


×