DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
SLĐ
TBCN
XHCN
Nội dung được viết tắt
Sức lao động
Tư bản Chủ nghĩa
Xã hội Chủ nghĩa
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Trong toàn bộ lý luận về kinh tế của C. Mác, xuất phát điểm
đầu tiên đó là từ học thuyết giá trị. Trên nền tảng học thuyết này, C.
Mác đã xây dựng nên học thuyết về giá trị thặng dư với một vị trí
“hịn đá tảng” trong lý luận. Ở đây ơng đã nhìn nhận ra rằng, trong
chế độ TBCN, để có được giá trị thặng dư, nhà tư bản phải tìm một
loại hàng hố mà giá trị sử dụng của nó có thuộc tính là nguồn gốc
sinh ra giá trị. Sức lao động của con người chính là hàng hố mà
nhà tư bản đã tìm ra. Nguồn lực con người luôn là vấn đề quan
trọng quyết định sức mạnh của một đất nước, đặc biệt trong bối
cảnh toàn cầu hoá như hiện nay. Nguồn tài nguyên thiên nhiên ngày
càng cạn kiệt, đất nước muốn giàu mạnh thì phải dựa vào bản thân
sức lao động, sáng tạo của con người. Lý luận về hàng hoá sức lao
động, Chủ nghĩa Mác-Lênin đã có những luận điểm khoa học, tồn
diện và biện chứng. Trên cơ sở đó, nghiên cứu về hàng hố sức lao
động là một việc làm có ý nghĩa trong việc tìm và đưa ra giải pháp
tăng thu nhập, nâng cao đời sống của người công nhân lao động
hiện nay.
Xuất phát từ vấn đề trên, em xin chọn đề tài: “Lý luận về hàng hoá
sức lao động của Mác – Giải pháp làm tăng thu nhập, nâng cao đời
sống của người công nhân lao động ở nước ta hiện nay.” Để làm rõ
hơn vai trò của lý luận đối với vấn đề này.
PHẦN NỘI DUNG
I. Lý luận về hàng hoá sức lao động của Chủ nghĩa Mác-Lênin
1. Khái niệm sức lao động
Sức lao động, theo C. Mác: “Sức lao động hay năng lực lao động
là toàn bộ những năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong cơ thể,
trong một con người đang sống, và được người đó đem ra vận dụng
mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó”.
Sức lao động khác với lao động ở chỗ: Sức lao động là khả năng
lao động của con người, còn lao động là sử dụng sức lao động trong
quá trình sản xuất.
Sức lao động là cái có trước cịn lao động là q trình vận dụng
sức lao động.
2. Điều kiện để sức lao động trở thành hàng hoá
Trong bất cứ xã hội nào, sức lao động cũng là điều kiện cơ bản
của sản xuất. Nhưng không phải trong bất kì điều kiện nào, sức lao
3
-
-
-
-
động cũng là hàng hố. Sức lao động chỉ có thể trở thành hàng hoá
trong những điều kiện lịch sử nhất định sau:
Thứ nhất, người lao động là người tự do về thân thể của mình,
có khả năng chi phối sức lao động ấy và có quyền bán sức lao động
của mình như một hàng hố.
Thứ hai, người lao động bị tước đoạt hết mọi tư liệu sản xuất,
họ trở thành người “vô sản” và để tồn tại buộc anh ta phải bán sức
lao động của mình để sống.
Trong quá trình ra đời, CNTB đã đồng thời tạo ra đầy đủ hai điều
kiện để sức lao động trở thành hàng hố đó là:
+ Một mặt, Nhà nước tư sản đã ban hành các đạo luật giải
phóng nơ lệ, nơng nơ khỏi sự lệ thuộc về thân thể đối với chủ nơ,
chúa phong kiến.
+ Mặt khác, q trình tích luỹ ngun thuỷ tư bản bằng biện
pháp tước đoạt tư liệu sản xuất, ruộng đất của người lao động sản
xuất nhỏ, biến họ thành những người tay trắng. Cùng với quá trình
này, trong nền sản xuất hàng hoá giản đơn, quy luật giá trị tác động
đã làm phân hoá giàu, nghèo giữa những người sản xuất hàng hoá,
biến những người làm ăn thua lỗ, mất hết tư liệu sản xuất, buộc
phải bán sức lao động, trở thành người làn thuê. Những người giàu
thì mua sắm thêm tư liệu sản xuất và sức lao động để mở rộng quy
mô sản xuất và trở thành nhà tư bản.
Sự chuyển hoá tiền tệ thành tư bản gắn liền với sự ra đời của hàng
hoá sức lao động, đánh dấu một giai đoạn phát triển mới của sản
xuất hàng hoá. Giai đoạn sản xuất hàng hoá TBCN với đặc trưng sức
lao động trở thành hàng hoá.
3. Hai thuộc tính của hàng hố sức lao động
Giống như hàng hố khác, hàng sức lao động có 2 thuộc tính:
Giá trị và giá trị sử dụng.
Giá trị của hàng hoá sức lao động do thời gian lao động xã hội
cần thiết để sản xuất và tái sản xuất sức lao động quyết định. Giá
trị sức lao động quy về giá trị của toàn bộ tư liệu sinh hoạt cần thiết
để sản xuất và sản xuất ra sức lao động, để duy trì đời sống của
cơng nhân và gia đình họ.
Giá trị của hàng hố sức lao động có điểm giống và khác so với
giá trị của hàng hố thơng thường:
Điểm giống nhau: Giá trị của hàng hoá sức lao động và giá trị của
hàng hố thơng thường đều được đo bằng thời gian lao động xã hội
cần thiết.
Điểm khác nhau: Khác với hàng hố thơng thường ở chỗ nó bao
hàm cả yếu tố tinh thần và yếu tố lịch sử của từng nước, từng thời
4
-
-
kì, phụ thuộc vào trình độ văn minh, điều kiện lịch sử hình thành
giai cấp cơng nhân và điều kiện địa lí, khí hậu.
Giá trị sử dụng của hàng hố sức lao động thể hiện ở quá trình
tiêu dùng sức lao động, tức là quá trình lao động để sản xuất ra một
hàng hố, một dịch vụ nào đó.
Trong q trình lao động, sức lao động tạo ra một lượng giá trị
mới lớn hơn lượng giá trị của bản thân nó, phần giá trị dư ra so với
giá trị sức lao động là giá trị thặng dư. Đó chính là đặc điểm riêng
có của giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động.
4. Ý nghĩa của việc nghiên cứu lý luận hàng hoá sức lao động
Lý luận hàng hoá SLĐ đã giải quyết được mâu thuẫn của công thức
chung của tư bản. Đó là, nhờ có lưu thơng, nhà tư bản mua được
hàng hoá SLĐ trên thị trường. Sau đó sử dụng SLĐ vào q trình sản
xuất để nó tạo ra giá trị thặng dư cho nhà tư bản. Từ đó ta hiểu
được cơ sở ra đời và bản chất của nền sản xuất TBCN.
Lý luận hàng hoá SLĐ cịn là cơ sở khoa học cho việc hoạch định
chính sách tiền lương, tiền cơng trong q trình phát triển kinh tế
thị trường định hướng XHCN ở nước ta.
II. Giải pháp làm tăng thu nhập, nâng cao đời sống của
người công nhân lao động ở nước ta hiện nay
1. Hiện trạng thu nhập, chất lượng đời sống của người công nhân lao
động ở nước ta hiện nay
Xã hội ngày càng phát triển thì lao động trở thành một nhu cầu
thiết yếu để tồn tại, thông qua lao động người lao động được trả
lương, đây là nguồn thu nhập để họ tái sản xuất và tái sản xuất sức
lao động. Có thể nói, tiền lương chính là nguồn thu nhập chính để
đảm bảo đời sống cho người lao động.
Theo kết quả khảo sát của Viện Cơng nhân và Cơng đồn về
tiền lương cơ bản của người lao động trong các doanh nghiệp năm
2017 cho thấy, tiền lương cơ bản trung bình (làm việc đủ giờ theo
quy định) của người lao động là 4.480.000 đồng/tháng; thu nhập
trung bình (khơng kể ăn ca) là 5.453.000 đồng/tháng. Tiền lương
hàng tháng của người lao động làm việc tại các khu công nghiệp
thường chiếm khoảng từ 70-74% trong tổng thu nhập (tùy từng
nhóm lao động), số cịn lại 26-30% là các khoản thu nhập khác
ngồi tiền lương như: tiền hỗ trợ nhà ở, tiền ăn ca, tiền đi lại, tiền
chuyên cần, tiền thưởng tháng, tiền hỗ trợ nuôi con dưới 36 tháng
tuổi... Kết quả khảo sát cũng cho thấy mức thu nhập của công nhân
lao động cũng có sự chênh lệch giữa các vùng kinh tế, giữa các
5
doanh nghiệp, các loại hình doanh nghiệp, thậm chí trong một
doanh nghiệp.
Theo kết quả khảo sát về tình hình lao động, tiền lương, thu
nhập, chi tiêu, đời sống người lao động trong các doanh nghiệp năm
2018 của Viện Công nhân và Cơng đồn cho thấy, thu nhập của
người lao động hiện đạt bình quân trên 5,5 triệu đồng/tháng. Kết
quả cho thấy, với trên 3.000 người lao động tại 150 doanh nghiệp
đủ các loại hình ở 25 tỉnh, thành phố thì tiền lương cơ bản hàng
tháng của người lao động (làm đủ giờ cơng, ngày cơng) nhận được
trung bình là 4,67 triệu đồng. Ngồi tiền lương cơ bản, người lao
động cịn nhận được tiền làm thêm giờ, tiền chuyên cần và các
khoản phụ cấp, trợ cấp, hỗ trợ khác từ doanh nghiệp với nhiều tên
gọi khác nhau để tăng thu nhập, giữ chân người lao động, nhưng
các khoản này thường không tính vào mức đóng bảo hiểm (trừ phụ
cấp trách nhiệm, chức vụ). Như vậy, tổng thu nhập trung bình của
người lao động (khơng kể tiền ăn ca) do đó đạt gần 5,53 triệu
đồng/tháng, trong đó tiền lương cơ bản chiếm 84,4%.
Thực tế ở Việt Nam hiện nay, những người công nhân lao động
chưa được trả lương một cách thoả đáng. Một số nơi cịn cắt xén
tiền lương của cơng nhân qua các hình thức phạt vơ lý. Tuy nhiên
việc làm này sẽ gây ảnh hưởng xấu trong chiến lược phát triển các
doanh nghiệp về lâu dài. Những công ty, doanh nghiệp nhận thức
được tầm quan trọng của thu nhập đối với người lao động, chú
trọng, quan tâm đến lợi ích của người lao động sẽ có được sự phát
triển ổn định và lâu bền.
2. Các yếu tố quyết định và ảnh hưởng đến thu nhập của người lao
động
Để có biện pháp nâng cao mức thu nhập cho người lao động,
trước hết cần xét đến các yếu tố quyết định và ảnh hưởng đến mức
thu nhập của người lao động.
-
Các yếu tố quyết định và ảnh hưởng đến thu nhập của người lao
động bao gồm:
Thứ nhất, nhóm nhân tố thuộc thị trường lao động: Cung - cầu lao
động ảnh hưởng trực tiếp đến tiền lương - thu nhập của người lao
động: Khi cung về lao động lớn hơn cầu về lao động thì tiền lương
có xu hướng giảm, khi cung về lao động nhỏ hơn cầu về lao động thì
tiền lương có xu hướng tăng, cịn khi cung về lao động bằng với cầu
lao động thì thị trường lao động đạt tới sự cân bằng.
6
-
-
-
Thứ hai, nhóm nhân tố thuộc mơi trường doanh nghiệp: Các chính
sách của doanh nghiệp: các chính sách lương, phụ cấp, giá thành…
được áp dụng triệt để phù hợp sẽ thúc đẩy lao động nâng cao năng
suất, chất lượng, hiệu quả, trực tiếp tăng thu nhập cho bản thân.
Khả năng tài chính của doanh nghiệp ảnh hưởng mạnh tới tiền
lương.
Cơ cấu tổ chức hợp lý hay bất hợp lý cũng ảnh hưởng ít nhiều
đến tiền lương.
Thứ ba, nhóm nhân tố thuộc bản thân người lao động: Trình độ lao
động: Với lao động có trình độ cao thì sẽ có được thu nhập cao hơn
so với lao động có trình độ thấp hơn bởi để đạt được trình độ đó
người lao động phải bỏ ra một khoản chi phí tương đối cho việc đào
tạo đó.
Thâm niên cơng tác và kinh nghiệm làm việc thường đi đơi với
nhau.
Mức độ hồn thành cơng việc nhanh hay chậm, đảm bảo chất
lượng hay không đều ảnh hưởng đến tiền lương, thu nhập của người
lao động.
Thứ tư, nhóm nhân tố thuộc giá trị cơng việc: Mức hấp dẫn của công
việc, Mức độ phức tạp của công việc, Điều kiện thực hiện cơng việc.
3. Chính sách tiền công, tiền lương tối thiểu đối với người lao động ở
Việt Nam hiện nay
Trên thị trường lao động giá cả hàng hóa sức lao động được thể
hiện dưới dạng tiền lương/tiền công. Theo nguyên tắc của C.Mác,
tiền lương tối thiểu phải đảm bảo tái sản xuất sức lao động, đảm
bảo duy trì và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người lao
động cùng gia đình họ. Tiền lương cũng được quyết định bởi những
quy luật giá cả của tất cả các hàng hoá khác; bởi quan hệ cung –
cầu. Sự phân phối tiền lương công bằng, hợp lý hay không sẽ quyết
định đến sự tận tâm, tận lực của người lao động đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội. Vì vậy, tiền lương và thu nhập phải thể hiện được sự
công bằng trong phân phối theo kết quả lao động và hiệu suất công
tác của mỗi người.
Ở nước ta, cải cách trong chính sách tiền lương năm 1993 đã
đem lại những thay đổi bước đầu trong hệ thống trả công lao động,
tạo nên sự hài hòa giữa người lao động với người sử dụng lao động.
Chính sách cải cách tiền lương quy định về mức lương tối thiểu;
quan hệ tiền lương giữa các khu vực; các chế độ phụ cấp tiền lương,
thu nhập, trong đó xác định mức tiền công, tiền lương tối thiểu là
căn cứ nền tảng để xác định giá cả sức lao động. Hệ thống thang
7
bảng lương cũng đã dần dần được điều chỉnh. Đối với các doanh
nghiệp nhà nước, Nhà nước đã ban hành hệ thống thang bảng
lương, bảng lương (Nghị định 26/CP ngày 13/5/1993) để các doanh
nghiệp nhà nước áp dụng thống nhất, và trở thành thang giá trị
chung cho việc tính lương như một yếu tố đầu vào.
Đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi, cơ quan, tổ
chức nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động tại Việt Nam và các
doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp, nhà nước đã thể
chế hóa chính sách tiền lương bằng cách ban hành mức lương tối
thiểu, còn các nội dung khác của chính sách tiền lương chỉ mang
tính hướng dẫn để các doanh nghiệp, cơ quan hay tổ chức đó quyết
định trên cơ sở quan hệ cung cầu lao động trên thị trường và điều
kiện của từng bên tham gia thị trường.
Mức lương tối thiểu luôn được điều chỉnh theo sự biến động của
giá trên thị trường.
Như vậy, cho thấy giá cả của sức lao động trên thị trường Việt
Nam hiện nay vẫn cịn chưa thỏa đáng. Mức lương trung bình của
người lao động còn thấp so với mức thu nhập trung bình của lao
động xã hội, chưa đảm bảo đầy đủ điều kiện để người lao động phát
huy hết khả năng của mình.
Với tư cách là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động,
tiền lương mà người lao động nhận được phải bảo đảm được các yêu
cầu sau:
Một là, một bộ phận của tiền lương phải bảo đảm mua được
lượng hàng hóa và dịch vụ cần thiết đáp ứng nhu cầu vật chất, tinh
thần để người lao động sống và hoạt động bình thường trong mơi
trường sống và lao động của họ.
Hai là, một bộ phận của tiền lương phải bảo đảm trang trải các
chi phí đào tạo để họ có được trình độ lành nghề thích hợp. Bởi vì
người lao động tham gia vào quá trình sản xuất khơng chỉ dựa vào
thể lực mà cịn sử dụng cả trí tuệ nữa. Khơng những thế, sản xuất
ngày càng phát triển, lao động ngày càng phức tạp nên chi phí đào
tạo ngày càng tăng. Những người lao động làm việc trong các lĩnh
vực khác nhau, với trình độ lao động khác nhau (lao động giản đơn
hoặc lao động phức tạp) có phí tổn đào tạo khác nhau nên mức độ
thỏa mãn nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần để duy trì sự sống
và hoạt động bình thường cũng khác nhau. Vì vậy, mức lương của
những người lao động giản đơn và lao động phức tạp có sự chênh
lệch.
8
Ba là, một bộ phận của tiền lương phải bảo đảm ni con cái
người lao động. Bởi vì, tái sản xuất sức lao động khơng chỉ về chất
lượng mà cịn về số lượng. Con cái người lao động chính là lực lượng
thay thế và bổ sung cho thị trường sức lao động. Quy mơ một gia
đình Việt Nam hiện nay trung bình có hai con, nên mỗi người lao
động phải bảo đảm ni được ít nhất một con.
Giá trị hàng hóa sức lao động cịn bao hàm cả yếu tố lịch sử và
tinh thần. Điều đó có nghĩa là những nhu cầu, cũng như quy mô của
những nhu cầu của người lao động tùy thuộc vào điều kiện tự nhiên,
tập quán, trình độ văn minh đã đạt được. Điều này cho thấy, một
mặt, giá trị sức lao động của những người sống ở các vùng khác
nhau có sự khác nhau, nên tiền lương của họ có sự chênh lệch. Mặt
khác, sản xuất ngày càng phát triển, khoa học kỹ thuật ngày càng
tiến bộ, trình độ văn minh ngày càng cao, nên nhu cầu của con
người cũng ngày càng tăng về số lượng, chất lượng và chủng loại. Vì
vậy, giá trị sức lao động cũng như tiền lương không phải là cố định
mà xu hướng vận động của chúng ngày càng tăng lên.
4. Nguyên nhân của hiện trạng thu nhập, chất lượng đời sống của
người công nhân lao động ở nước ta hiện nay
Qua số liệu khảo sát của Viện Công nhân và Cơng đồn có thể
thấy mức thu nhập trung bình của người lao động trong các doanh
nghiệp đã có sự cải thiện, tuy nhiên, mức thu nhập trung bình của
người lao động tại các doanh nghiệp vẫn còn thấp, đa số người lao
động vẫn cịn gặp nhiều khó khăn, phải chi tiêu tằn tiện, kham khổ.
Ngoài tiền lương là mức thu nhập chính thì người lao động vẫn phải
nai lưng ra để làm thêm giờ. Hầu hết người lao động phải làm việc
vất vả, cường độ cao, thời gian làm việc kéo dài.Với mức thu nhập
từ tiền lương, tiền làm thêm giờ, người lao động cịn có một số
khoản thu khác như tiền chuyên cần, các khoản phụ cấp, trợ cấp, hỗ
trợ khác từ doanh nghiệp. Tuy nhiên, thu nhập của người lao động
hiện nay vẫn đang ở mức thấp so với mức sống, mức chi tiêu cho
cuộc sống hàng ngày. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến nguồn thu
nhập của người lao động vẫn đang ở mức thấp như:
Thứ nhất: Trình độ tay nghề của người lao động hiện nay vẫn
cịn thấp. Tay nghề yếu có hệ quả là không ổn định về công việc, nơi
làm việc, dễ bị thiệt thịi về quyền lợi và đặc biệt sẽ khơng có cơ hội
vươn lên thốt khỏi khó khăn, mức sống thấp,...
Thứ hai: Nhận thức của doanh nghiệp về vấn đề tuyển dụng,
đào tạo nghề còn thấp.
9
Thứ ba: Diễn ra thực trạng việc các doanh nghiệp tổ chức làm
thêm giờ, tăng ca cho người lao động, đưa ra định mức lao động
cao,... tuy nhiên các doanh nghiệp lại không trả lương đúng với sức
lao động của người lao động bỏ ra.
Thứ tư: các vấn đề về thể trạng, sức khỏe, độ bền, tính ổn định
về cơng việc của người lao động chưa cao, việc tuân thủ quy trình
lao động khơng tốt, kỹ năng giải quyết vấn đề kém cũng là một
trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến năng suất lao động thấp,
kéo theo nguồn thu nhập của người lao động cũng thấp.
Thứ năm: Hệ thống các chính sách - chế độ tiền lương và thu
nhập của người lao động trong các doanh nghiệp hiện nay vẫn còn
một số hạn chế, dẫn đến mức thu nhập của người lao động chưa
đảm bảo như: Đối với chính sách - chế độ tiền lương
5. Giải pháp làm tăng thu nhập, nâng cao đời sống của người công
nhân lao động ở nước ta hiện nay
Để đảm bảo cuộc sống cho người lao động, đáp ứng nhu cầu
sinh hoạt, nâng cao đời sống của người công nhân lao động, tạo
điều kiện để người lao động phát huy hết khả năng của mình, một
số giải pháp được đưa ra như sau:
Cần vận dụng sáng tạo có hiệu quả lý luận hàng hoá sức lao
động của C. Mác vào thực tiễn Việt Nam.
Bản thân người lao động phải sử dụng triệt để và có hiệu quả
quỹ thời gian làm việc sẽ góp phần tăng thu nhập thông qua tăng
hiệu quả công việc của người lao động. Ví dụ: Một cơng nhân đứng
máy trong một ngày làm việc (8 giờ) sẽ được 4 sản phẩm. Trong thời
gian làm việc, anh ta tự thấy mình chưa sử dụng triệt để quỹ thời
gian, cịn tiêu tốn thời gian vào việc trị chuyện, hút thuốc,... vì vậy,
anh ta quyết định thử sức lao động thật sự của mình. Kết quả, số
sản phẩm anh ta làm được trong 8 giờ làm việc tăng lên 5 sản
phẩm. Vậy khi người công nhân lao động chú trọng hơn đến thời
gian làm việc, có ý thức sử dụng nó một cách có hiệu quả nhất,
năng suất lao động sẽ được tăng lên góp phần tăng thu nhập cho
bản thân họ. Mỗi cá nhân người lao động phải có ý thức tự học hỏi,
đúc rút kinh nghiệm, nâng cao trình độ thực hiện mức lao động,
phát huy sáng kiến kĩ thuật trong sản xuất; Ví dụ: Học hỏi kinh
nghiệm đem lại hiệu quả cao trong sản xuất như kinh nghiệm giảm
thời gian lãng phí, tiết kiệm nguyên vật liệu, giảm lượng phế
phẩm...Tăng năng suất lao động cá nhân, trước hết, người lao động
phải có kĩ năng, trạng thái sức khoẻ nhất định nhằm đáp ứng được
các yêu cầu của quá trình sản xuất; Bản thân người lao động cần có
10
-
-
-
-
cường độ lao động cao, có thái độ lao động đúng đắn, có tinh thần
trách nhiệm với cơng việc, nhiệm vụ được giao, đặc biệt người công
nhân lao động cần phải tôn trọng kỉ luật lao động, nội quy, quy chế
của doanh nghiệp đề ra.
Phía cơng ty, doanh nghiệp: Đảm bảo cho người lao động có
việc làm thường xuyên và ổn định. Khi tạo việc làm thường xuyên
và ổn định cho người lao động, các công ty, doanh nghiệp không
những tạo điều kiện để người công nhân lao động tăng thu nhập,
nâng cao đời sống mà cịn góp phần làm giảm các tệ nạn xã hội,
làm cho xã hội ngày càng văn minh hơn. Nâng cao năng suất lao
động sẽ giúp làm giảm giá thành sản phẩm, tiết kiệm chi phí tiền
lương trong một đơn vị sản phẩm. Tăng năng suất lao động còn cho
phép giảm số người làm việc, tiết kiệm quỹ tiền lương đồng thời
tăng mức thu nhập cho từng cơng nhân do hồn thành vượt mức
sản lượng.
Cải tiến, đổi mới kĩ thuật và dây chuyền công nghệ chính là cách tốt
nhất tạo điều kiện cho người cơng nhân lao động tăng năng suất lao
động cá nhân, nâng cao thu nhập của bản thân.
Tạo động lực và gia tăng động lực làm việc cho người lao động
Tổ chức phục vụ nơi làm việc tốt nhất sẽ tạo ra những điều kiện vật
chất kĩ thuật cần thiết để tiến hành các nhiệm vụ sản xuất với năng
suất cao đồng thời đảm bảo cho quá trình sản xuất được liên tục và
nhịp nhàng, tạo hứng thú tích cực với người lao động, giúp họ cảm
thấy yêu thích, hăng hái với công việc, cho phép họ áp dụng các
phương pháp và các thao tác lao động tiên tiến, góp phần nâng cao
năng suất lao động.
Thực hiện tốt phân công và hiệp tác lao động
Mở rộng giáo dục đào tạo, nâng cao tay nghề cho người lao động:
Ở Việt Nam, năng suất lao động chưa cao là do trình độ ứng dụng
khoa học kĩ thuật vào sản xuất còn thấp; người lao động chưa được
đào tạo kĩ về chuyên môn, tay nghề; tỉ lệ lao động giỏi cịn ít... Giáo
dục, đào tạo, nâng cao tay nghề cho người lao động không những là
yếu tố không thể thiếu được trong tăng năng suất lao động mà còn
nằm trong chiến lược về con người trong mỗi công ty, doanh nghiệp.
Đào tạo, nâng cao tay nghề cho người lao động là cách tốt nhất
đảm bảo cho họ một cuộc sống ổn định sau này.
Nâng cao trình độ của lao động quản lý
Các cơng ty, doanh nghiệp cần phải chú trọng đến điều chỉnh các
hệ số, phụ cấp trong tính lương cho người lao động sao cho hợp lý
và có lợi cho người lao động nhất
11
Ngồi ra, Nhà nước cũng cần có những điều chỉnh hợp lý về mức
tiền lương, phụ cấp cho người công nhân lao động; quy định mức
lương tối thiểu với từng vùng, từng ngành; Tăng lương tối thiểu cho
người lao động; Cần thêm những động thái tích cực nhằm kích cầu
tiêu dùng; Tăng khoảng cách giữa các bậc liền kề trong bảng lương;
Hồn thiện chính sách tiền lương, tiền cơng theo hướng thị trường;
Cần có chế độ, chính sách về tiền lương và phụ cấp đối với cán bộ,
công chức cơ sở cho phù hợp sự phát triển kinh tế thị trường; Cần
quy định các nguyên tắc xây dựng thang lương, bảng lương để
người lao động và người sử dụng lao động có cơ sở xác định tiền
lương, đồng thời tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra để đảm
bảo quyền lợi của người lao động; Tăng cường sự quản lý và giám
sát của Nhà nước đối với thị trường sức lao động; Tạo cung lao động
đáp ứng thị trường về số lượng, chất lượng và cơ cấu ngành nghề,
đặc biệt là tỷ lệ lao động đã qua đào tạo.
Nâng cao thu nhập cho người lao động là việc làm cần thiết.
Thu nhập của người lao động chính là cơng cụ mà người lao động có
thể sử dụng để kích thích, khai thác tối đa khả năng làm việc của
người lao động. Việc nâng cao thu nhập cho người lao động ngồi lợi
ích thiết thực mà người lao động nhận được, còn đem lại nhiều hiệu
quả cho các doanh nghiệp. Thu nhập cao sẽ là động lực tốt thức đẩy
người lao động học hỏi, tìm tịi, phát huy óc sáng tạo, nâng cao trình
độ tay nghề của bản thân. Việc nâng cao thu nhập cho người công
nhân lao động sẽ làm họ có trách nhiệm hơn, hăng hái hơn trong
sản xuất. Nhờ đó năng suất lao động, hiệu quả sản xuất được tăng
lên đồng thời đời sống của người công nhân lao động cũng được
nâng cao.
KẾT LUẬN
Qua bài tiểu luận trên, ta có thể thấy được tầm quan trọng của
việc nghiên cứu lý luận hàng hoá sức lao động đối với thực tiễn về
thu nhập của người công nhân lao động ở nước ta hiện nay. Việc
nghiên cứu lý luận về hàng hố sức lao động của C. Mác từ đó vận
dụng đưa ra giải pháp tăng thu nhập, nâng cao chất lượng cuộc
sống cho người công nhân lao động hiện nay nhằm phát triển nguồn
nhân lực, nâng cao dân trí, chất lượng cuộc sống được cải thiện,
hướng tới thực hiện chiến lược cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất
nước, đóng góp tích cực nhằm phát triển nền kinh tế tri thức, ngày
12
càng nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân, đặc biệt là
người công nhân lao động.
13