TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT DÂN SỰ
MƠN HỌC: LUẬT LAO ĐỘNG
BÀI THẢO LUẬN CHƯƠNG 1
(KHÁI QUÁT VỀ LUẬT LAO ĐỘNG)
MỤC LỤC
Tình huống 1..................................................................................................................... 1
a. Quan hệ lao động giữa ông Nguyễn Ngọc và Công ty BT có thuộc đối tượng điều
chỉnh của luật lao động hay khơng? Vì sao?......................................................................2
b. Nếu là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn (hoặc bị đơn) bạn sẽ
đưa ra những luận cứ gì để chứng minh cho quan điểm của mình?............................................2
Tình huống 2:...................................................................................................................4
Bạn có ý kiến gì về việc điều chỉnh của pháp luật lao động đối với quan hệ giữa tài xế
với Grab?....................................................................................................................................................... 4
Tình huống 3..................................................................................................................... 6
a. Có tồn tại mối quan hệ lao động do Luật Lao động điều chỉnh giữa ông Lee C và
Công ty D. khơng? Vì sao?...................................................................................................................... 6
b. Theo quy định của pháp luật lao động hiện hành, hãy giải quyết vụ việc này................7
BÀI TẬP TÌNH HUỐNG
Tình huống 11
Thơng qua đợt phỏng vấn tuyển dụng do Công ty Cổ phần sản xuất kinh doanh xuất
nhập khẩu Bình Thạnh (sau đây gọi là Cơng ty BT) tổ chức, ngày 23/01/2013 ông
Nguyễn Ngọc đã nhận được thư mời thử việc của Công ty Thạnh Mỹ (là Cơng ty có tư
cách pháp nhân, thuộc sở hữu của Công ty BT). Theo nội dung thư mời, ông thử việc với
vị trí Giám đốc sản xuất, thời gian thử việc 02 tháng kể từ ngày 19/02/2013, nơi làm việc
là Công ty Thạnh Mỹ, mức lương thử việc là 14.950.000 đ/tháng. Thư mời thử việc này
được gửi qua hộp thư điện tử, khơng có đóng dấu, ký tên.
Từ ngày 19/02/2013 ông Ngọc bắt đầu làm việc tại Công ty Thạnh Mỹ theo đúng nội
dung thư mời thử việc, mức lương thực nhận là 20.000.000 đ/tháng, không ký hợp đồng.
Bản án số 1000/2017/LĐ-ST ngày 29/5/2017 của TAND Quận Bình Thạnh, Tp. Hồ Chí.
Hết thời gian thử việc, ơng tiếp tục làm việc tại Công ty Thạnh Mỹ nhưng không nhận
được thông báo kết quả thử việc cho ông và không ký hợp đồng lao động với ông theo
quy định của pháp luật. Ngày 10/5/2013 ông được Giám đốc Công ty Thạnh Mỹ thông
báo là cho ông thôi việc và không đưa ra bất cứ lý do nào. Ông đã được nhận lương đến
ngày 25/05/2013. Việc trả lương cho ông được thực hiện tại Cơng ty Thạnh Mỹ.
Ơng Nguyễn Ngọc cho rằng Công ty BT là là người đã tuyển dụng và sử dụng lao
động chứ không phải là Công ty Thạnh Mỹ. Hết thời gian thử việc ông vẫn tiếp tục làm
việc, hưởng lương nên trở thành lao động chính thức. Sau đó Cơng ty BT khơng tiếp tục
ký HĐLĐ và đơn phương chấm dứt HĐLĐ là trái pháp luật nên phải bồi thường cho ông
tiền lương của những ngày khơng được làm việc (tính từ ngày 26/5/2013 cho đến khi Toà
xét xử vụ án) theo mức lương 20.000.000 đ/tháng, trả tiền BHXH do Cơng ty khơng đóng
BHXH, mức lương tính BHXH là 20.000.000 đ/tháng, thời gian tính từ 26/05/2013 cho
đến ngày tồ xét xử vụ án.
Tuy nhiên, theo Cơng ty BT, Công ty này chỉ hỗ trợ Công ty Thạnh Mỹ tổ chức tuyển
dụng, sau đó, Cơng ty Thạnh Mỹ là đơn vị tuyển dụng, sử dụng, trả lương, và cho thơi
việc. Do đó, Cơng ty này khơng đồng ý với yêu cầu của ông Nguyễn Ngọc. Theo Công ty
Thạnh Mỹ, đơn vị này đã tuyển dụng ông Nguyễn Ngọc vào làm việc từ ngày 19/02/2013
đến ngày 10/5/2013, các bên thoả thuận miệng thời gian làm việc dưới 03 tháng nên
khơng ký HĐLĐ, khơng đóng BHXH. Và mặc dù ông Nguyễn Ngọc chỉ làm việc đến
ngày 10/5/2013 nhưng Công ty vẫn trả lương cho ông trọn tháng. Công ty cho ơng thơi
việc là vì đã hết thời hạn lao động các bên đã thoả thuận và Công ty không có nhu cầu sử
dụng lao động với ơng.
Tại phiên tồ, ông Nguyễn Ngọc và người bảo vệ quyền lợi ích của ơng vẫn giữ
ngun ý kiến như trình bày. Viện kiểm sát nhân dân Quận Bình Thạnh cho rằng căn cứ
1 Bản án số 1000/2017/LĐ-ST ngày 29/5/2017 của TAND Quận Bình Thạnh, Tp. Hồ Chí Minh.
1
vào các hồ sơ chứng cứ có trong vụ án, nguyên đơn (ông Ngọc) và bị đơn (Công ty BT)
không có quan hệ lao động, bị đơn khơng phải là NSDLĐ nên yêu cầu của nguyên đơn
buộc bị đơn phải bồi thường do đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật là khơng có
cơ sở và đề nghị HĐXX khơng chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.
Căn cứ vào pháp luật lao động hiện hành, hãy cho biết:
a) Quan hệ lao động giữa ông Nguyễn Ngọc và Công ty BT có thuộc đối tượng điều
chỉnh của luật lao động hay khơng? Vì sao?
b) Nếu là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn (hoặc bị đơn) bạn sẽ
đưa ra những luận cứ gì để chứng minh cho quan điểm của mình?
Trả lời
a. Quan hệ lao động giữa ơng Nguyễn Ngọc và Cơng ty BT có thuộc đối tượng điều
chỉnh của luật lao động hay khơng? Vì sao?
Quan hệ lao động giữa ông Nguyễn Ngọc và Công ty BT không thuộc đối tượng điều
chỉnh của luật lao động. Vì giữa các bên khơng xác lập hợp đồng lao động cũng như
Công ty BT không trả lương và giám sát, điều hành, quản lý ông Ngọc trong thời gian thử
việc, ngồi ra Cơng ty BT chỉ là cơng ty trung gian hỗ trợ Công ty Thạnh Mỹ tuyển dụng.
Cơng ty Thạnh Mỹ là cơng ty có tư cách pháp nhân, thuộc sở hữu của Công ty BT, tham
gia quan hệ pháp luật một cách độc lập nên việc tuyển dụng, gửi thư mời cho ông Ngọc
thử việc và trả lương đều được độc lập thực hiện. Vì Cơng ty Thạnh Mỹ cũng đã trực tiếp
quản lý, trả lương và cho thôi việc ông Ngọc nên quan hệ lao động giữa ông Ngọc với
Công ty Thạnh Mỹ mới thuộc đối tượng điều chỉnh của luật lao động. Công ty BT tham
gia với tư cách người tham gia chứ không phải là nguyên đơn hay bị đơn
[Sửa] phải xem có tồn tại hđlđ không. Nếu
b. Nếu là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn (hoặc bị đơn) bạn
sẽ đưa ra những luận cứ gì để chứng minh cho quan điểm của mình?
Bảo vệ Cơng ty BT
Nếu là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn:
Việc nguyên đơn là ông Ngọc khởi kiện u cầu bị đơn là Cơng ty Bình Thạnh bồi
thường tiền lương ở những ngày không làm việc và trả BHXH là khơng đúng Vì:
2
Đối với yêu cầu Công ty BT trả tiền lương những ngày không làm việc:
Công ty Thạnh Mỹ đã gửi thư mời điện tử, mời ông Ngọc thử việc ở cơng ty của mình
suy ra cơng ty Thạnh Mỹ là người tuyển dụng ông Ngọc. Tuy nhiên giữa ông Ngọc và
công ty Thạnh Mỹ không ký kết hợp đồng lao động hay hợp đồng thử việc mà chỉ tồn tại
một lá thư mời thử việc qua hộp thư điện tử.
Sau khi hết thời gian thử việc, ông Ngọc và công ty Thạnh Mỹ cũng không giao kết
hợp đồng lao động với nhau. Như vậy, từ khi hết thời gian thử việc là 2 tháng đến ngày
10/5/2013 (ngày ông Ngọc được thông báo thôi việc) giữa ông Ngọc và công ty Thạnh
Mỹ khơng tồn tại quan hệ lao động. Ngồi ra, trong quá trình làm việc thì nơi làm việc,
cơ quan chịu trách nhiệm trả tiền lương và giám sát hoạt động làm việc của ơng Ngọc
hồn tồn là cơng ty Thạnh Mỹ chứ khơng phải cơng ty Bình Thạnh.
Vậy người sử dụng lao động trong trường hợp này là cơng ty Thạnh Mỹ chứ khơng
phải cơng ty Bình Thạnh. Cơng ty Bình Thạnh chỉ là hỗ trợ phần tuyển dụng nhân sự cho
công ty Thạnh Mỹ chứ không phải là người sử dụng lao động. Mặc dù công ty Thạnh Mỹ
là cơng ty có tư cách pháp nhân và thuộc sở hữu của cơng ty Bình Thạnh nhưng các quyết
định của công ty Thạnh Mỹ là tách bạch và khơng có sự chi phối của cơng ty Bình Thạch.
Ngồi ra theo khoản 2 Điều 196 Luật doanh nghiệp 2020 thì cơng ty mẹ và cơng ty con là
hai chủ thể hoàn toàn độc lập với nhau Như vậy, việc ơng Ngọc khởi kiện cơng ty Bình
Thạnh là khơng có căn cứ, nếu muốn khởi kiện thì ơng Ngọc phải khởi kiện công ty
Thạnh Mỹ.
Đối với yêu cầu Công ty BT trả tiền bảo hiểm xã hội:
Khoản 1 Điều 2 Luật BHXH có quy định:
“1. Người lao động là công dân Việt Nam thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt
buộc, bao gồm:
a) Người làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động
xác định thời hạn, hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có
thời hạn từ đủ 03 tháng đến dưới 12 tháng, kể cả hợp đồng lao động được ký kết giữa
người sử dụng lao động với người đại diện theo pháp luật của người dưới 15 tuổi theo
quy định của pháp luật về lao động;
b) Người làm việc theo hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 01 tháng đến dưới 03 tháng;
3
…”
Theo quan điểm ở trên thì Cơng ty BT khơng phải là người sử dụng lao động đối với
ông Ngọc vì thế Cơng ty Bình Thạnh khơng có nghĩa vụ phải trả BHXH cho ông Ngọc.
Dựa theo quy định tại Khoản 1 Điều 2 Luật BHXH thì người lao động là công dân Việt
Nam chỉ tham gia BHXH bắt buộc trong trường hợp “làm việc theo hợp đồng lao động”.
Tuy nhiên theo lời khai hai bên thì giữa 2 bên không ký kết HĐLĐ mà chỉ thỏa thuận
thông qua thư mời thử việc vì vậy ơng Nguyễn Ngọc khơng thuộc đối tượng phải đóng
BHXH bắt buộc. Ngồi ra trong thư mời khơng có quy định nào về việc cơng ty phải
đóng bảo hiểm cho ơng Ngọc, nên ơng Ngọc khơng có cơ sở để u cầu Cơng ty Thạnh
Mỹ hay Cơng ty Bình Thạnh phải trả tiền BHXH cho mình.
Tình huống 22:
Grab là công ty cung cấp ứng dụng vận tải kết nối giữa tài xế và khách hàng. Để được
ký hợp đồng tham gia sử dụng dịch vụ này, Grab yêu cầu tài xế phải đảm bảo những điều
kiện nhất định (như khơng có tiền án, tiền sự...). Trong quá trình thực hiện hợp đồng, các
tài xế phải tuân theo những yêu cầu của Grab như: mặc đồng phục của Grab, về việc
nhận, hủy cuốc xe, về thái độ phục vụ đối với khách hàng... Trong quan hệ này, các tài xế
sử dụng xe riêng của mình. Grab chỉ cung cấp ứng dụng đặt xe từ phía khách hàng cho tài
xế, và trừ vào chiết khấu của mỗi tài xế theo chuyến đi. Grab là phía quản lý về việc đặt
xe của khách hàng, giá cước, chỉ định tài xế đón khách, thu tiền. Trường hợp tài xế có
những vi phạm nhất định hoặc bị khách hàng đánh giá thấp về chất lượng dịch vụ ở một
mức nhất định sẽ bị Grab cắt hợp đồng bằng cách khóa tài khoản.
Hiện nay, quan hệ giữa tài xế và Grab chưa được coi là quan hệ lao động nên các tài xế
sẽ không được công ty chi trả các loại bảo hiểm theo quy định của pháp luật như bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, cũng như trong các trường hợp chấm
dứt hợp đồng thì các tài xế sẽ không được hưởng những phúc lợi cơ bản.
Bạn có ý kiến gì về việc điều chỉnh của pháp luật lao động đối với quan hệ giữa tài xế với
Grab?
Trả lời
Pháp luật lao động hiện nay chưa có sự điều chỉnh đối với quan hệ giữa grab và tài xế
cơng nghệ để bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của tài xế.
Khoản 1 điều 13 Bộ luật lao động 2019 quy định: “Trường hợp hai bên thỏa thuận
bằng tên gọi khác nhưng có nội dung thể hiện về việc làm có trả cơng, tiền lương và sự
quản lý, điều hành, giám sát của một bên thì được coi là hợp đồng lao động.”
2 Bản án số 824/2017/LĐ-ST ngày 06/7/2017 của TAND Thành phố Hồ Chí Minh.
4
Các đối tượng thuộc điều chỉnh của ngành luật lao động Việt Nam là các quan hệ lao
động cá nhân, quan hệ lao động tập thể và các quan hệ xã hội khác. Để được xem là một
quan hệ lao động cần đáp ứng một số điều kiện nhất định: có sự quản lý, giám sát; có trả
tiền cơng, tiền lương; có hợp đồng lao động.
Đối chiếu với trường hợp quan hệ giữa grab với tài xế, giữa họ tồn tại quan hệ hợp
đồng, trong đó, grab là người đưa ra những quy định, điều kiện mà tài xế phải đáp ứng,
phải tuân thủ về trang phục, ứng xử, nhận, hủy xe,...Grab là phía quản lý về việc đặt xe
của khách hàng, giá cước, chỉ định tài xế đón khách, thu tiền...nếu tài xế có vi phạm thì
Grab sẽ đơn phương chấm dứt hợp tác bằng cách khóa tài khoản của tài xế, từ đó quan hệ
giữa họ chấm dứt. Như vậy, điều kiện “quản lý, điều hành, giám sát của một bên” đã thỏa
mãn (đây là một đặc điểm của quan hệ lao động cá nhân)
Trong quan hệ này thì Grab khơng trực tiếp trả cơng, trả tiền lương cho tài xế mà từ số
tiền sau mỗi cước xe, Grab trừ chiết khấu vào đó và tài xế nhận được số tiền còn lại sau
khi đã trừ chiết khấu. Hơn nữa theo tiêu chuẩn của ILO đối với quan hệ lao động cá nhân,
người lao động được cung cấp cơng cụ lao động như máy móc, vật tư...nhưng đối với
quan hệ giữa Grab và tài xế thì tài xế tự chuẩn bị công cụ làm việc (xe riêng của tài xế).
Tuy tiền lương của tài xế không được trả trực tiếp qua Grab, nhưng cũng phụ thuộc vào
số lượng và chất lượng lao động của tài xế, có thái độ ứng xử tế nhị với khách hàng và
được đánh giá tốt thì tiền cơng họ nhận về sẽ nhiều hơn. Vậy nên có thể nói vẫn có “sự
trả tiền cơng, trả lương” ở đây nhưng với hình thức đặc biệt. (đặc điểm quan hệ lao động
cá nhân thứ hai)
Quan hệ lao động giữa Grab với tài xế được thể hiện qua việc quan hệ này được xác
lập trên cơ sở thỏa thuận, nghĩa là có sự đồng ý, chấp thuận từ phía tài xế khi giao kết
hợp đồng. Có nghĩa giữa Grab và tài xế có tồn tại “Hợp đồng lao động” (đặc điểm quan
hệ lao động cá nhân thứ ba).
Do đó, quan hệ giữa Grab và tài xế không nên được xem là quan hệ đối tác trong đó
hai bên có địa vị ngang hàng và bình đẳng. Nếu quan hệ trên được coi là quan hệ hợp tác
thì khơng thể áp dụng Bộ luật lao động để bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho tài xế trong vấn
đề chi trả các loại bảo hiểm theo quy định của pháp luật như BHXH, BHYT, BHTN cũng
như trong các trường hợp chấm dứt hợp đồng thì các tài xế sẽ khơng được hưởng phúc lợi
cơ bản. Vì vậy mà chúng ta nên được xem quan hệ giữa Grab và tài xế là quan hệ lao
động được điều chỉnh bởi pháp luật lao động trong đó Grab là người sử dụng lao động có
quyền quản lí, điều hành, giám sát; tài xế là người lao động chịu sự quản lý của Grab và
nhận lương theo hình thức đặc biệt.
Hiện nay vẫn cịn nhiều người có việc làm nhưng khơng được xác định là quan hệ lao
động do vậy, pháp luật lao động cần làm rõ quy định về người làm việc khơng có quan hệ
lao động được áp dụng như thế nào, quyền và nghĩa vụ của họ ra sao để xem xét và đề
xuất sửa đổi bổ sung pháp luật lao động cho phù hợp với tình hình hiện nay để góp phần
nâng cao sự chặt chẽ cũng như bảo vệ tối đa quyền lợi cho người lao động mà ở đây là tài
xế cũng như những người lao động khác để được hưởng các chế độ, chính sách theo Bộ
5
luật lao động, Luật việc làm, Luật bảo hiểm xã hội...; đồng thời ràng buộc trách nhiệm
của Grab với tư cách là bên có quyền quản lý, điều hành, giám sát tài xế với chính tài xế
của mình và với cộng đồng.
Trên Thế giới, các nước đã công nhận quan hệ giữa Uber (một mơ hình tương tự Grab)
và tài xế là quan hệ lao động3. Việc công nhận quan hệ lao động giữa tài xế và hãng xe
công nghệ sẽ mở ra nhiều cơ hội hơn cho người lao động (tài xế) và đảm bảo được các
phúc lợi, bảo hiểm cho họ. Pháp luật Việt Nam cũng nên đi theo hướng công nhận Grab
và tài xế là quan hệ lao động.
Tình huống 34
Do là bạn bè nên ơng Lee C, quốc tịch Hàn quốc, và người đại diện theo pháp luật của
Cơng ty D- là ơng Han K có thỏa thuận miệng làm việc với nhau từ ngày 01/3/2013.
Công ty D đã làm thủ tục xin giấy phép lao động cho ơng Lee C. với vị trí “Quản lý cơng
trình”, thời hạn từ 04/7/2013 đến 03/7/2015, và giấy phép lao động đã được cấp gia hạn
lần 01 với thời gian làm việc từ ngày 04/7/2015 đến 09/6/2017.
Tuy nhiên, hai bên khơng ký HĐLĐ mà theo ơng Lee C. trình bày, ông Han K chỉ
chuyển HĐLĐ qua email cho ông Lee, nhưng ơng Lee đã xóa mất email đó.
Vào ngày 26/7/2015, ông Lee C. nhận được cuộc gọi của ông Han K. nói ơng đừng
đến Cơng ty làm việc. Ơng Lee C. vẫn đến Công ty D., nhưng Công ty D. đã không cho
ông vào làm việc. Và từ ngày đó đến nay, ơng Lee C khơng được làm việc tại Công ty D
và ông cũng không nhận được bất kỳ văn bản nào về việc cho ông nghỉ việc.
Công ty D trình bày là Cơng ty chỉ xin giùm giấy phép lao động để ông Lee C được
cấp thẻ tạm trú tại Việt Nam do ơng Lee C có nhu cầu sống và làm việc tại Việt Nam.
Nhưng sau khi đến Việt Nam, ông Lee C. không làm việc gì cho Cơng ty D, do đó khơng
có quan hệ lao động nào phát sinh giữa Công ty D. và ông Lee C.
Hỏi:
a) Có tồn tại mối quan hệ lao động do Luật Lao động điều chỉnh giữa ông Lee C và
Cơng ty D. khơng? Vì sao?
b) Theo quy định của pháp luật lao động hiện hành, hãy giải quyết vụ việc này.
Trả lời
a) Có tồn tại mối quan hệ lao động do Luật Lao động điều chỉnh giữa ông Lee C và
Cơng ty D. khơng? Vì sao?
3 />4 Bản án số 824/2017/LĐ-ST ngày 06/7/2017 của TAND Thành phố Hồ Chí Minh.
6
Theo khoản 5 Điều 3 Bộ luật lao động 2019 (BLLĐ 2019), quan hệ lao động là quan
hệ xã hội phát sinh trong việc thuê mướn, sử dụng lao động, trả lương giữa người lao
động, người sử dụng lao động, các tổ chức đại diện của các bên, cơ quan nhà nước có
thẩm quyền. Qua định nghĩa trên, các điều kiện để hình thành nên một quan hệ lao động
cá nhân đó là phải có 1 bên là người lao động, một bên là người sử dụng lao động, người
lao động phải chịu sự giám sát; điều hành; quản lý từ phía người sử dụng lao động và
được người sử dụng lao động trả lương. Cũng trong định nghĩa trên, có thể thấy quan hệ
lao động khơng nhất thiết phải cần có hợp đồng lao động. Trong tình huống trên, theo lời
khai: “Nhưng sau khi đến Việt Nam, ông Lee C khơng làm việc gì cho Cơng ty D” vì thế
có thể nhận định rằng giữa cơng ty và ơng Lee C khơng có sự quản lý; điều hành; giám
sát. Vì vậy mối quan hệ giữa ơng Lee và cơng ty D không thuộc đối tượng điều chỉnh của
luật lao động.
b) Theo quy định của pháp luật lao động hiện hành, hãy giải quyết vụ việc này.
Theo khoản 1 Điều 13 BLLĐ 2019: “Hợp đồng lao động là sự thỏa thuận giữa người
lao động và người sử dụng lao động về việc làm có trả cơng, tiền lương, điều kiện lao
động, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong quan hệ lao động”. Khoản 2 Điều 13 Luật
lao động 2019 quy định: “Trước khi nhận người lao động vào làm việc thì người sử dụng
lao động phải giao kết hợp đồng lao động với người lao động”, Điều 14 Luật lao động
quy định về hình thức hợp đồng lao động phải được giao kết bằng văn bản và chỉ được
giao kết bằng lời nói đối với hợp đồng có thời hạn dưới một tháng và điểm a khoản 3
Điều 18 BLLĐ 2019 cũng có quy định người lao động có thể giao kết hợp đồng lao động
với người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Vì vậy trong tình huống trên người
đại diện theo pháp luật của Công ty D- là ơng Han K và ơng Lee C có thỏa thuận miệng
làm việc với nhau nhưng lại khơng nói thời hạn của hợp đồng là bao lâu. Vì vậy việc thỏa
thuận miệng không được luật công nhận là hợp đồng lao động hợp pháp. Ngoài ra theo
khoản 5 Điều 3 BLLĐ 2019: “Quan hệ lao động là quan hệ xã hội phát sinh trong việc
thuê mướn, sử dụng lao động, trả lương giữa người lao động, người sử dụng lao động,
các tổ chức đại diện của các bên, cơ quan nhà nước có thẩm quyền” Tuy nhiên giữa các
bên trong tình huống khơng hề có trả lương cũng như khơng có việc điều hành, quản lý,
giám sát người lao động. Vì vậy theo BLLĐ 2019 giữa ơng Lee và ông Han K không hề
phát sinh quan hệ lao động.
HẾT
7