Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

ĐỀ CƯƠNG ôn tập môn lý LUẬN CHÍNH TRỊ dạng câu hỏi và trả lời

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.43 KB, 28 trang )

ĐỀ CƯƠNG ƠN TẬP MƠN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
Câu 1: phân tích vị trí, vai trị, chức năng và mối quan hệ 3 bộ phận hợp
thành hệ thống chính trị nước ta hiện nay
Hệ thống chính trị là một chỉnh thể các tổ chức chính trị trong xã hội bao
gồm các đảng chính trị, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp được
liên kết với nhau trong một hệ thống tổ chức nhằm tác động vào các quá trình của
đời sống xã hội, để củng cố, duy trì và phát triển chế độ đương thời phù hợp với lợi
ích của chủ thể giai cấp cầm quyền.
Hệ thống chính trị xuất hiện cùng với sự thống trị của giai cấp, Nhà nước và
thực hiện đường lối chính trị của giai cấp cầm quyền, do đó hệ thống chính trị
mang bản chất giai cấp của giai cấp cầm quyền.
Hệ thơng chính trị ở Việt Nam hiện nay bao gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ
nữ Việt Nam, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội
Cựu chiến binh Việt Nam và các tổ chức chính trị-xã hội hợp pháp khác của nhân
dân được thành lập, hoạt động trên cơ sở liên minh giữa giai cấp công nhân với
giai cấp nơng dân và đội ngũ trí thức làm nền tảng, dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam, thực hiện và đảm bảo đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân.
a. Đảng Cộng sản Việt Nam:
Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu trung
thành lợi ích giai cấp cơng nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng là một
bộ phận của hệ thống chính trị nhưng lại là hạt nhân lãnh đạo của tồn bộ hệ thống
chính trị. Vai trò lãnh đạo của Đảng thể hiện trên những nội dung chủ yếu sau:


Đảng đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối, chiến lược, những quan điểm, chủ
trương phát triển kinh tế-xã hội; đồng thời Đảng là người lãnh đạo và tổ chức thực
hiện Cương lĩnh, đường lối của Đảng.
Đảng lãnh đạo xã hội chủ yếu thơng qua Nhà nước và các đồn thể quần chúng.
Đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng được Nhà nước tiếp nhận, thể chế hoá
cụ thể bằng pháp luật và những chủ trương, chính sách, kế hoạch, chương trình cụ


thể. Vì vậy, Đảng ln quan tâm đến việc xây dựng Nhà nước và bộ máy của Nhà
nước, đồng thời kiểm tra việc Nhà nước thực hiện các Nghị quyết của Đảng.
Đảng lãnh đạo xã hội thông qua hệ thống tổ chức Đảng các cấp và đội ngũ cán bộ,
đảng viên của Đảng. Đảng lãnh đạo công tác cán bộ bằng việc xác định đường lối,
chính sách cán bộ, lựa chọn, bố trí, giới thiệu cán bộ có đủ tiêu chuẩn vào các cơ
quan lãnh đạo của Nhà nước và các đoàn thể quần chúng và các tổ chức chính trị xã hội.
Ngồi ra, Đảng lãnh đạo bằng phương pháp giáo dục, thuyết phục và nêu gương,
làm công tác vận động quần chúng, lãnh đạo thực hiện tốt quy chế dân chủ...
b. Nhà nước:
Nhà nước là trụ cột của hệ thống chính trị ở nước ta, là cơng cụ tổ chức thực hiện ý
chí và quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân
dân để quản lý toàn bộ hoạt động của đời sống xã hội. Đó chính là Nhà nước của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Mặt khác, Nhà nước chịu sự lãnh đạo của
giai cấp công nhân, thực hiện đường lối chính trị của Đảng. Đảng lãnh đạo Nhà
nước thực hiện và đảm bảo đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân.
Như vậy, Nhà nước xã hội chủ nghĩa vừa là cơ quan quyền lực, vừa là bộ máy
chính trị, hành chính, vừa là tổ chức quản lý kinh tế, văn hoá, xã hội của nhân dân.
Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng và phối hợp chặt chẽ giữa các
cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.


Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước
cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội do nhân dân
trực tiếp bầu ra, Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập ra Hiến pháp và luật
pháp (lập hiến và lập pháp). Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối
nội, đối ngoại, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội, những nguyên tắc chủ yếu về tổ
chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công
dân.
Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao với toàn bộ hoạt động của Nhà nước.
Với ý nghĩa đó, Quốc hội được gọi là cơ quan lập pháp. Chính phủ là cơ quan chấp

hành của Quốc hội, cơ quan hành chính cao nhất của nước Cộng hồ xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.
Chính phủ thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn
hố, xã hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại của Nhà nước. Chính phủ là cơ quan
chấp hành, chịu trách nhiệm trước Quốc hội và phải báo cáo công tác với Quốc
hội. Trên ý nghĩa đó, Chính phủ được gọi là cơ quan hành pháp.
Cơ quan tư pháp gồm: Toà án, Viện kiểm sát và các cơ quan điều tra. Đây là những
cơ quan được lập ra trong hệ thống tổ chức Nhà nước để xử lý những tổ chức và cá
nhân vi phạm pháp luật, đảm bảo việc thực thi pháp luật một cách nghiêm minh,
chính xác.
Tồ án các cấp là cơ quan nhân danh Nhà nước, thể hiện thái độ và ý chí của Nhà
nước trước các vụ án thông qua hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Tồ
án là cơ quan duy nhất có quyền áp dụng chế tài hình sự, khơng ai bị coi là có tội
và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của tồ án đã có hiệu lực pháp
luật.
Để đảm bảo pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh, đảm bảo việc xét xử đúng
người đúng tội, Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức thành hệ thống, tập trung


thống nhất và độc lập thực hiện thẩm quyền của mình đối với các cơ quan khác của
Nhà nước. Thực hiện các quyền khởi tố, kiểm sát các hoạt động điều tra, truy
tố...Với ý nghĩa đó, các tổ chức Tồ án, Viện kiểm sát được gọi là cơ quan tư pháp.
Nhà nước thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục
nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân. Vì vậy, cần tăng cường pháp
chế xã hội chủ nghĩa.
c. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội...
Đây là những tổ chức chính trị-xã hội hợp pháp được tổ chức để tập hợp rộng rãi
các tầng lớp nhân dân theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản đại diện cho lợi ích của
nhân dân, tham gia vào hệ thống chính trị, tuỳ theo tính chất, tơn chỉ, mục đích của
mình nhằm bảo vệ quyền lợi dân chủ của nhân dân.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đồn thể nhân dân có vai trị rất quan trọng trong
sự nghiệp đại đồn kết toàn dân tộc để xây dựng và bảo vệ đất nước; phát huy dân
chủ, nâng cao trách nhiệm công dân của các hội viên, đồn viên, giữ gìn kỷ cương
phép nước, thúc đẩy công cuộc đổi mới, thắt chặt mối quan hệ giữa nhân dân với
Đảng và Nhà nước.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân là cơ sở chính trị của chính
quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí và nguyện vọng; phát huy khả năng tham gia
bầu cử Quốc hội và Hội đồng Nhân dân; tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; thực hiện giám sát của nhân dân với
cán bộ, công chức và giải quyết những mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân.
Các tổ chức chính trị - xã hội của nhân dân có nhiệm vụ giáo dục chính trị tư
tưởng, động viên và phát huy tính tích cực xã hội của các tầng lớp nhân dân, góp
phần thực hiện nhiệm vụ chính trị; chăm lo bảo vệ lợi ích chính đáng và hợp pháp
của nhân dân; tham gia vào công việc quản lý Nhà nước, quản lý xã hội, giữ vững
và tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, góp phần


thực hiện và thúc đẩy q trình dân chủ hố và đổi mới xã hội, thực hiện cơ chế
Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.
Hệ thống chính trị ở nước ta được tổ chức theo một hệ thống từ Trung ương đến cơ
sở. Cơ sở phân cấp theo quản lý hành chính gồm có xã, phường, thị trấn. Hệ thống
chính trị ở cơ sở bao gồm: Tổ chức cơ sở Đảng, Hội đồng Nhân dân xã, phường;
Uỷ ban Nhân dân xã, phường; Mặt trận Tổ quốc xã, phường và các tổ chức chính
trị-xã hội khác như: Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Phụ nữ, Hội
Nông dân, Hội Cựu chiến binh xã, phường, thị trấn… Tất cả các tổ chức trên đều
có vị trí, vai trò và nhiệm vụ được quy định trong Luật Tổ chức của hệ thống chính
trị ở nước ta.
Hệ thống chính trị ở cơ sở có vai trị rất quan trọng trong việc tổ chức và vận động
nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tăng
cường đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, huy động

mọi khả năng phát triển kinh tế-xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư.
Mối quan hệ:
Đảng lãnh đạo toàn hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay. Cụ thể như sau:


Với Nhà nước, Đảng lãnh đạo NN có nghĩa là đảng cầm quyền, làm cho
hệ tư tưởng, đường lối, chủ trương. Nghị quyết của đảng được thể chế
hóa thành luật pháp và chính sách. Hoạt động của Nhà nước phải thể hiện
được đường lối chính trị của Đảng.



Với mặt trận, Đảng lãnh đạo mặt trận thực hiện đại đoàn kết, tập hợp lực
lượng, gây dựng các phong trào xã hội để thực hiện ngị quyết của đảng,
chấp hành luật pháp của nhà nước, phát huy dân chủ và quyền làm chủ
của dân




Với các đoàn thể, đảng lãnh đạo các đoàn thể tham gia xây dựng đảng,
xây dựng nhà nước, phát huy tính chủ động sáng tạo, phối hợp hoạt động
để biến đường lối, nghị quyết của đảng thành hiện thực.

NN tuân thủ đường lối, chủ trương, quan điểm, nghị quyết của đảng và cụ
thể hóa thành các chính sách, luật pháp. Nhà nước ban hành cơ chế để mặt
trận tổ quốc Vn và các tổ chức ct xh khác thực hiện tốt vai trò giám sát, phản
biện xã hội.
Câu 2. Phân tích đặc điểm hệ thơng chính trị vn hiện nay
Hệ thống chính trị là một chỉnh thể các tổ chức chính trị trong xã hội bao

gồm các đảng chính trị, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp được
liên kết với nhau trong một hệ thống tổ chức nhằm tác động vào các quá trình của
đời sống xã hội, để củng cố, duy trì và phát triển chế độ đương thời phù hợp với lợi
ích của chủ thể giai cấp cầm quyền.
Hệ thống chính trị xuất hiện cùng với sự thống trị của giai cấp, Nhà nước và
thực hiện đường lối chính trị của giai cấp cầm quyền, do đó hệ thống chính trị
mang bản chất giai cấp của giai cấp cầm quyền.
Hệ thơng chính trị ở Việt Nam hiện nay bao gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ
nữ Việt Nam, Tổng Liên đồn Lao động Việt Nam, Hội Nơng dân Việt Nam, Hội
Cựu chiến binh Việt Nam và các tổ chức chính trị-xã hội hợp pháp khác của nhân
dân được thành lập, hoạt động trên cơ sở liên minh giữa giai cấp công nhân với
giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức làm nền tảng, dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam, thực hiện và đảm bảo đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân.
Đặc điểm HTCT VN hiện nay:


Thứ nhất, tính nhất ngun chính trị.
+ Khơng có chính đảng đối lặp:chế độ chính trị ở việt nam là thể chế chính
trị một đảng duy nhất cầm quyền. Trong những giai đoạn lịch sử nhất định,
ngồi ĐCSVN, có Đảng dân chủ và đảng xã hội. Tuy nhiên, hai đnagr này
được tổ chức và hoạt động như những đồng minh chiến lược của ĐCSVN,
thừa nhận vai trò lãnh đạo và vị trí cầm quyền duy nhất của ĐCSVN. Hệ
thống ct ở vnam là thể chế nhất ngun chính trị, khơng tồn tại các đảng
chính trị đối lập.
+ Nhất nguyên về tổ chức: HTCT VN gắn liền với vai trò tổ chức và lãnh
đạo của ĐCSVN. Mỗi tổ chức thành viên của hệ thống chính trị đều do ĐCS
VN sáng lập vừa đóng vai trị là hình thức tổ chức quyền lực của nhân dân
(NN), tổ chức tập hợp, đoàn kết quần chúng, đại diện cho ý chí và nguyên
vọng của quần chúng (mặt trận tqvn), vừa là tổ chức mà qua đó đảng csan

thực hiện sự lãnh đạo của mình.
+ Nhất ngun về tư tưởng: Tồn bộ hệ thống chính trị đều được tổ chức và
hoạt động trên nền tảng tư tưởng là cn mác leenin và tư tưởng hồ chí minh.
Thứ hai, tính thống nhất
HTCT ở việt nam bao gồm nhiều tổ chức có tính chất, vị trí, vai trị, chức
năng khác nhau nhưng có quan hệ chặt chẽ, gắn bó với nhau, tạo thành 1 thể
thống nhất.
Tính thống nhất đó được xác định bởi các yếu tố sau:
+ Sự lãnh đạo thống nhất của đảng duy nhất cầm quyền là ĐCSVN


+ sự thống nhất về mục tiêu chính trị của toàn bộ hệ thống là xây dựng cnxh
việt nam với mục tiêu dân giàu, nước mnahj, xã hội công bằng dân chủ văn
minh
+ sự thống nhất ở nguyên tác cơ bản trong tổ chức và hoạt động là tập trung
dân chủ
+ Sự thống nhất của hệ thống tổ chức ở từng cấp, tử TW tới địa phương, với
các bộ phận hợp thành
Thứ ba, gắn bó mặt thiết với nhân dân, chịu sự kiểm tra, giám sát của nhân
dân
Đây là đặc điểm có tính ngun tắc của hệ thống ct ở vn. Đặc điểm này
khẳng định hệ thống chính trị Việt Nam khơng chỉ gắn với chính trị, quyền
lực chính trị mà cịn gắn với xã hội.
Sự gắn bó mật thiết đó được thể hiện trên các yếu tố sau:
+ Đây là quy luật tồn tại của đảng, la nguyên tắc tổ chức và hoạt động của
đảng cầm quyền
+Nhà nước là nhà nước của dân, do dân và vì dân
+ Mặt trận tổ quốc, các tổ chức ct – xh là hình thức tập hợp, tổ chức của
chính các tầng lớp nhân dân.
Thứ 4, Sự kết hợp giữa tính giai cấp và tính dân tộc của hệ thống chính trị

+Đặc điểm nổi bật của htct vn là htct đại diện cho nhiều giai cấp, tầng lớp
nhân dân. Các giai cấp, tầng lớp nhân dân được đại diện bởi các tổ chức
thành viên trong hệ thống ctri, đều thừa nhận vai trò lãnh đạo của giai cấp
công nhân.


+ lịch sử nền chính trị vnam là cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp gắn liền
và bắt đầu từ mục tiêu giải phóng dân tộc, bảo vệ nền độc lập dân tộc. Các
giai cấp, toàn dân tộc đoàn kết trong đấu tranh giành và bảo vệ nền độc lập
dân tộc, hợp tác để cùng phát triển.
+Sự kết hợp giữa tính giai cấp và tính dân tộc cịn được khẳng định trong
bản chất của từng tổ chức thuộc hệ thống ct. ĐCSVN là đội tiên phong của
giai cấp công nhân, đồng thời của nhân dân lao đọng và dân tộc vnam. NN
chxhcn việt nam là nn của dân, do dân và vì dân.
Câu 3: quan điểm. mục tiêu và giải pháp hồn thiện hệ thống chính trị nước
ta hiện nay?
Mục tiêu
Mục tiêu cuối cùng của việc xây dựng hệ thông chính trị là nhằm thực hiện
dân chủ xhcn, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Toàn bộ tổ chức và
hoạt động của hệ thống chính trị nước ta nhằm xây dựng và hoàn thiện nèn
dân chủ xhcn, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân “Tiếp tục xây dựng và
hoàn thiện nền dân chủ xhcn, bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân”
Trong giai đoạn trước mắt, Đảng ra xác định mục tiêu tiếp tục xây dựng và
hoàn thiện hệ thống ct là “Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
dấu của Đảng; đẩy mạnh tồn diện cơng cuộc đổi mới; xay dựng hệ thống
chính trị trong sạch, vững mạnh; phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết
dân tộc”
Quan điểm



Một là, đổi mới đồng bộ, phù hợp về kinh tế và chính trị vì mục tiêu xây
dựng nước VN xã hội chủ nghĩa cùng dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh
Xét trên tổng thể, đảng ta bắt đầu cơng cuộc đổi mới về tư duy chính trị thể
hiện trong việc hoạch định đường lối và các chính sách đối nội, đối ngoại.
Trong những năm đầu, đảng tập trung trước hết vào việc thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ đổi mới kinh tế, khác phục khủng hoảng kinh tế xã hội, tạo điều
kiện để giữ vững ổn định ct, xây dựng, củng cố niềm tin nhân dân, tạo thuận
ợi để đổi mới các mặt khác của đời sống xã hội, đồng thời từng bước đổi
mới chính trị. Qúa trình phát triển của sự nghiệp đổi mới đã khẳng định sự
kết hợp nhuần nhuyễn và bước đi đứng đắn đó. Đại hội XII một lần nữa
khẳng định phải đổi mới đồng bộ giữa kte và ctri
Hai là, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị
nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của NN, phát
huy quyền làm chủ nhân dân
Đó là q trình làm cho hệ thống chính trị năng động, có hiệu quả hơn, phù
hợp với đường lỗi đổi mới toàn diện, đồng bộ đất nước. Trong giai đoạn hiện nay,
để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xhcn, đẩy mạnh sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước găn svoiws kinh tế tri thức, chủ động tích cực
hội nhập kinh tế quốc tế, cần “tập trung rà soát, bổ sung, điều chỉnh, ban hành mới,
xây dựng đồng bộ hệ thống các quy chế, quy định, quy trình cơng tác để tiếp tục
đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị.
Khắc phục tình trạng Đảng bao biện, làm thay hoặc buông lỏng lãnh đạo các cơ
quan quản lý nhà nước. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận


Tổ quốc và các đồn thể nhân dân, tơn trọng nguyên tắc hiệp thương dân chủ trong
tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam"4.
Ba là, đổi mới hệ thống chính trị một cách tồn diện đồng bộ, có kế thừa, có

bước đi, hình thức và cách làm phù hợp.
Đại hội XI của Đảng khẳng định: "Kiên trì và quyết liệt thực hiện đổi mới.
Đổi mới chính trị phải đồng bộ với đổi mới kinh tế theo lộ trình thích hợp..."5.
Bốn là, đổi mới mối quan hệ giữa các bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị
với nhau và với xã hội, tạo ra sự vận động cùng chiều theo hướng tác động, thúc
đẩy xã hội phát triển; phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Đại hội XI của Đảng khẳng định: “Tiếp tục xác định rõ chức năng, nhiệm vụ và mơ
hình tổ chức của các tổ chức trong hệ thống chính trị"5.
Đổi mới cơ cấu tổ chức, hoạt động của hệ thống chính trị để hệ thống chính trị hoạt
động có hiệu quả, bảo đảm ổn định chính trị - xã hội trong điều kiện kinh tế thị
trường.
c) Giải pháp xây dựng hệ thống chính trị
Một là, xây dựng Đảng trong hệ thống chính trị.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung,
phát triển năm 2011) của Đảng đã xác định rõ bản chất của Đảng: "Đảng Cộng sản
Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của
nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai
cấp cơng nhân, nhân dân lao động và của dân tộc"6.
Về vị trí, vai trị của Đảng trong hệ thống chính trị, Cương lĩnh chỉ rõ: "Đảng lãnh
đạo hệ thống chính trị, đồng thời là bộ phận của hệ thống ấy. Đảng gắn bó mật thiết
với nhân dân, tơn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân
dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ
Hiến pháp và pháp luật"7. Điều đó là cơ sở của sự gắn bó giữa xây dựng Đảng và


xây dựng hệ thống chính trị, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng trong hệ thống
chính trị.
Đại hội XI của Đảng đã chỉ rõ các chủ trương, giải pháp giữ vững và tăng cường
vai trò lãnh đạo, nâng cao tính khoa học, năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng
đối với Nhà nước và toàn xã hội, sự gắn bó mật thiết giữa Đảng và nhân dân; nâng

cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, chất lượng hoạt động của Mặt trận
Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội; phát huy dân chủ, quyền làm chủ của
nhân dân; tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong Đảng và trong xã hội; làm cho nước
ta phát triển nhanh và bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đổi mới
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị phải được
đặt trong tổng thể nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng, tiến hành đồng bộ với đổi
mới các mặt của công tác xây dựng Đảng; kiên định các nguyên tắc tổ chức và hoạt
động của Đảng, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ; thực hiện dân chủ
rộng rãi trong Đảng và trong xã hội, đẩy nhanh phân cấp, tăng cường chế độ trách
nhiệm cá nhân, nhất là cá nhân người đứng đầu.
Hai là, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là sự khẳng định và
thừa nhận nhà nước pháp quyền là một tất yếu lịch sử. Nó khơng phải là sản phẩm
riêng của chủ nghĩa tư bản mà là sản phẩm phát triển của loài người, của nền văn
minh nhân loại. Đảng Cộng sản Việt Nam định hướng xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo năm đặc điểm sau đây:
- Đó là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân.
- Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp và kiểm sốt giữa
các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.


- Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật và bảo đảm
cho Hiến pháp và các đạo luật giữ vị trí tối thượng trong điều chỉnh các quan hệ
thuộc tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
- Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; nâng cao
trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân, thực hành dân chủ, đồng thời tăng
cường kỷ cương, kỷ luật.
- Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do một đảng duy nhất lãnh đạo,
có sự giám sát của nhân dân, sự phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam

và tổ chức thành viên của Mặt trận.
Để xây dựng Nhà nước pháp quyền cần hồn thiện hệ thống pháp luật, tăng tính cụ
thể, khả thi của các quy định trong văn bản pháp luật; xây dựng, hồn thiện cơ chế
kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của
các cơ quan công quyền.
Ba là, xây dựng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội trong
hệ thống chính trị. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội có
vai trị rất quan trọng trong việc tập hợp, vận động, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp
nhân dân; đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân, đề xuất các chủ
trương, chính sách về kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng...
Nhà nước ban hành cơ chế để Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội thực hiện
tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội.
Thực hiện tốt Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Luật Thanh niên, Luật Cơng
đồn..., quy chế dân chủ ở mọi cấp để Mặt trận, các tổ chức chính trị - xã hội và
các tầng lớp nhân dân tham gia xây dựng Đảng, chính quyền và hệ thống chính trị;
thực hiện "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" và dân thụ hưởng những thành
quả của sự nghiệp đổi mới.


Đổi mới hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội
khắc phục tình trạng hành chính hóa, nhà nước hóa, phơ trương, hình thức để nâng
cao chất lượng hoạt động, làm tốt công tác dân vận theo phong cách "trọng dân,
gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân", “nghe dân nói, nói dân
hiểu, làm dân tim".
Câu 4: Bạn hiều thế nào là thị trường, cơ chế thị trường, kinh tế thị trường và
kinh tế thị trường định hưỡng xã hội chủ nghĩa.
Thị trường là nơi diễn ra hoạt động mua và bán, nơi hàng hóa được giao dịch
trao đổi
Cơ chế thị trường là hình thức tổ chức kinh tế, trong đó các quan hệ kinh tế
tác động lên mọi hoạt động của nhà sản xuất và 1 người tiêu dùng trong quá

trình trao đổi.
Kinh tế thị trường là mơ hình kinh tế mà ở đó các quan hệ kinh tế đều được
thực hiện trên thị trường, thông qua q trình trao đổi mua bán. Quan hệ
hàng hóa - tiền tệ phát triển đến một trình độ nhất định sẽ đạt đến kinh tế thị
trường. Kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển của kinh tế hàng hóa dựa
trên cơ sở phát triển của lực lượng sản xuất.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước và dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Câu 5:Phân biệt nền kinh tế tự nhiên với kinh tế hàng hóa; kinh tế kế hoạch
hóa tập trung với kinh tế thị trường


Kinh tế tự nhiên là trong nền kinh tế tự nhiên, sản xuất nhỏ chiếm ưu thế.
Nền kinh tế tự nhiên do nhiều đơn vị kinh tế thuần nhất hợp thành và mỗi
đơn vị kinh tế ấy làm đủ việc để tạo ra những sản phẩm cuối cùng.
Trong các nền kinh tế tự nhiên, ruộng đất là tư liệu sản xuất chủ yếu, nông nghiệp
là ngành sản xuất cơ bản, công cụ và kỹ thuật canh tác lạc hậu, dựa vào lao động
chân tay là chủ yếu, chỉ có trong một số trang trại của địa chủ hoặc phường hội
mới có hiệp tác lao động giản đơn. Trong nền kinh tế dưới chế độ phong kiến, phân
công lao động kém phát triển, cơ cấu ngành đơn điệu, mới chỉ có một số ngành
nghề thủ công tách khỏi nông nghiệp, sản xuất chủ yếu hướng vào giá trị sử dụng,
có tính chất tự cung, tự cấp.

Kinh tế hàng hóa là nền kinh tế có sự phân cơng lao động và trao đổi hàng
hóa, dịch vụ giữa người này với người khác. Nó trái với nền kinh tế tự cung tự
cấp trong đó người ta tự sản xuất sản phẩm và tự tiêu dùng.
Để cho đơn giản, giả định nền kinh tế có hai cá nhân là A và B. Có sự phân cơng
lao động (có thể dựa trên năng lực sản xuất) giữa hai người; A chuyên sản xuất gạo
và B chuyên sản xuất thịt. Hai người sẽ đem trao đổi sản phẩm của mình với nhau,

nhờ đó mỗi người đều có cả gạo lẫn thịt. Khi sản phẩm được trao đổi, chúng trở
thành hàng hóa. Nền kinh tế hình thành từ quan hệ trao đổi hàng hóa này chính là
kinh tế hàng hóa.
Ở giai đoạn sơ khai, trao đổi hàng hóa mang hình thức trực tiếp, gọi là hàng đổi
hàng. Người sản xuất gạo và cần thịt có thể gặp người sản xuất thịt và cần gạo để
đổi trực tiếp gạo lấy thịt. Đây đã là kinh tế hàng hóa. Tuy nhiên, nếu khơng gặp
được người có thứ mình cần và cần thứ mình có, thì trao đổi khơng được thực hiện.
Phân biệt nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung và nền kinh tế thị trường


Vấn đề

KTKHHTT

Cơ chế quản lý kinh tế

NN quản lý nền kinh tế ch

Quản lý hoạt động kt

Các cơ quan hành chính ca

Trong hđ kinh doanh, lỗ th

Mơ hình nền kinh tế

Nền kinh tế khép kín, chủ

Hình thức sở hữu


Hai thành phần sở hữu về

Thành phần kinh tế

Hai thành phần kinh tế

Quan hệ hàng hóa tiền tệ

Quan hệ này bị coi nhẹ, ch

câu 6: Tại sao nói việc lựa chọn kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa làm mô hình tổng quát trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam là đúng đắn và cần thiết?
câu 7:Phân tích đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở VIỆT NAM
- Về chế độ sở hữu và các thành phần kinh tế: Nền kinh tế có nhiều thành phần, với
nhiều hình thức sở hữu. Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan
trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu
dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh với nhau trên cơ sở pháp luật của nhà nước,
trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và kinh tế nhà nước cùng với kinh tế
tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân; chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, từng bước được xác lập và sẽ chiếm ưu thế
tuyệt đối khi chủ nghĩa xã hội về cơ bản được xây dựng xong.


- Về chế độ phân phối: Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta, thực hiện phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu;
đồng thời có các hình thức phân phối khác nữa (phân phối theo vốn, theo tài năng
cùng các nguồn lực khác đóng góp vào sản xuất kinh doanh), vừa khuyến khích lao
động, vừa bảo đảm phúc lợi xã hội cơ bản, bảo đảm sự phân phối công bằng, hợp

lý và hạn chế sự bất bình đẳng trong xã hội.
- Về vai trị quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa: Nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, sự quản lý và điều tiết nền kinh tế của nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì vậy,
sự quản lý của nhà nước trong nền kinh tế thị trường phải định hướng cho nền kinh
tế phát triển có hiệu quả trên cơ sở đảm bảo lợi ích quốc gia, lợi ích của nhân dân
lao động thông qua hệ thống pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính
sách phát triển kinh tế, xã hội. Đồng thời, có sử dụng cơ chế thị trường (vận dụng
các quy luật kinh tế thị trường để đưa ra những công cụ tác động vào thị trường)
kích thích sản xuất, giải phóng sức sản xuất, phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt
tiêu cực của cơ chế thị trường.
Sự quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường nhằm giải
quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, cải
thiện đời sống nhân dân. Nhà nước thực hiện chính sách xã hội, một mặt, khuyến
khích làm giàu hợp pháp, mặt khác phải thực hiện xóa đói, giảm nghèo.
- Về nguyên tắc giải quyết các mối quan hệ chủ yếu: Kết hợp ngay từ đầu giữa lực
lượng sản xuất với quan hệ sản xuất, bảo đảm giải phóng sức sản xuất; xây dựng
lực lượng sản xuất kết hợp với củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới XHCN,


nhằm phục vụ cho phát triển sản xuất và công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước;
giữa phát triển sản xuất với từng bước cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân;
giải quyết tốt các vấn đề xã hội và công bằng xã hội, ngăn chặn các tệ nạn xã hội;
giải quyết tốt các nhiệm vụ chính trị, xã hội, văn hóa, mơi trường và an ninh, quốc
phịng.
- Về tính cộng đồng và tính dân tộc: Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta mang tính cộng đồng cao theo truyền thống của xã hội Việt Nam,
phát triển kinh tế thị trường có sự tham gia của cộng đồng và vì lợi ích của cộng
đồng, hướng tới xây dựng một cộng đồng xã hội Việt Nam giàu có, đầy đủ về vật
chất, phong phú về tinh thần, dân chủ, công bằng, văn minh, đảm bảo cuộc sống

ấm no và hạnh phúc cho nhân dân.
- Về quan hệ quốc tế: Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta dựa vào sự
phát huy tối đa nguồn lực trong nước và triệt để tranh thủ nguồn lực nước ngoài
theo phương châm “Kết hợp sức mạnh của dân tộc và sức mạnh của thời đại” và sử
dụng các nguồn lực đó một cách hợp lý, đạt hiệu quả cao, để phát triển nền kinh tế
đất nước với tốc độ nhanh, hiện đại và bền vững.
Như vậy, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta vừa mang
tính phổ biến (đặc trưng chung) của mọi nền kinh tế thị trường; vừa có đặc trưng
riêng của tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Hai nhóm nhân tố này cùng tồn tại, kết
hợp và bổ sung cho nhau. Trong đó, nhóm đặc trưng chung đóng vai trò là động
lực thúc đẩy nền kinh tế phát triển, nhóm đặc trưng riêng đóng vai trị hướng dẫn
nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.


câu 8:trình bày quan điểm mới về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở việt nam (theo tinh thần văn kiện đại hội XII của đảng cộng sản
việt nam)
Văn kiện Đại hội lần thứ XII của Đảng xác định: “Nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật
của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng XHCN phù hợp với từng
giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập
quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng Cộng sản Việt
Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh". “Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ
sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều
hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trị
chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể
thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật...”.
Sự phát triển lý luận và thực tiễn của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
được xác định trong văn kiện Đại hội lần thứ XII của Đảng là: “Nền kinh tế thị

trường định hướng XHCN hiện đại và hội nhập quốc tế”; “Kinh tế tư nhân là một
động lực quan trọng của nền kinh tế”.\
Đánh giá: Đảng xác định kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là một bộ
phận của kinh tế quốc tế, đó là một nền kinh tế “mở”, hiện đại, vận hành theo quy
luật của thị trường, thị trường phân bổ nguồn lực, Nhà nước quản lý bằng pháp
luật, dưới sự lãnh đạo của Đảng là rất phù hợp với thực tiễn đất nước. Đại biểu
Nguyễn Minh Hùng (Đoàn đại biểu Đảng bộ Hải Dương) khẳng định: Đại hội XI
xác định “Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế", còn văn
kiện Đại hội XII xác định: “Kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền
kinh tế”. Đó là bước phát triển, bởi qua 30 năm đổi mới cũng như quá trình thực


hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, kinh tế tư nhân đã khẳng định được vị trí,
vai trị của mình trong nền kinh tế quốc dân.
Cơ sở khách quan của chủ trương này xuất phát từ quá trình thực hiện kinh
tế thị trường định hướng XHCN trong nhiệm kỳ qua vẫn còn hạn chế, bất cập,
chưa thật sự phát huy đầy đủ quyền tự do kinh doanh của người dân theo quy định
của Hiến pháp và pháp luật; chưa thu hút được nhiều nguồn lực, nhiều nguồn đầu
tư phát triển kinh tế đất nước. Việc hoàn thiện thể chế kinh tế còn chậm, thiếu kiên
quyết; hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách chưa hồn chỉnh và đồng bộ, chất
lượng không cao, chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới mơ hình tăng trưởng, cơ cấu
lại nền kinh tế. Kết quả triển khai, thực thi thể chế kinh tế thị trường định hướng
XHCN chưa tạo được đột phá lớn trong huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả
các nguồn lực phát triển. Doanh nghiệp nhà nước hoạt động hiệu quả chưa cao,
chưa thể hiện được vai trò là lực lượng nòng cốt của kinh tế nhà nước. Hầu hết
doanh nghiệp tư nhân quy mơ cịn nhỏ, thiếu liên kết, khả năng ứng phó với các rủi
ro yếu; nhiều doanh nghiệp phá sản. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi cịn
hạn chế trong chuyển giao cơng nghệ và trình độ quản lý tiên tiến; chưa tạo được
đột phá lớn trong huy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực phát
triển...

câu 9: phân tích tính hai mặt của cơ chế thị trường và vai trò của nhà nước
trong nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa ở việt nam
a. Ưu điểm của cơ chế thị trường
Cơ chế thị trường có những ưu điểm và tác dụng mà khơng có cơ chế nào hồn
tồn thay thế được.
Thứ nhất, cơ chế thị trường kích thích hoạt động của chủ thể kinh tế và tạo điều
kiện thuận lợi cho hoạt động tự do của họ. Do đó làm cho nền kinh tế phát triển
năng động, có hiệu quả.


Thứ hai,sự tác động của cơ chế thị trường sẽ đưa đến sự thích ứng tự phát giã khối
lượng và cơ cấu của sản suất ( tổng cung )với khối lượng và cơ cấu nhu cầu của xã
hội ( tổng cầu ). Nhờ đó ta có thể thoả mãn tốt nhu cầu tiêu dùng cá nhân về hàng
vạn sản phẩm khác nhau. Nhiệm vụ này nếu để Nhà nước làm sẽ phải thực hiên
một số cơng việc rất lớn, có khi khơng thực hiện được và địi hỏi chi phí cao trong
quá trình ra các quyết định.
Thứ ba, cơ chế thị trường kích thích đổi mới kĩ thuật, hợp lý hoá sản xuất. Sức ép
của cạnh tranh buộc những người sản xuất phải giảm chi phí sản xuất cá biệt đến
mức tối thiểu bằng cách áp dụng những phương pháp sản xuất tốt nhất như không
ngừng đổi mới kỹ thuật công nghệ sản xuất, đổi mới sản phẩm, đổi mới tổ chức sản
xuất và quản lý kinh doanh, nâng cao hiệu quả.
Thứ tư, cơ chế thị trường thự hiện phân phối các nguồn lực kinh tế một cách tối ưu.
Trong nền kinh tế thị trường, việc lưu động, di chuyển, phân phối các yếu tố sản
xuất, vốn đều tuân theo nguyên tắc của thi trường; chúng sẽ chuyển đến nơi được
sử dụng với hiệu quả cao nhất, do đó các nguồn lự kinh tế được phân bố một cách
tối ưu.
Thứ năm, sự điều tiết của của cơ chế thị trường mềm dẻo hơn sự điều chỉnh của cơ
quan nhà nước và có khả năng thích nghi cao hơn trước, những điều kiện kinh tế
biến đổi, làm thích ứng kịp thời giữa sản xuất xã hội với nhu cầu xã hội.
Nhờ những ưu điểm và tác dụng đó, cơ chế thị trường có thể giải quyết được

những vấn đề cơ bản của tổ chức kinh tế. Nó là cơ chế tốt nhất điều tiết nền sản
xuất xã hội.Tuy nhiên, “sự thành cơng” của cơ chế đó là có điều kiện: Các yếu tố
sản xuất được lưu động, di chuyển dễ dàng, giá cả thị trường có tính linh hoạt


thông tin thị trường phải nhạy, và các chủ thể thị trường phải nắm được đầy đủ
thông tin liên quan.
b. Những khuyết tật của cơ chế thị trường
Cơ chế thị trường là cơ chế tốt nhất điều tiết nền kinh tế thị trường, tuy nhiên cơ
chế thị trường cũng có những khuyết tật vốn có của nó.
Thứ nhất, cơ chế thị trường chỉ thể hiện đầy đủ khi có sự kiểm sốt của cạnh tranh
hồn hảo, khi xuất hiện cạnh tranh khơng hồn hảo, thì hiệu lực của cơ chế thị
trường bị giảm. Chẳng hạn xuất hiện độc quyền, các nhà độc quyền có thể giảm
sản lượng, tăng giá để thu lợi nhận cao, mặt khác, khi xuất hiện độc quyền thì
khơng có sức ép của cạnh tranh đối với việc đổi mới kĩ thuật.
Thứ hai, mục đích hoạt động của các doanh nghiệp là lợi ích tối đa, vì vậy họ có
thể lạm dụng tài nguyên của xã hội gây ơ nhiễm mơi trường sống của con người,
do đó hiệu quả kinh tế – xã hội không được đảm bảo.
Thứ ba, phân phối thu nhập khơng cơng bằng, có những mục tiêu xã hội chủ nghĩa
dù cơ chế thị trường có hoat động trơi trảy thì cũng khơng đạt được. Sự tác động
của cơ chế thị trường sẽ dẫn tới sự phân hoá giàu nghèo, phân cực về của cải, tác
động của cơ chế thị trường sẽ đưa lại hiệu quả kinh tế cao, nhưng nó khơng tự
động mang lại những giá trị mà xã hội muốn vươn tới. Edgar Morin đã nhận xét
chua chát: “Trong các nền văn minh được gọi là phát triển của chúng ta, tồn tại một
tình trạng kém phát triển thảm hại về văn hố, trí não, tình người ”.
Thứ tư, một nền kinh tế do cơ chế thị trường thuần tuý điều tiết khó tránh khỏi
những thăng trầm, khủng hoảng kinh tế có tính chu kỳ và thất nghiệp.


Người ta nhận thấy rằng, một nề kinh tế thị trường hiện đại đưng trước một khó

khăn nan giải của kinh tế vĩ mô: không một nước nào trong một thời gian dài lại có
được lạm phát thấp và đầy đủ cơng ăn việc làm.
Do cơ chế thị trường có một loạt các khuyết tật vốn có của nó, nên trong thực tế
không tồn tại cơ chế thị trường thuần tuý, mà thường có sự can thiệp của nhà nước
để sửa chữa những thất bại của cơ chế thị trường, khi đó nền kinh tế, như người ta
thường gọi, gọi là nền kinh tế hỗn hợp.
VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TR ĐỊNH
HƯỚNG XHCN CỦA VIỆT NAM
Về vai trò quản lý kinh tế của nhà nước, bản chất của Nhà nước ta là Nhà
nước của dân, do dân và vì dân nên với vai trị chủ thể quản lý của nền kinh
tế, Nhà nước phải thực thi quyền lực của nhân dân, bảo vệ lợi ích của quốc
gia, lợi ích của nhân dân đồng thời cũng là cơ quan đại diện cho nhân dân
làm chủ sở hữu mọi tài sản thuộc sở hữu toàn dân. Nhà nước xây dựng mơ
hình kinh tế thị trường và vận hành nền kinh tế bằng cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa. Hiện nay, nền kinh tế
thị trường của ta còn sơ khai nên vai trò quản lý nhà nước rất quan trọng thể
hiện qua các mặt như : Nhà nước phải tạo điều kiện thúc đẩy thị trường ra
đời, đồng thời điều tiết thị trường để nền kinh tế ổn định, phát triển; Nhà
nước phải hạn chế khuyết tật của cơ chế thị trường và khuyết điểm yếu kém
của chính bộ máy Nhà nước khi bộ máy mới chuyển sang quản lý nền kinh
tế thị trường; Nhà nước phải vận hành nền kinh tế bằng cơ chế quản lý mới,
định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với bản chất Nhà nước ta.
Về chức năng quản lý kinh tế, nhà nước thực hiện các chức năng quản lý
kinh tế vĩ mô tập trung với 4 nội dung cơ bản. Một là nhà nước thực hiện


chức năng tạo mơi trường đầu tư an tồn, minh bạch, thuận lợi và bình đẳng
cho hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, bảo đảm sự
ổn định về chính trị, kinh tế, xã hội cho sự phát triển của nền kinh tế, duy trì
pháp luật, trật tự an toàn xã hội, thi hành nhất quán các chính sách và thể chế

theo hướng đổi mới, ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, khống chế lạm phát,
điều tiết các quan hệ thị trường và xây dựng cơ sở hạ tầng đảm bảo điều kiện
cơ bản cho hoạt động kinh tế trong kinh tế thị trường. Hai là nhà nước thực
hiện chức năng định hướng, dẫn dắt và hỗ trợ những nỗ lực phát triển thông
qua chiến lược, kế hoạch, các chính sách kinh tế sử dụng có trọng điểm các
nguồn lực, khai thơng quan hệ kinh tế… Ba là nhà nước thực hiện chức năng
hoạch định và thực hiện các chính sách xã hội, bảo đảm sự thống nhất giữa
phát triển kinh tế và phát triển xã hội. Bốn là kiểm tra và kiểm soát hoạt
động của nền kinh tế trên lĩnh vực sử dụng tài nguyên, tài sản quốc gia, bảo
vệ môi trường, trật tự kỷ cương của nền kinh tế. Bốn chức năng này đều có
vai trị quan trọng như nhau và gắn chặt nhau không thể tách rời.
Nội dung chức năng quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước được thực hiện
bằng việc sử dụng hệ thống các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô : công cụ luật
pháp, công cụ chiến lược chiến lược quy hoạch, kế hoạch, chương trình mục
tiêu và cơng cụ tài chính, tiền tệ giá cả. Do đó, q trình đổi mới cơ chế quản
lý kinh tế gắn với q trình đổi mới và hồn thiện các công cụ quản lý kinh
tế vĩ mô.
Về công cụ luật pháp, nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường trên cơ sở
luật pháp, các văn bản dưới luật. Hệ thống pháp luật là chính là cơ sở pháp
lý cho hoạt động đầu tư, kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, duy trì trật
tự kỷ cương kinh tế, điều chỉnh hành vi của các cá nhân, tổ chức trong kinh
doanh theo các hướng xác định. Chính vì vậy, pháp luật kinh tế phải rõ ràng,
đồng bộ, thực tế, ổn định và phù hợp với luật pháp kinh tế quốc tế.


Về cơng cụ chiến lược, kế hoạch, chương trình kinh tế - xã hội : Nhà
nước thông qua việc hoạch định chiến lược kinh tế xã hội và kế hoạch hóa ở
tầm vĩ mơ để định hướng cho các doanh nghiệp hoạt động và đảm bảo cho
nền kinh tế phát triển theo định hướng đã lựa chọn. Chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội được xem như là sự lựa chọn có căn cứ khoa học các mục

tiêu dài hạn và cơ bản của quá trình phát triển kinh tế- xã hội, gắn với chọn
lọc các phương tiện, biện pháp chủ yếu để đạt mục tiêu đó. Chiến lược được
cụ thể hóa thành các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trong
từng thời kỳ nhằm đảm bảo những cân đối chủ yếu cho nền kinh tế và định
hướng cho sự vận động của nền kinh tế. Chiến lược, kế hoạch phát triển kinh
tế đồng thời cũng phải thể hiện quan điểm phát triển nhanh nhưng bền vững,
với mục tiêu tăng trưởng GDP dựa trên các giải pháp huy động và sử dụng
hiệu quả các nguồn lực, khắc phục những điểm yếu, phát huy mọi thế mạnh,
nắm bắt tốt những cơ hội và dự đoán mọi thách thức, rủi ro để có những giải
pháp ứng phó phù hợp.
Về cơng cụ các chính sách tài chính - tiền tệ - giá cả : đây là những công
cụ chủ yếu của quản lý kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế thị trường bởi lẽ kinh
tế thị trường thực chất là kinh tế tiền tệ. Vì vậy, Nhà nước cần phải nắm các
công cụ này, sử dụng linh hoạt các hình thức biện pháp tài chính, tiền tệ, giá
cả để điều tiết thị trường, tác động vào các giai đoạn và thời kỳ phát triển
của nền kinh tế, nhằm đảm bảo kích thích tăng trưởng nhanh và phát triển
bền vững. Một số chính sách quan trọng mà nhà nước sử dụng để quản lý
điều tiết nền kinh tế thị trường bao gồm :
Một là ngân sách Nhà nước : ngân sách Nhà nước có vai trị quan trọng đối
với việc quản lý vĩ mơ tồn bộ nền kinh tế, nó giúp Nhà nước điều tiết vĩ mơ
trên các lĩnh vực như : điều tiết thị trường, bình ổn giá cả và chống lạm phát,
định hướng phát triển sản xuất, hoạt động đầu tư, hoạt động tài chính, điều


×