Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

TIEU LUAN TRIET HOC THAC SY: NHAN TO CONNGUOI TRONG SUPHAT TRIEN LUC LUONG SAN XUAT VA CHIEN LUOC DAO TAO NGUON NHAN LUC CHAT LUONG CAO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.67 KB, 36 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUY NHƠN

NGUYỄN THỊ THANH HƯƠNG

TIỂU LUẬN
Môn: Triết học

Đề tài “Nhân tố con người trong sự phát triển lực
lượng sản xuất và chiến lược đào tạo nguồn nhân
lực chất lượng cao”

Người hướng dẫn: TS. NGUYỄN THỊ NGỌC THÙY
Quy Nhơn, 12 - 2018

1


A.MỞ ĐẦU
Chúng ta đang sống trong kỷ nguyên của kinh tế tri thức, đòi hỏi mỗi
con người phải được đào tạo trình độ học vấn, năng lực ; tu dưỡng rèn luyện
phẩm chất đạo đức, ý thức lao động tốt hơn để có thể đáp ứng những yêu cầu
của sự biến đổi khoa học cơng nghệ hết sức nhanh chóng.
Trong sự nghiệp đổi mới CNH, HĐH đất nước với những mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, hiện nay, con người
và nguồn nhân lực được coi là nhân tố quan trọng hàng đầu, quyết định sự
phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững nền kinh tế nước ta. Đó là yếu tố hết
sức cần thiết và cần có tính cập nhật, đáp ứng được yêu cầu về con người và
nguồn nhân lực xét trong nước ta nói riêng và quốc tế nói chung. Chúng ta
khẳng định con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của phát triển kinh tế
xã hội đồng thời phải là những con người có tri thức và đạo đức. Từ đây mỗi


con người dần dần về đúng vị trí là một chủ thể sáng tạo ra các giá trị, bao
gồm các giá trị tinh thần và giá trị vật chất, cho bản thân và cho xã hội. Vì
vậy, vấn đề cốt lõi là, ta phải thực hiện chiến lược giáo dục đào tạo nguồn
nhân lực, phát triển con người một cách tồn diện cả thể lực lẫn trí lực.
Nhiệm vụ của giáo dục đào tạo là đưa con người đạt đến những giá trị phù
hợp với đặc điểm văn hoá và những yêu cầu mới đặt ra đối với con người
Việt Nam để thực hiện sự nghiệp CNH, HĐH trong thời kỳ quá độ của nước
ta cũng như xu hướng phát triển kinh tế nói chung trên thế giới. Vì vậy việc
tìm hiểu “nhân tố con người trong sự phát triển lực lượng sản xuất và chiến
lược đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao” đóng vai trị hết sức quan
trọng nhằm đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nưóc
hiện nay .

2


I-KHÁI NIỆM LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ VAI TRÒ NHÂN
TỐ CON NGƯỜI TRONG LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT
1. Khái niệm lực lượng sản xuất.
a. Định nghĩa và tính chất lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất là tổng thể các nhân tố vật chất kỹ thuật đựơc sử
dụng trong các quá trình sản xuất của xã hội tức là trong quá trình con người
cải tạo, cải biến giới tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu tồn tại và phát triển
của mình.
Như vậy, xét về mặt tính chất thì khái niệm lực lượng sản xuất, nó
phản ánh một số tính chất căn bản sau:
Trước hết, nó phản ánh quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá
trình sản xuất. Là động vật cao cấp nhất, là tinh hoa của muôn lồi, con
người là sản phẩm của q trình phát triển hết sức lâu dài của giới tự nhiên.
Con ngưòi phải tìm kiếm mọi điều kiện cần thiết cho sự tồn tại trong đời

sống tự nhiên như thức ăn, thức uống, nhà để ở.v.v... Theo một số nhà nhân
học khẳng định nhánh người bắt đầu hình thành rõ cách đây khoảng 10 triệu
năm bắt đầu từ “vượn người ”. Khi đó vượn người đã biết sử dụng gậy gộc,
đá, xương động vật làm công cụ và bắt đầu biết chế tạo công cụ lao động thô
sơ cũng như dùng lửa. Nhưng cuộc sống của loài vượn vẫn theo quy luật
sinh vật: sống hoà lẫn vào thiên nhiên, sinh sống hoàn toàn tuỳ theo bản
năng vốn có trong cơ thể và những thứ sẵn có trong tự nhiên, có thể nói là
hồn toàn phụ thuộc vào tự nhiên.Theo thời gian vượn người tiến hố thành
người khéo, người đứng thẳng, người khơn và con người hiện đại ngày nay.
3


Nhưng sự tiến hố ấy khơng làm thay đổi mối quan hệ mật thiết giữa con
người với tự nhiên. Ngày nay, con người vẫn đang chinh phục tự nhiên bằng
nhiều hình thức và phương pháp khác nhau. Như vậy, ngay từ thời kỳ sơ
khai nhất, con người đã biết dựa vào những thứ vốn có trong tự nhiên để cải
biến nó theo nhu cầu sinh tồn và phục vụ nhu cầu sống của mình. Do đó, ta
thấy rõ một sự thật tất yếu khách quan là con người không thể tồn tại nếu
khơng có mối quan hệ mật thiết, gắn kết chặt chẽ với tự nhiên.
Đồng thời nó cũng thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con
người cụ thể hơn là biểu hiện mức độ, khả năng chinh phục tự nhiên của con
người.
Trong thời nguyên thuỷ con người chỉ mới sử dụng những công cụ hết
sức thô sơ, hầu hết là những công cụ thủ công vào quá trình lao động sản
xuất. Do đó năng suất lao động thấp kém, con người chưa tạo ra nhiều của
cải dư thừa có khả năng trao đổi với nhau phục vụ nhu cầu sống hết sức sinh
động, phong phú của mình. Điều đó phản ánh trình độ chinh phục tự nhiên
vẫn còn thấp kém. Cho đến khi chuyển sang chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ
phong kiến, con người đã dần sáng tạo ra các công cụ lao động tiến bộ hơn
song về bản chất nó vẫn mang tính thủ công. Do vậy, mặc dù sản phẩm lao

động làm ra ngày một phong phú hơn song trong quá trình lao động sản xuất
vẫn còn dựa vào sức người - mặt thể lực là chính, cần nhiều thời gian và
quan trọng hơn vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng đa dạng của con
người. Sang chế độ tư bản chủ nghĩa, con người đã tạo ra hàng loạt những
máy móc hết sức hiện đại để phục vụ vào quá trình lao động sản xuất, khai
thác tài nguyên thiên nhiên, cải biến nó thành những vật dụng và sản phẩm
có giá trị, chất lượng cao, phong phú về hình thức, đa dạng về chủng loại,
mẫu mã. Đặc biệt cuộc cách mạng công nghiệp diễn ra bắt đầu từ thế kỷ
4


XVII suốt cho đến ngày nay đã nhanh chóng làm biến đổi bộ mặt kinh tế xã
hội của thế giới. Theo đánh giá của C.Mác và Ph.Ăngghen: “chỉ sau hơn hai
thế kỷ tồn tại, chủ nghĩa tư bản đã tạo ra một khối lượng của cải vật chất
nhiều hơn tất cả các thời đại trước gộp lại”. Như thế trình độ chinh phục tự
nhiên của con người đã bước lên một mốc son mới, đánh dấu một bước phát
triển cao của tiến bộ lồi người. Cũng chính trong giai đoạn này con người
đã dần dần chiếm thế chủ động trong quá trình lao động sản xuất.
Mặt khác lực lượng sản xuất, có tính khách quan trong q trình sản
xuất. Thật vậy, khơng có một q trình sản xuất nào mà lại không cần đến
sức lao động của con người hay những yếu tố sẵn có trong tự nhiên. Nói
cách khác, trong q trình sản xuất vật chất khơng thể khơng cần đến lực
lượng sản xuất.
b. Cấu trúc lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất bao gồm người lao động và tư liệu sản xuất.
Hoạt động lao động sản xuất vừa là điều kiện cho sự tồn tại của con
người vừa là phương thức để làm biến đổi đời sống và bộ mặt xã hội.
Chính những người lao động là chủ thể của quá trình lao động sản
xuất, với sức mạnh và kĩ năng lao động của mình, sử dụng tư liệu lao động
trước hết là công cụ lao động, tác động vào đối tượng lao động để sản xuất

ra của cải vật chất.
Bước kinh tế tri thức, sự phát triển của lực lượng sản xuất biểu hiện ở
hai mặt : Trí lực đóng vai trị chủ đạo, tức là sẽ xuất hiện một tầng lớp lao
động trí óc đơng đảo hợp thành chủ thể trong đội ngũ những người lao động.

5


Những nhân tố mới thúc đẩy lực lượng sản xuất sẽ được phát triển rộng
khắp.
Tư liệu sản xuất bao gồm tư liệu lao động và đối tượng lao động. Con
người không thể sản xuất vật chất mà không cần đến những yếu tố sẵn có
trong tự nhiên như đất, nước, khống sản, khơng khí, … Đó chính là những
đối tượng lao động. Đặc trưng nổi bật của công cụ sản xuất và đối tượng lao
động biểu hiện chủ yếu ở sự gia tăng hàm lượng khoa học và công nghệ,
cuối cùng là hàm lượng tri thức được kết tinh trong sản phẩm ngày càng
nhiều.
Còn tư liệu lao động là những phương tiện, công cụ lao động mà con
người sử dụng để tác động vào đối tượng lao động, sản xuất ra của cải vật
chất. Thông qua các công cụ của họ đã chứng tỏ họ có hoạt động lao động và
đây cũng chính là ranh giới tách người ra khỏi giới sinh vật nói chung, thế
giới động vật nói riêng.
c. Tính chất đặc biệt của lực lượng sản xuất hiện đại.
Trong sự phát triển của lực lượng sản xuất, khoa học đóng vai trị
ngày càng to lớn. Sự phát triển của khoa học gắn liền với sản xuất là động
lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển. Ngày nay, khoa học đã phát triển
đến mức trở thành nguyên nhân trực tiếp của nhiều biến đổi to lớn trong sản
xuất, trong đời sống và trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Những phát minh khoa học trở thành thang điểm xuất phát ra đời
những ngành sản xuất mới, những máy móc thiết bị mới, cơng nghệ mới

ngun vật liệu mới, năng lượng mới. Sự thâm nhập ngày càng sâu của khoa
học vào sản xuất, cụ thể là vào người lao động và tư liệu sản xuất, trở thành
một yếu tố không thể thiếu được trong sản xuất đã làm cho lực lượng sản
6


xuất có bước phát triển nhảy vọt, tạo thành cách mạng khoa học cơng nghệ
hiện đại.
Yếu tố trí lực trong sức lao động đặc trưng cho lao động hiện đại
không cịn là kinh nghiệm và thói quen của họ mà là tri thức khoa học. Như
vậy, dù không phải là yếu tố thứ ba của lực lượng sản xuất nhưng có thể nói
khoa học và cơng nghệ hiện đại là đặc trưng cho lực lượng sản xuất hiện đại.
2. Vai trò của con người trong lực lượng sản xuất .
a. Khái niệm con người.
Vấn đề con người luôn là chủ đề trung tâm của lịch sử triết học từ thời
cổ đại đến hiện đại. Trong đó quan niệm của triết học Mac-Lênin về con
người và bản chất con người, xuất phát từ góc độ khái quát nhất, đứng trên
lập trường duy vật biện chứng, làm cơ sở phương pháp luận cho việc giải
quyết những vấn đề khác của con người, có thể nói là đúng đắn nhất cho tới
ngày nay.
Trước hết con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với
mặt xã hội. Tiền đề vật chất đầu tiên quy định sự tồn tại của con người là sản
phẩm của thế giới tự nhiên. Con người là một bộ phận của tự nhiên.Con
người không thể tồn tại mà thốt ly khỏi q trình tất yếu đó là sinh ra, phát
triển rồi chết đi. Trải qua hàng chục vạn năm, con người đã thay đổi từ vượn
thành người điều đó được chứng minh trong các cơng trình nghiên cứu của
nhà Bác học ĐacUyn. Những thuộc tính, những đặc điểm sinh học, quá trình
tâm sinh lý, các giai đoạn phát triển khác nhau nói lên bản chất sinh học của
cá nhân con người.


7


Tuy nhiên, mặt tự nhiên không phải là yếu tố duy nhất quy định bản
chất con người . Đặc trưng quy định sự khác biệt giữa con người với thế giới
lồi vật là mặt xã hội. Thơng qua hoạt động lao động, sản xuất con người sản
xuất ra của cải vật chất và tinh thần phục vụ đời sống của mình hình thành
và phát triển ngơn ngữ và tư duy, xác lập quan hệ xã hội. Bởi vậy, lao động
là yếu tố quyết định hình thành bản chất xã hội của con người đồng thời hình
thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã hội.
Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát
triển của con người luôn bị quyết định bởi các hệ thống quy luật khác nhau
nhưng thống nhất với nhau. Chúng cùng tác động, tạo nên thể thống nhất
hoàn chỉnh trong đời sống con người bao gồm cả mặt sinh học và mặt xã
hội. Mối quan hệ sinh học và xã hội là cơ sở để hình thành các nhu cầu về
sinh học và nhu cầu xã hội trong đời sống con người như nhu cầu ăn, mặc, ở,
nhu cầu tái sản xuất xã hội, nhu cầu tình cảm, nhu cầu thẩm mỹ, nhu cầu
hưởng thụ các giá trị tinh thần.
Như vậy ta thấy rõ mặt sinh học là cơ sở tất yếu tự nhiên của con
người còn mặt xã hội là đặc trưng bản chất nhất để phân biệt con người với
loài vật. Hai mặt trên thống nhất với nhau để tạo nên con người tự nhiên- xã
hội hay một thực thể song trùng.
Để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người Mác đã nêu trong luận
đề nổi tiếng Luận cương về Phoiơbăc: “bản chất con người không phải là
một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của
nó, bản chất con người là tổng hoà các quan hệ xã hội”.
Trong đời sống con người, xét trên ba phương diện khác nhau: quan
hệ giữa con người với tự nhiên, với xã hội và chính bản thân con người, suy
8



đến cùng đều mang tính xã hội. Nhưng có thể nói quan hệ giữa con người
với con người là quan hệ bản chất nhất bao trùm lên các mối quan hệ khác.
Thực tế lịch sử đã chứng minh khơng có một cá nhân nào có thể tự đáp ứng
đầy đủ nhu cầu của bản thân cũng như không thể lao động một cách độc lập
tuyệt đối để sản xuất vật chất mà phải liên kết lại với nhau, phân công lao
động và trao đổi sản phẩm cho nhau. Từ đó hình thành các quan hệ xã hội,
điều chỉnh và chi phối hoạt động, hành vi của con người. Chỉ trong tồn bộ
các mối quan hệ đó, con người mới bộc lộ tồn bộ bản chất của mình. Trong
điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, bằng hoạt động thực tiễn của mình, con
người sản xuất ra của cải vật chất đồng thời hồn thiện bản thân mình
Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử. Khơng có giới tự
nhiên, khơng có lịch sử xã hội thì khơng tồn tại con người. Bởi vậy con
người là sản phẩm của lịch sử. Song điều quan trọng là con người luôn luôn
là chủ thể của lịch sử - xã hội.
Con người sáng tạo ra lịch sử, nhưng không bao giờ sáng tạo ra lịch
sử trong những hoàn cảnh và điều kiện được lựa chọn, mà trong hoàn cảnh
và điều kiện sẵn có do quá khứ để lại. Do đó, ta phải luôn chú ý tới mối quan
hệ hai chiều giữa hiện tại và quá khứ, đặc biệt là môi trường sống của con
người. Thông qua môi trường sống, con người có sự tác động qua lại lẫn
nhau thực hiện các quan hệ xã hội tạo nên bản chất người, làm cho con
người khác với con vật.
b. Con người là nhân tố trung tâm có tính quyết định lực lượng
sản xuất.
Trong các yếu tố của lực lượng sản xuất, “lực lượng sản xuất hàng đầu
của tồn thể nhân loại là cơng nhân là người lao động”. Con người là nhân
9


vật chính của lịch sử, vừa là mục tiêu, vừa là động lực để phát triển xã hội,

nhân tố con người vừa là phương tiện sáng tạo ra mọi giá trị của cải vật chất
và tinh thần, sáng tạo và hồn thiện ngay chính bản thân mình đồng thời vừa
là chủ nhân sử dụng có hiệu quả mọi tài sản vơ giá ấy. Trên phương diện đó,
vai trị nhân tố con người lao động trong lực lượng sản xuất là yếu tố động
nhất sáng tạo nhất của quá trình sản xuất. Nhân tố trung tâm của con người
chính là sức lao động bao gồm thể lực và trí lực. Khơng có người lao động
nào trong q trình sản xuất vật chất lại không cần đến lao động thể lực hay
lao động cơ bắp. Chính những người lao động là chủ thể của quá trình lao
động sản xuất, với sức mạnh và kĩ năng lao động của mình, sử dụng tư liệu
lao động trước hết là công cụ lao động, tác động vào đối tượng lao động để
sản xuất ra của cải vật chất. Cùng với quá trình lao động sản xuất, sức mạnh
và kỹ năng lao động của con người khơng ngừng được tăng lên, đặc biệt là
trí tuệ của con người ngày càng phát triển. Trong q trình đó khơng những
con người sử dụng trí tuệ nội tại của mình mà cịn được kế thừa những kinh
nghiệm qua học hỏi lẫn nhau giữa những người lao động cho nên có thể nói
kinh nghiệm cũng là một lực lượng sản xuất. Kinh nghiệm được tích luỹ dần
trở thành kỹ năng và cao hơn nữa nó có thể trở thành tri thức khoa học, kỹ
thuật, cơng nghệ.
Vai trị con người trong thời đại mới là cần hiểu sâu sắc những giá trị
lớn lao và ý nghĩa quyết định của nhân tố con người, chủ thể của mọi sáng
tạo, mọi nguồn của cải vật chất và văn hoá, mọi nền văn minh của các quốc
gia….Con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong
phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức là động lực của sự nghiệp xây dựng
xã hội mới, đồng thời là mục tiêu của Chủ Nghĩa Xã Hội.

10


Hơn nữa, các nhân tố khác đều là sản phẩm của người lao động . Chỉ
có nhân tố con người mới có thể làm thay đổi được cơng cụ sản xuất làm cho

sản xuất ngày càng phát triển với năng suất và chất lượng cao, thay đổi quan
hệ sản xuất và các quan hệ xã hội khác. Công cụ lao động thô sơ hay hiện
đại, xấu hay tốt, phụ thuộc trực tiếp vào nhân tố con người. Giới tự nhiên nói
chung và đối tượng lao động nói riêng, chỉ là những vật vơ tri vơ giác mà
thơi. Nó chỉ có ý nghĩa khi trở thành sản phẩm phục vụ nhu cầu của con
người. Muốn vậy tất yếu người lao động phải tác động vào tư liệu sản xuất
để sản sinh ra nó. Như thế q trình sản xuất vật chất khơng thể thốt ly khỏi
lao động của con người. Trong thời đại mới, nhân tố con người có tri thức
ngày càng đóng vai trị quyết định hơn trong lực lượng sản xuất. Có thể
khẳng định rằng nhân tố con người đóng vai trị quyết định q trình lao
động sản xuất ra của cải vật chất.
II.CHIẾN LƯỢC ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT
LƯỢNG CAO THEO HƯỚNG CNH, HĐH Ở VIỆT NAM TRONG
THỜI KÌ Q ĐỘ.
1. Tính tất yếu khách quan và nội dung CNH, HĐH của Việt Nam
trong thời kí quá độ.
a. Tính tất yếu khách quan nước ta phải CNH, HĐH.
Mỗi phương thức sản xuất đều ra đời và tồn tại trên một cơ sở vật chất
kỹ thuật tương ứng với nó. Cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH là một nền
công nghiệp lớn hiện đại, trước hết là cơng nghiệp nặng có đủ khả năng
trang bị kỹ thuật hiện đại cho công nghiệp và các ngành khác trong nền kinh
tế quốc dân, nhằm không ngừng phát triển nền sản xuất lớn x ã hội chủ
nghĩa và cải thiện đời sống nhân dân.
11


CNH, HĐH là q trình chuyển đổi căn bản tồn diện hoạt động kinh
tế, dịch vụ và quản lý từ trạng thái sử dụng sức lao động là chính sang trạng
thái sử dụng sức lao động kết hợp với kỹ thuật công nghệ hiện đại tạo ra
năng suất lao động ngày càng cao.

CNH, HĐH là một tính quy luật để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật
cho CNXH. Cơ sở vật chất kỹ thuật của một phương thức sản xuất là tồn bộ
những tư liệu vật chất trong đó chủ yếu là công cụ sản xuất mà lao động
trong xã hội sử dụng. Cơ sở vật chất kỹ thuật của phương thức sản xuất
trước tư bản là hết sức lạc hậu, chủ yếu là công cụ lao động thủ công. Trong
chủ nghĩa tư bản nền đại công nghiệp cơ khí hố đã tạo cái cốt cho chủ
nghĩa tư bản tồn tại. Nó tự khẳng định mình là một phương thức sản xuất
thống trị trong lịch sử. Việt Nam quá độ lên CHXH bỏ qua giai đoạn tư bản
thiếu một tiền đề vật chất kỹ thuật mà chủ nghĩa tư bản để lại. Mặt khác,
Việt Nam là một nước có nền kinh tế kém phát triển, chưa có nền sản xuất
lớn dựa trên nền tảng cơng nghiệp lớn. Do đó để xây dựng CNXH tất
yếunướctaphảiCNH,HĐH.
Gắn CNH với HĐH làm cho kinh tế nước ta dần đạt tới trình độ tiên
tiến của thế giới. Thời đại ngày nay, cách mạng khoa học công nghệ là một
đặc trưng, khoa học công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, nó vừa
là nền tảng vừa là động lực của quá trình CNH. Đồng thời gắn CNH với
HĐH sẽ tránh được nguy cơ tụt hậu xa về kinh tế giữa nước ta với các nước
trên thế giới, đặc biệt là các nước có nền kinh tế phát triển.
Hơn nữa CNH là cần thiết và có nhiều tác dụng. Đó là :
. Thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển cao dẫn đến năng suất lao
động cũng cao.
12


. Củng cố quan hệ sản xuất mới đảm bảo cho sự thắng lợi hồn tồn
trong cơng cuộc xây dựng CNXH nước ta.
. Tạo ra những điều kiện cho sự phát triển văn hoá giáo dục. Bản thân
sự nghiệp xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật đòi hỏi quần chúng phải có trình
độ giác ngộ cách mạng, trình độ văn hố, trình độ khoa học ngày càng cao.
. Tạo ra cơ sở cho việc phát triển kinh tế đối ngoại.

. Để xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ phải có một nền cơng
nghiệp hiện đại tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế quốc dân, đảm bảo an tồn
lương thực.
. Nó là cơ sở vật chất cho củng cố an ninh quốc phòng, độc lập dân
tộc và CNXH được bảo vệ vững chắc.
b. Nội dung CNH, HĐH nước ta.
Thực chất CNH, HĐH là chuyển nền kinh tế từ lao động thủ cơng
sang lao động cơ khí hay nói cách khác là tiến hành trang bị kỹ thuật hiện
đại cho nền kinh tế quốc dân. Không tiến hành cách mạng kỹ thuật thì khơng
thể biến một nước nơng nghiệp lạc hậu thành một nước có nền sản xuất lớn.
Nó sẽ làm thay đổi đến tận gốc rễ lực lượng sản xuất của xã hội . Trước tiên
phải làm biến đổi công cụ lao động - thước đo trình độ chinh phục tự nhiên
của con người và là cơ sở phân biệt các thời đại với nhau. Muốn vậy ta phải
thực hiện nghiên cứu ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ hiện đại trên
thế giới. Một yếu tố khơng thể thiếu nữa, đó là ta phải phát huy được lợi thế
so sánh. Ta đi sau cạnh tranh, thu hút, sử dụng công nghệ hiện đại của nước
bạn thơng qua việc chuyển giao cơng nghệ. Việc đó được tiến hành từ các
nước khác chuyển sang nước ta bao gồm quyền sở hữu, quyền sử dụng, bao
13


gồm cả phần cứng tức máy móc thiết bị và phần mềm tức phương pháp và
cơng nghệ. Nhờ đó cho phép ta khai thác được các nguồn lực trong nước và
khắc phục được nguy cơ tụt hậu kinh tế cũng như thúc đẩy nền sản xuất
hướng về xuất khẩu ra thị trường quốc tế.
Ngoài ra, ta phải xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý. Cơ cấu kinh tế
là tổng thể các ngành, vùng kinh tế trong đó cơ cấu kinh tế ngành là quan
trọng được cân đối về quy mô, về tỉ trọng, phù hợp điều kiện của tự nhiên và
xu hướng phân công hợp tác lao động quốc tế. Trước hết, nó phải phù hợp
với các quy luật khách quan và xu thế phát triển của khoa học công nghệ

đồng thời phát huy được lợi thế so sánh trong nước. Để xây dựng một cơ cấu
kinh tế hợp lý phải chuyển dịch cơ cấu gắn liền với phân cơng lại lao động
xã hội theo một tính quy luật. Trong đó tỉ trọng lao động trong ngành cơng
nghiệp gia tăng, nơng nghiệp giảm cịn dịch vụ tăng lên. Tuy nhiên phải luôn
luôn đảm bảo tỉ trọng hợp lý giữa chúng một cách tương đối so với nhau.
Mặt khác, tỉ trọng lao động giản đơn, lao động cơ bắp giảm còn lao động
phức tạp tăng lên.
2. Chiến lược phát triển đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao
nước ta.
a. Vai trò và thực trạng nguồn nhân lực nước ta.
Trong các nguồn lực có thể khai thác như nguồn lực tự nhiên, nguồn
lực khoa học công nghệ, nguồn lực con người thì nguồn lực con người là
quyết định nhất bởi lẽ những nguồn lực khác chỉ có thể khai thác có hiệu quả
khi nguồn lực con người được phát huy. Những nguồn lực khác ngày càng
cạn kiệt, ngược lại nguồn lực con người ngày càng đa dạng và phong phú.

14


Các lĩnh vực khoc học khác nhau có thể hiểu nguồn lực theo những
cách khác nhau, nhưng chung nhất nguồn lực là một hệ thống các nhân tố
mà mỗi nhân tố đó có vai trị riêng nhưng có mối quan hệ qua lại lẫn nhau
tạo nên sự phát triển của một sự vật, hiện tượng nào đó. Từ cách hiểu như
vậy, nguồn lực con người là những yếu tố có thể huy động, sử dụng để thúc
đẩy nền kinh tế đất nước và sự phát triển xã hội. Khi chúng ta nói tới nguồn
lực con người là nói tới con người với tư cách là chủ thể của quá trình sáng
tạo tham gia cải tạo tự nhiên, làm biến đổi xã hội.
Tỷ trọng (%) các khối kinh tế trong GDP
Năm


Nông nghiệp

Công nghiệp

Dịch vụ

2011

32

38

30

2020

17

40

43

[Nguồn : Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011 – 2020]
Nói đến nguồn lực con người là nói đến chất lượng và số lượng nguồn
nhân lực. Chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau. Thực trạng đó ở nước ta như
sau:
• Cơ cấu ngành cịn bất hợp lý.
• Cơ cấu vùng miền chưa hợp lý. Bình quân chung nước ta là 118 sinh
viên/ 1 vạn dân, nhưng Tây Bắc là17 sinh viên/ 1 vạn dân.


15


• Hình thức đào tạo: - Chính quy : 509637- Chuyên tu, tại chức:
235975
Tỉ lệ giáo viên/ sinh viên còn cao dẫn đến giáo viên phải làm việc “chạy xơ”.
• Trong dạy nghề có 157 trường dạy nghề, hơn 190 trường đại học
nhưng đầu tư kinh tế còn nhỏ.
[Tổng kết mười năm (1990 - 2000) xoá mù chữ và phổ cập giáo dục
tiểu học]
Như thế nền kinh tế nước ta chủ yếu dùng sức người với một số yếu tố
của tri thức.
b. Quan điểm của Đảng về phát triển giáo dục đào tạo nguồn
nhân lực chất lượng cao
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định : “Con người và
nguồn nhân lực là nhân tố quyết định sự phát triển đất nước trong thời kỳ
CNH, HĐH cần tạo chuyển biến cơ bản toàn diện về GDĐT….Đào tạo lớp
người lao động có kiến thức cơ bản làm chủ kỹ năng, nghề nghiệp, quan tâm
hiệu quả thiết thực, nhạy cảm với cái mới có ý thức vươn lên về khoa học và
công nghệ. Xây dựng đội ngũ công nhân lành nghề, các chuyên gia và nhà
khoa học, nhà văn hoá, nhà kinh doanh, nhà quản lý. Chính sách sử dụng lao
động và nhân tài phải tận dụng mọi năng lực phát huy, mọi tiềm năng của
các tập thể và cá nhân phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. ”
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã xác định rõ mục tiêu của chiến
lược phát triển kinh tế -xã hội 10 năm (2001-2010 ) là : “Đưa nước ta ra khỏi
tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh
thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành
16



nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa
học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế quốc phòng an ninh được
tăng cường, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được
hình thành về cơ bản, vị thế của nước ta trêntrườngquốctếđượcnângcao”.
Tại Đại hội X, Đảng chủ trương: Đổi mới toàn diện giáo dục và đào
tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Có những điểm cần chú ý:
- Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện; đổi mới cơ cấu tổ chức, cơ
chế quản lý, nội dung, phương pháp dạy và học; thực hiện "chuẩn hoá, hiện
đại hoá, xã hội hoá", chấn hưng nền giáo dục Việt Nam, chuyển dần mơ hình
giáo dục hiện nay sang mơ hình giáo dục mở - mơ hình xã hội học tập với hệ
thống học tập suốt đời, đào tạo liên tục, đổi mới mạnh mẽ giáo dục mầm non
và giáo dục phổ thong, phát triển mạnh hệ thống giáo dục nghề nghiệp, tăng
nhanh quy mô đào tạo cao đẳng nghề, trung cấp nghề cho các khu công
nghiệp, các vùng kinh tế động lực và cho việc xuất khẩu lao động. Mở rộng
mạng lưới cơ sở dạy nghề, phát triển trung tâm dạy nghề quận, huyện, đổi
mới hệ thống giáo dục đại học và sau đại học, gắn đào tạo với sử dụng, trực
tiếp phục vụ chuyển đổi cơ cấu lao động, phát triển nhanh nguồn nhân lực
chất lượng cao, nhất là chuyên gia đầu ngành,
gia chăm lo sự nghiệp giáo dục. Phối hợp chặt chẽ giữa ngành giáo dục
với các ban, ngành, các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp...
để mở mang giáo dục, tạo điều kiện học tập cho mọi thành viên trong xã
hội. Tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát các hoạt động giáo dục, đổi
mới cơ chế quản lý giáo dục. Phân cấp, tạo động lực và sự chủ động của các
cơ sở, các chủ thể tiến hành giáo dục, tăng cường hợp tác quốc tế về giáo
dục và đào tạo. Tiếp cận chuẩn mực giáo dục tiên tiến của thế giới phù hợp
với yêu cầu phát triển của Việt Nam; tham gia đào tạo nhân lực khu vực và
17


thế giới. Có cơ chế quản lý phù hợp đối với các trường do nước ngoài đầu tư

hoặc liên kết đào tạo.
Đại hội Đảng lần thứ XI (2011) làm sáng tỏ thêm một số nội dung
mới. Thể hiện ở những điểm sau: “con người có cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc, có điều kiện phát triển tồn diện”. Để phấn đấu đến năm 2020,
Việt Nam trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại và thực hiện
được mục tiêu phát triển con người mà Cương lĩnh 2011 đề ra, Đảng ta nêu
ra quan điểm: "Mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người, coi con
người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển”.
Hai là, Đảng ta lựa chọn phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn
nhân lực chất lượng cao, là khâu đột phá của chiến lược phát triển kinh tế xã hội từ nay đến năm 2020.
Ba là, đặt ra yêu cầu phải “gắn kết chặt chẽ giữa phát triển nguồn nhân lực
với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ”.
Đại hội XII của Đảng xác định đổi mới căn bản toàn diện giáo dục,
đào tạo; phát triển nguồn nhân lực là một trong những định hướng lớn để
hiện thực hóa mục tiêu phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại. Nội dung quan điểm của Đại hội XII là
bước phát triển mới trong tư duy lý luận của Đảng về giáo dục và đào tạo.
Đại hội XII của Đảng đề ra 12 nhiệm vụ tổng quát, trong đó có nhiệm
vụ: “Đổi mới căn bản và tồn diện giáo dục, đào tạo, nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực”1. Đây là một trong những nội dung căn bản được xác định
trong Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương. Nội dung của Báo
cáo Chính trị đã vạch ra phương hướng, nhiệm vụ, chủ trương, giải pháp đổi
mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo gắn với phát triển nguồn nhân
lực nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, mở
18


cửa và hội nhập quốc tế. Đây cũng là quan điểm tổng quát, bao trùm của
Đảng về giáo dục và đào tạo được xác định ở tầm đại hội đại biểu toàn quốc
của Đảng.

Nội dung quan điểm về phát triển nguồn nhân lực được thể hiện
xuyên suốt trong các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng
và được xác định là một trong sáu nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ Đại hội.
Đó là việc tiếp tục thực hiện có hiệu quả ba đột phá chiến lược là: hoàn thiện
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất
lượng cao; xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ.
Báo cáo phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020 cũng xác định: “Thực
hiện đồng bộ các cơ chế, chính sách, giải pháp phát triển nguồn nhân lực, nhất
là nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội”. Trong
đó tập trung cho giải pháp đào tạo, đào tạo lại nguồn nhân lực trong nhà trường
cũng như trong quá trình sản xuất kinh doanh, chú trọng nâng cao tính chuyên
nghiệp và kỹ năng thực hành. Phát triển hợp lý, hiệu quả các loại hình trường
ngồi cơng lập đối với giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học.
Kế thừa những tư tưởng cơ bản của các kỳ đại hội Đảng và các nghị quyết
về giáo dục và đào tạo trước đây, Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định
“Giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Giáo dục và đào tạo là chủ trương, chính
sách được quan tâm hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta. Chính sách giáo dục
và đào tạo là chính sách do Nhà nước đặt ra nhằm điều chỉnh lĩnh vực giáo dục
và đào tạo theo những mục tiêu cụ thể.
Kế thừa quan điểm các kỳ đại hội của Đảng, Đại hội XII tiếp tục khẳng định:
“Phát triển giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục chủ yếu từ trang bị kiến thức
19


sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học; học đi đôi với
hành, lý luận gắn với thực tiễn”.
Đại hội XII của Đảng khẳng định: “Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn
với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc với tiến bộ

khoa học - công nghệ yêu cầu phát triển nguồn nhân lực và thị trường lao
động”.
“Giáo dục con người Việt Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm
năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình, yêu Tổ quốc, yêu đồng
bào; sống tốt và làm việc hiệu quả. Phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt
Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực” là mục tiêu tổng quát của sự nghiệp
phát triển giáo dục và đào tạo nước nhà trong những năm tới. Mục tiêu này
hướng đến xây dựng một nền giáo dục hiện đại, nhân văn đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ mở cửa hội nhập quốc tế. Đây
cũng là quan điểm thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục mang triết lý
và hướng đích nhân văn của việc học là học để làm người. Đồng thời cũng là
điều mà Người hằng mong muốn: nền giáo dục mới của nước nhà phải đào tạo
ra những con người mà sánh vai cùng các cường quốc năm châu, phải hướng
tới đào tạo ra những thế hệ “vừa hồng vừa chuyên”, có đủ cả “đức và tài” để kế
tục xứng đáng sự nghiệp cách mạng của cha anh. Thực hiện thắng lợi mục tiêu
phát triển giáo dục và đào tạo sẽ góp phần hiện thực hóa mục tiêu tổng quát
phát triển đất nước do Đại hội XII của Đảng vạch ra là: “Phấn đấu sớm đưa
nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”.
Đại hội XII của Đảng khẳng định: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ
các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm
chất, năng lực của người học”.
Đây là sự tiếp tục khẳng định quan điểm của Nghị quyết Trung ương 8 khóa
XI. Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề
20


lớn cốt lõi, cấp thiết, từ tư duy, quan điểm đến mục tiêu, hệ thống, chương trình
giáo dục, các chính sách, cơ chế và các điều kiện đảm bảo chất lượng giáo dục.
Đổi mới ở tất cả các cấp học và trình độ đào tạo ở cả trung ương và địa
phương, ở cả mối quan hệ giữa gia đình, nhà trường và xã hội. Đổi mới để tạo

rachuyển biến mạnh mẽ về chất lượng và hiệu quả giáo dục đáp ứng ngày càng
tốt hơn yêu cầu, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong
tình hình mới, đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng tăng của các tầng lớp nhân
dân.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII khẳng định: “Hoàn thiện hệ thống
giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống giáo dục mở, học tập suốt đời và xây
dựng xã hội học tập”. Đổi mới hệ thống giáo dục theo hướng mở, linh hoạt
liên thơng giữa các bậc học, trình độ và các phương thức giáo dục đào tạo.
Chuẩn hóa, hiện đại hóa giáo dục và đào tạo. Xây dựng hệ thống giáo dục mở,
thực học, thực nghiệm, dạy tốt, học tốt, quản lý tốt; có cơ sở và phương thức
giáo dục hợp lý, gắn với xây dựng xã hội học tập; chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân
chủ hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế hệ thống giáo dục và đào tạo; giữ vững
định hướng xã hội chủ nghĩa và dân tộc. Tạo chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về
chất lượng, hiệu quả, giáo dục đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn công cuộc
xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu học tập của nhân dân.
Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý là một nhiệm vụ quan trọng
được Đảng ta xác định từ các đại hội trước. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XI của Đảng khẳng định: Cùng với đổi mới cơ chế quản lý phát
triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục là khâu then chốt của đổi mới
văn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI đề ra
yêu cầu: Nâng cao nhận thức về vai trò quyết định chất lượng giáo dục và đào
tạo của đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Kế thừa và phát triển
quan điểm của các đại hội trước, Đại hội XII của Đảng khẳng định: “Phát triển
21


đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và đào
tạo. Thực hiện chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo theo từng cấp học và trình độ đào
tạo”.
Khắc phục tình trạng đầu tư cho giáo dục và đào tạo chưa hiệu quả; chính

sách, cơ chế tài chính cho giáo dục và đào tạo chưa phù hợp; cơ sở vật chất kỹ thuật còn thiếu và lạc hậu, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó
khăn, Đại hội XII của Đảng chỉ ra: “Đổi mới chính sách, cơ chế tài chính, huy
động sự tham gia đóng góp của tồn xã hội; nâng cao hiệu quả đầu tư để phát
triển giáo dục và đào tạo”. Đây là một giải pháp cơ bản nhằm khắc phục tình
trạng yếu kém nói trên.
Để thực hiện mục tiêu đó trong những năm tới cần:
Đối với Nhà nước, xây dựng chiến lược nguồn nhân lực gắn với phát triển
kinh tế - xã hội, CNH, HĐH đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế; hình
thành khung pháp lý và cơ chế cho đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao. Xác định rõ xây dựng nguồn nhân lực là trách nhiệm của các nhà
hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách là trách nhiệm của cả hệ thống
chính trị. Đẩy mạnh chiến lược xã hội hóa giáo dục, qua đó huy động tiềm
năng xã hội cho công tác nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo. Đi cùng
với đó là bổ sung, hồn thiện quy hoạch hệ thống các trường đại học, cao
đẳng đến năm 2020 và tầm nhìn 2030; thực hiện đánh giá chất lượng đào
tạo; kiểm định và xếp hạng các cơ sở giáo dục đại học trong cả nước. Cần
chú trọng sự liên kết chặt chẽ giữa cơ quan quản lý nhà nước với các cơ sở
giáo dục - đào tạo và các cơ quan, doanh nghiệp nơi sử dụng nguồn nhân lực
chất lượng cao. Cải thiện thông tin về thị trường lao động, trong đó cần có
hệ thống dự báo nhu cầu nhân lực quốc gia và cơ sở dữ liệu về đầu tư nguồn
lực; thông tin về cung cầu nhân lực các bộ, ngành, tỉnh, thành phố; cung cấp
22


kịp thời các thông tin cho xã hội về đào tạo, nhân lực, việc làm và quy hoạch
chiến lược phát triển nguồn nhân lực quốc gia, các địa phương và các bộ,
ngành. Ngồi ra, yếu tố văn hóa, tinh thần tự hào, tự tơn dân tộc trong q
trình xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao phải được nhìn nhận đúng với
tầm quan trọng của nó, để từ đó các chương trình giáo dục - đào tạo nguồn
nhân lực chất lượng cao được bổ sung các nội dung liên quan.

Đối với các cơ sở giáo dục - đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, việc
đầu tiên và cấp bách là phải có các giải pháp cụ thể, trong đó chú trọng xây
dựng bồi dưỡng đội ngũ giảng viên trình độ cao; tăng cường đầu tư cơ sở vật
chất trên cơ sở thực hiện xã hội hóa giáo dục; đào tạo gắn với việc làm và
theo nhu cầu xã hội. Do vậy, nhà trường cần phối hợp doanh nghiệp, tổ chức
kinh tế - xã hội xây dựng mục tiêu, nội dung, chương trình đào tạo, lắng
nghe, tiếp nhận sự đánh giá, góp ý từ các nhà sử dụng lao động về sản phẩm
đào tạo của mình.
Các cơ sở giáo dục đại học công lập cần hướng tới thực hiện đổi mới cơ chế
hoạt động theo tinh thần Nghị quyết 77/NQ-CP ngày 24-10-2014 của Chính
phủ, qua đó xây dựng nhà trường theo mơ hình các trường đại học hiện đại
trên thế giới với hệ thống tổ chức quản lý hiệu quả cao trên cơ sở chủ động
khai thác, sử dụng hợp lý, hiệu quả các nguồn lực của nhà trường và xã hội
nhằm nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học, đáp ứng được yêu
cầu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước. Các cơ sở giáo dục
đại học cần chú trọng kiểm soát đầu ra chặt chẽ hơn, nhất là đào tạo đại học
và sau đại học.
Đẩy mạnh công tác hướng nghiệp từ bậc phổ thông đến bậc đại học, bảo
đảm cho học sinh, sinh viên có định hướng đúng về ngành nghề đào tạo, có

23


hoài bão, động cơ, thái độ học tập nghiêm túc. Các cơ sở đào tạo cần tổ chức
các trung tâm hướng nghiệp.
Đối với đơn vị sử dụng lao động (bộ máy quản lý nhà nước và doanh
nghiệp), cần tập trung tạo động lực để thu hút nhân tài theo hướng quan tâm
đúng mức tới lợi ích kinh tế và danh dự cá nhân gắn với tinh thần dân tộc;
thay đổi tiêu chí, chế độ tuyển dụng, đãi ngộ, sử dụng trên cơ sở tăng cường
quyền lực thực tế cho lãnh đạo các cấp; thực hiện dân chủ, công khai, minh

bạch trong tuyển dụng, sử dụng và đãi ngộ nhân lực chất lượng cao, xóa bỏ
các rào cản về tơn giáo, dân tộc trong việc chọn lựa người tài.
Chú trọng đào tạo lại thơng qua tổ chức các chương trình đào tạo ngắn hạn;
tạo điều kiện cho người lao động tham gia bồi dưỡng và tự học để nâng cao
trình độ chun mơn, kỹ năng nghề nghiệp qua đó nâng cao chất lượng đội
ngũ nhân lực chất lượng cao tại doanh nghiệp; có chính sách thích hợp nhằm
tạo mơi trường thực tế cho sinh viên; xây dựng một xã hội học tập, học tập
suốt đời.
Trong xu thế tồn cầu hóa, hội nhập, cạnh tranh và hướng tới nền kinh tế tri
thức, các quốc gia đều chú trọng đầu tư đào tạo phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao. Với Việt Nam, để khơng tụt hậu xa so với trình độ chung của
các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới, chúng ta phải thật sự có các
chính sách đổi mới công tác đào tạo phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao.
c. Mục tiêu và chiến lược đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao
nước ta.
Phát triển toàn diện con người cần đạt tới những giá trị xã hội sau đây:

24


• Con người có bản lĩnh, lý tưởng, niềm tin và quyết tâm thực hiện sứ
mệnh CNH, HĐH. Con người cần có tác phong cơng nghiệp.
• Con người có sức khoẻ cường tráng.
• Có nhân cách đậm đà bản sắc dân tộc tiếp thu tinh hoa văn minh
nhân loại, sống nhân ái, tình nghĩa Có đủ trí tuệ, đầu óc duy lý của thời đại
và kĩ năng lao động lành nghề.
• Có tinh thần cơng dân sống và làm việc theo pháp luật, thực hiện
đúng quyền lợi và nghĩa vụ của mình.Ngồi ra ta cần chú ý đến sự cơng
bằng trong giáo dục, chú ý đến vai trò của người thầy.

[Phạm Minh Hạc, Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào
cơng nghiệp hố, hiện đại hố - trang 260]
Cần đổi mới nền giáo dục nước ta, vừa phù hợp hoàn cảnh riêng của
nước ta, vừa thống nhất chung với văn hoá và văn minh nhân loại. UNESCO
đưa ra “ Bốn trụ cột của giáo dục” thế kỉ XXI :
• Học để biết.
• Học để làm. Chú ý tới học đi đơi với hành.
• Học cùng chung sống, học cách sống với người khác.
• Học để tự khẳng định mình.
[Nghiêm Đình Vỳ (chủ biên), Phát triển giáo dục và đào tạo nhân tài –
trang 193]
Toàn bộ hệ thống GDĐT, từ tiểu học đến đại học, phải tập trung phục
vụ mục tiêu này, làm cho tinh thần hướng nghiệp cùng với hướng học đi vào
25


×