Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả họat động gia công xuất khẩu của công ty may minh trí

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (814.78 KB, 94 trang )













LUẬN VĂN:

Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả họat động gia công xuất khẩu của
công ty may Minh Trí








Lời mở đầu.

Quá trình toàn cầu hoá quốc tế hoá đang phát triển mạnh mẽ ở khắp các châu
lục, các khu vực trên thế giới, với sự tham gia ngày càng rộng rãi của tất cả các
nước chậm và đang phát triển. Những lợi ích to lớn của hội nhập kinh tế mang lại
cho mỗi quốc gia là rất rõ ràng và khó có thể bác bỏ.


Ra đời từ năm 1958, ngành dệt may Việt Nam đến nay đã có trên 40 năm hoạt
động và đem lại những lợi ích không nhỏ cho nền kinh tế đất nước. Ngành Dệt
may cùng với các ngành công nghiệp khác tạo thêm sức mạnh cho đất nước nhanh
chóng hoà nhập với nền kinh tế thế giới.
Để có thể phát triển và đưa ngành Dệt may nước ta trở thành một trong những
ngành công nghiệp xuất khẩu mũi nhọn đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải cố gắng
phấn đấu và hoàn thiện mình. Là một trong những doanh nghiệp tư nhân của
ngành Dệt may Việt Nam, công ty May Minh Trí cũng có những nét đặc trưng
chung của ngành may xuất khẩu nước ta, song cũng có những nét đặc thù riêng.
Hoạt động của công ty May Minh Trí 100% là gia công xuất khẩu. Nhìn chung
hoạt động của công ty được tiến hành thuận lợi, nhưng bên cạnh đó còn phát sinh
nhiều vấn đề vướng mắc cần giải quyết. Đặc biệt vấn đề hiệu qủa kinh doanh là
một vấn đề rất quan trong đối với tất cả các doanh nghiệp nói chung và với công
ty May Minh Trí cũng vậy vấn đề hiệu quả gia công xuất khẩu là rất quan trọng
trong giai đoạn hiện nay.
Trong quá trình thực tập tại công ty em đã tìm hiểu tình hình sản xuất kinh
doanh của công ty em thấy rằng bên cạnh những mặt mà công ty đã làm được để
công ty hoạt động kinh doanh có hiệu quả thì vẫn còn tồn tại những việc mà công
ty đang vướng mắc. Để hoạt động gia công xuất khẩu đạt hiệu quả nhiệm vụ cấp
bách đặt ra cho công ty là làm sao để nâng cao hiệu quả hoạt động gia công xuất
khẩu hơn nữa để công ty ngày càng phát triển. Đây cũng chính là lý do em đã
chọn đề tài:
“mot so bien phap nham nang cao hieu qua hoat dong gia cong xuat khau
cua cong ty may minh tri.”



Phạm vi nghiên cứu của đề tài là các đánh giá về thực trạng hiệu quả gia công
xuất khẩu của công ty May Minh Trí.
Trong đề tài này em sử dụng phương pháp thống kê các số liệu để phân tích,

đánh giá thực trạng hoạt động gia công xuất khẩu hàng dệt may của Công ty
trong thời gian qua, từ đó đưa ra những biện pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh hoạt
động xuất khẩu trực tiếp hàng dệt may của Công ty trong thời gian tới.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục và danh mục tài liệu tham khảo chuyên đề
tốt nghiệp gồm các phần sau :
Chương I: Lý luận về hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp gia công xuất
khẩu.
Chương II: Thực trạng hiệu quả kinh doanh gia công xuất khẩu của công ty
May Minh Trí.
Chương III: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả gia công xuất khẩu của công
ty May Minh Trí.
Do thời gian và trình độ có hạn nên bài viết sẽ không thể tránh khỏi những
thiếu sót, kính mong cô và thầy có sự giúp đỡ để bài viết được hoàn thiện hơn. Và
để hoàn thành bài viết này em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của
cô PGS .TS Nguyễn Thị Hường và thầy Thạc Sỹ Mai Thế Cường đã giúp em hoàn
thành tốt chuyên đề thực tập tốt nghiệp.













Chương I

lý luận về hiệu quả Kinh doanh của doanh nghiệp gia công xuất khẩu

I. Lý luận chung về hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
1. Khái niệm và bản chất hiệu quả kinh doanh
1.1.Khái niệm
Trong thời buổi cơ chế thị trường như hiện nay, mọi doanh nghiệp hoạt động
kinh doanh đều có mục tiêu là tối đa hoá lợi nhuận. Lợi nhuận là yếu tố quyết định
đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Để đạt mức lợi nhuận cao, các
doanh nghiệp cần phỉa hợp lý hoá quá trình sản xuất kinh doanh, từ khâu chọn yếu
tố đàu vào đến khâu thực hiện sản xuất và cung ứng, tiêu thụ. Mức độ hựop lý hoá
của quá trình đó được phản ánh qua một phạm trù kinh tế cơ bản gọi là hiệu quả
hoạt động kinh doanh.
Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các
yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất kinh doanh trong đó doanh nghiệp nhằm thu
hút dược kết quả cao nhất với một chi phí thấp nhất. Hiệu quả kinh doanh không
chỉ là thước đo trình độ tổ chức quản lý kinh doanh mà hiệu quả kinh doanh là vấn
đề sống còn đối với mỗi doanh nghiệp.
Hiện nay có nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề hiệu quả kinh doanh, xuất phát
từ góc độ nghiên cứu khác nhau về vấn đề hiệu quả kinh doanh và sự hình thành
phát triển của ngành quản trị doanh nghiệp. Sau đây chúng ta sẽ xem xét một vài
quan điểm về khái nhiệm này:
Quan điểm thứ nhất - quan điểm của nhà kinh tế học người Anh Adam Smith
theo ông: “Hiệu quả là kết quả đạt được trong hoạt động kinh tế, doanh thu tiêu
thụ hàng hoá”. ở đây, hiệu quả kinh doanh được ông đồng nhất với chỉ tiêu phản
ánh phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Rõ ràng quan điểm này khó
giải thích kết quả sản xuất kinh doanh có thể tăng do chi phí mở rộng sử dụng các



nguồn sản xuất. Nếu cùng một kết quả nhưng có hai mức chi phí khác nhau thì

theo quan điểm này chúng có cùng một mức hiệu quả.
Quan điểm thứ hai cho rằng: “Hiệu quả kinh doanh là quan hệ tỷ lệ giữa phần
tăng thêm của phần kết quả và phần tăng thêm của chi phí ”. Quan điểm này đã
biểu hiện được quan hệ so sánh tương đối giữa kết quả đạt được và chi phí tiêu
hao. Nhưng xét trên quan điểm triết học của chủ nghĩa Marx – Lênin thì sự vật và
hiện tượng đều có mối quan hệ ràng buộc hữu cơ, tác động qua lại lẫn nhau chứ
không tồn tại một cách riêng rẽ độc lập. Hơn nữa sản xuất kinh doanh là một quá
trình trong đó các yếu tố tăng thêm có quan hệ mật thiết với các yêú tố sẵn có.
Chúng trực tiếp hoặc gián tiếp tác động lam kết quả kinh doanh chỉ được xét tới
phần kết quả bổ sung và chi phí bổ sung.
Quan điểm thứ ba cho rằng: “Hiệu quả kinh doanh đo được bằng hiệu số giữa
kết quả và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó”. Ưu điểm của quan điểm này là
phản ánh được mối quan hệ bản chất hiệu quả kinh tế. Nó gắn được kết quả với
toàn bộ chi phí, coi hiệu quả kinh doanh là sự phản ánh trình độ sử dụng các chi
phí. Tuy nhiên, quan điểm này chưa biểu hiện hết được tư tương quanvề lượng và
chất giữa kết quả và chi phí và chưa phản ánh hết mức độ chặt chẽ của mối lieen
hệ này. Để phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực, chúng ta phải cố định một
trong hia yếu tố hoặc kết quả kinh doanh đạt được hoặc chi phí kinh doanh bỏ ra.
Nhưng theo quan điểm của chủ nghĩa Marx – Lênin thì các yếu tố này không ở
trong trạng thái tĩnh mà luôn vận động biến đổi.
Quan điểm thứ tư cho rằng: “Hiệu quả kinh doanh là mức độ thoả mãn yêu cầu
quy luật cơ bản của chủ nghĩa xã hội cho rằng quỹ tiêu dùng với tư cách là chỉ tiêu
đại diện cho mức sống của mọi người trong doanh nghiệp”. Quan điểm này có ưu
điểm là bám sát mục tiêu của nền sản xuất xã hội chủ nghĩa không ngừng nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Song khó khăn ỏ đây là phương tiện
đo lường thể hiện tư tưởng định hướng đó. Đời sống nhân dân nói chung và mức
sống nói riêng rất đa dạng và phong phú. Xác định được mức độ thoả mãn nhu cầu
hay mức độ nâng cao đời sống là điều khó khăn.




Đứng trên góc độ nền kinh tế quốc dân: “Hiệu quả kinh doanh là chỉ tiêu kinh
tế xã hội tổng hợp để lựa chọn các phương án hoặc các quyết định trong quá trình
hoạt động thực tiễn ở mọi lĩnh vực kinh doanh và tại mọi thời điểm”.
Từ các khái niệm về hiệu quả có thể đưa ra công thức tình hiệu quả :

E = (1)

Hay
E = (2)

* E: Hiệu quả kinh doanh
* C: Chi phí yếu tố đầu vào
* K: Kết quả nhận được
Kết quả đầu ra có thể đo bằng các chỉ tiêu như: giá trị tổng sản lượng doanh
thu thuần, lợi nhuận thuần, lợi tức gộp … Còn yếu tố đầu vào bao gồm: lao động
đối tượng lao động, vốn chủ sở hữu và vốn vay.
Công thức (1) phản ánh sức sản xuất mức sinh lời của các yếu tố đầu vào được
tính cho tổng số và tính riêng cho giá trị gia tăng. Côn thức này cho biết cứ một
đơn vị đầu vào được sử dụng thì cho ta bao nhiêu kết quả đầu ra.
Công thức (2) được tính nghịch đảo của công thức (1) phản ánh suất hao phí
các chỉ tiêu đầu vào, nghĩa là để có một đơn vị kết quả đầu ra thì cần có bao nhiêu
đơn vị yếu tố đầu vào.
1.2. Bản chất hiệu quả kinh doanh
Từ khái niệm về hiệu quả kinh doanh ở trên đã nêu khẳng định bản chất của
hiệu quả kinh tế của hoạt động kinh doanh phản ánh được tình hình sử dụng các
nguồn lực của doanh nghiệp để đạt mục tiêu cuối cùng của mọi hoạt động sản xuất
kinh doanh của mọi doanh nghiệp là tối đa hoá lợi ích của doanh nghiệp và xã hội.
Như vậy, vấn đề đặt ra là doanh nghiệp muốn đạt được hiệu quả kinh doanh thì
phải chú ý tới hai vấn đề chính là tối đa hoá lợi ích doanh nghiệp và tối đa hoá lợi

ích xã hội.
K
C
K
C



Điều đó có nghĩa là hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp phải được xem xét
một cách toàn diện cả về mặt không gian và thời gian trong mối quan hệ chung
của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Về mặt thời gian, hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp đạt được trong từng thời kỳ, từng giai đoạn không được giảm sút
hiệu quả của các giai đoạn, các thời kỳ, chu kỳ kinh doanh tiếp theo tức là đòi hỏi
doanh nghiệp không được vì lợi ích trước mắt mà bỏ đi lợi ích lâu dài. Trong thực
tế điều này rất dễ xảy ra khi con người tiến hành sản xuất kinh doanh, khi con
người khai thác tài nguyên, sử dụng tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên nhân văn
tuỳ tiện sẽ gây ra thiệt hại lợi ích cho xã hội. Doanh nghiệp không thể coi việc
giảm các chi phí tăng doanh thu là có hiệu quả khi giảm một cách tuỳ tiện thiếu
cân nhắc các chi phí cải tạo môi trường, đảm bảo cân bằng sinh thái đầu tư cho
giáo dục, đào tạo…
Như vậy, hiệu quả kinh doanh của chỉ có thể đạt được một cách toàn diện khi
hoạt động của doanh nghiệp mang lại hiệu quả không ảnh hưởng đến lợi ích chung
của toàn xã hội.
2. Phân loại hiệu quả kinh doanh
2.1. Hiệu quả tài chính và hiệu quả kinh xã hội
Hiệu quả tài chính hay còn gọi là hiệu quả sản xuất kinh doanh hay hiệu quả
doanh nghiệp là hiệu quả xem xét trong phạm vi doanh nghiệp. Hiệu quả tài chính
phán ánh mối quan hệ lợi ích kinh tế mà doanh nghiệp nhận được và chi phí mà
doanh nghiệp phải bỏ ra để có được lợi ích kinh tế đó. Hiệu quả tài chính là mối
quan tâm hàng đầu của doanh nghiệp, các nhà đầu tư. Biểu hiện chung của hiệu

quả doanh nghiệp là lợi nhuận mà mỗi doanh nghiệp đạt được. Tiêu chuẩn cơ bản
của hiệu quả này là lợi nhuận cao nhất và ổn định.
Hiệu quả kinh xã hội hay còn gọi là hiệu quả kinh tế xã hội tổng hợp xét trong
phạm vi toàn bộ nền kinh tế. Hiệu quả xã hội mà doanh nghiệp mang lại cho cho
nền kinh tế quốc dân là sự đóng góp của doanh nghiệp vào sự phát triển xã hội tích
luỹ ngoại tệ tăng thu ngân sách, giải quyết việc làm, tăng thu nhập, cải tiến đời
sống cho người lao động…
Hiệu quả tài chính là mối quan tâm của các doanh nghiệp hoặc các nhà đầu tư.
Hiệu quả kinh tế xã hội là mối quan tâm của toàn xã hội mà đại diện là nhà nước.



Hiệu quả tài chính được xét theo quan điểm doanh nghiệp, hiệu quả kinh tế xã hội
xem xét theo quan điểm toàn xã hội. Quan hệ giữa hiệu quả tài chính và hiệu quả
kinh tế xã hội là mối quan hệ giữa lợi ích bộ phận với lợi ích tổng thể, lợi ích cá
nhân với lợi ích tập thể và toàn xã hội. Đó là quan hệ thống nhất có mâu thuẫn,
trong quản lý kinh tế không những cần tính hiệu quả tài hính cho doanh nghiệp mà
còn phải đến hiệu quả kinh tế xã hội của doanh nghiệp đem lại cho nền kinh tế
quốc dân. Hiệu quả xã hội chỉ đạt được trên cơ sở hoạt động có hiệu quả của các
doanh nghiệp đem lại cho toàn xã hội. Các doanh nghiệp phải quan tâm đến hiệu
quả kinh tế xã hội đó chính là tiền đề cho doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả.
Để doanh nghiệp quan tâm đến hiệu quả kinh tế xã hội nhà nước phải có chính
sách đảm bảo kết hợp hài hoà lợi ích xã hội với lợi ích doanh nghiệp và lợi ích cá
nhân.
2.2. Hiệu quả kinh doanh bộ phận và kinh doanh tổng hợp
Hiệu quả kinh doanh tổng hợp là hiệu quả kinh doanh tính chung cho toàn
doanh nghiệp cho tất cả các bộ phận trong doanh nghiệp .
Hiệu quả kinh doanh bộ phận là hiệu quả kinh doanh tính riêng cho từng bộ
phận hoặc tính riêng cho từng yếu tố sản xuất.
Hoạt động của bất kỳ doanh nghiệp nào cũng gắn với môi trường và thị trường

kinh doanh của nó. Doanh nghiệp nào cũng căn cứ vào thị trường để giải quyết các
vấn đề: Sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? Sản xuất cho ai?
Mỗi doanh nghiệp đều tiến hành sản xuất kinh doanh của mình trong điều kiện
cụ thể về tài nguyên trình độ trang thiết bị kỹ thuật trình độ tổ chức quản lý lao
động quản lý kinh doanh. Họ đưa ra thị trường sản phẩm với chi phí cá biệt nhất
định và người nào cũng muốn tiêu thụ hàng hoá của mình với giá cao nhất. Tuy
vậy khi đưa hàng hoá của mình ra thị trường, họ chỉ có thể bán sản phẩm của mình
theo giá thị trường nếu chất lượng sản phẩm của họ là tương đương. Bởi vì thị
trường chỉ chấp nhận mức hao phí xã hội cần thiết trung bình để sản xuất ra một
đơn vị hàng hoá. Quy luật giá trị đặt tất cả các doanh nghiệp với một mức chi phí
khác nhau trên cùng một mặt bằng trao đổi, thông qua mức giá cả thị trường.
2.3. Hiệu quả kinh doanh tuyệt đối và hiệu quả kinh doanh tương đối



Hiệu quả tuyệt đối là lượng hiệu quả được tính toán cho từng phương án kinh
doanh cụ thể bằng cách xác định mức lợi ích thu được với chi phí bỏ ra.
Hiệu quả tương đối được xác định băng cách so sánh các chỉ tiêu hiệu quả
tuyệt đối của các phương án khác nhau hay chính là mức chênh lệch về hiệu quả
tuyệt đối của các phương án.
Như vậy hiệu quả tuyệt đối và hiệu quả tương đối là hai hình thức biểu hiện
mối quan hệ giữa kết quả và chi phí. Trong hoạt động quản lý kinh doanh thì việc
xác định hiệu quả nhằm mục tiêu cơ bản:
- Để thể hiện và đánh giá trình độ sử dụng các nguồn lực trong hoạt động kinh
doanh.
- Phân tích luận chứng kinh tế của các phương án khác nhau trong việc thực
hiện một nhiệm vụ cụ thể đó để lựa chọn phương án tối ưu nhất.
Người ta xác định hiệu quả tuyệt đối khi phải bỏ ra chi phí để thực hiện một
phương án quyết định nào đó. Để biết rõ chi phí bỏ ra sẽ thu được bao nhiêu lợi
ích cụ thể và mục tiêu cụ thể là gì, từ đó quyết định bỏ tiền ra thực hiện phương án

hay quyết định kinh doanh phương án đó hay không. Vì vậy, trong công tác quản
lý kinh doanh, bất cứ việc gì đòi hỏi chi phí dù là một phương án lớn hay phương
án nhỏ đều cần phải tính hiệu quả tuyệt đối.
2.4 . Hiệu quả trước mắt và hiệu quả lâu dài
Hiệu quả trước mắt có ngay trước mắt, tức là thu được hiệu quả ngay trong
ngắn hạn
Hiệu quả lâu dài có được trong dài hạn, tức là hiệu quả thu được trong tương
lai xa.
2.5. Hiệu quả kinh doanh trực tiếp và hiệu quả kinh doanh gián tiếp
Hiệu quả trực tiếp là hiệu quả mang lại cho chính đối tượng xem xét.
Hiệu quả gián tiếp là hiệu quả mang lại cho đối tượng liên quan đến đối tượng
xem xét.
3. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh
Dựa trên nguyên tắc xây dựng hệ thống chỉ tiêu bằng cách so sánh giữa kết
quả kinh tế và chi phí kinh tế, chúng ta có thể lập được một hệ thống các chỉ tiêu



để đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. Có thể phân các chỉ tiêu thành
hai nhóm chỉ tiêu là chỉ tiêu tổng hợp và chỉ tiêu bộ phận.
Để đánh giá chính xác, có cơ sở khoa học hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp, cần phải xây dựng hệ thống chỉ tiêu phù hợp bao gồm các chỉ tiêu tổng
hợp (khái quát) các chỉ tiêu bộ phận (cụ thể). Các chỉ tiêu đó phảỉ phản ánh được
sức sản xuất, suất hao phí cũng như sức sinh lời của từng nhân tố sản xuất kinh
doanh và phải thống nhất với công thức đánh giá hiệu quả chung:
Kết quả
Hiệu quả kinh doanh =
Chi phí

Hay nghịch đảo của công thức trên:

Chi phí
Hiệu quả kinh doanh =
Kết quả

Công thức (1) cho biết một lượng chi phí bỏ ra thì thu được bao nhiêu lượng
kết quả.
Công thức (2) cho biết trong lượng kết quả thu được thì phải bỏ ra bao nhiêu
lượng chi phí.
Nhóm chỉ tiêu tổng hợp phản ánh khái quát và cho phép kết luận về hiệu quả
kinh doanh của toàn bộ quá trình kinh doanh, phản ánh trình độ sử dụng của tất cả
các yếu tố tham gia vào quá trình kinh doanh trong một thời kỳ nhất định.
Nhóm chỉ tiêu hiệu quả bộ phận là nhóm chỉ tiêu dùng để phân tích hiệu quả
kinh doanh của từng yếu tố, từng hoạt động cụ thể. Các chỉ tiêu bộ phận có hai
chức năng sau:
- Phân tích có tính chất bổ xung cho chỉ tiêu tổng hợp để kiểm tra và khẳng
định rõ hơn kết luận rút ra từ chỉ tiêu tổng hợp.
- Phân tích hiệu quả từng mặt, từng yếu tố đầu vào nhằng tìm biện pháp tối đa
hiệu quả kinh doanh tổng hợp.
(1
)

(2
)




Mối quan hệ giữa hai nhóm chỉ tiêu này không phải chỉ là mối quan hệ cùng
chiều mà có khi còn là mối quan hệ ngược chiều, trong lúc chỉ tiêu tổng hợp tăng
lên thì có thể có các chỉ tiêu bộ phận tăng lên hoặc giảm đi không đổi. Như vậy

cần chú ý là:
- Chỉ tiêu tổng hợp đánh giá hiệu quả kinh doanh toàn diện còn chỉ tiêu bộ
phận thì không đảm nhiệm chức năng đó.
- Chỉ tiêu bộ phận phản ánh hiệu quả kinh doanh của từng mặt hoạt động nên
thường sử dụng trong phân tích thống kê, phân ttích cụ thể chính xác mức độ ảnh
hưởng của từng nhân tố, từng hoạt động từng bộ phận công tác, tác động đến hiệu
quả kinh doanh.
3.1. Chỉ tiêu hiệu quả tổng hợp
Lợi nhuận
 Hệ số doanh lợi vốn kinh doanh =
Vốn kinh doanh
ý nghĩa: chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn kinh doanh mang lại bao nhiêu
đồng lợi nhuận.
Vốn kinh doanh của doanh nghiệp là giá trị của của nguồn vốn đã hình thành
nên toàn bộ tài sản của doanh nghiệp. Nói cách khác vốn kinh doanh là hình thái
tiền tệ của toàn bộ vốn cố định và vốn lưu động được doanh nghiệp dùng vào quá
trình sản xuất.
Lợi nhuận
 Hệ số doanh lợi của doanh thu =
Doanh thu
ý nghĩa: chỉ tỉêu này cho biết trong một đồng doanh thu có bao nhiêu đồng lợi
nhuận.
Doanh thu
 Hiệu quả sử dụng chi phí kinh doanh =
Chi phí kinh doanh

ý nghĩa: chỉ tiêu này cho biết một đồng chi phí bỏ ra sẽ mang về bao nhiêu
đồng doanh thu.




Chi phí kinh doanh là toàn bộ các chi phí bỏ ra cho hoạt động kinh doanh bao
gồm chi phí khấu hao tài sản cố định, chi phí vật chất khác cho quá trình sản xuất
như: chi phí nguyên vật liệu, công cụ lao động nhỏ, điện, nước, chất đốt…, chi phí
dịch vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh.
3.2. Nhóm chỉ tiêu hiệu qủa bộ phận
Lợi nhuận
 Hiệu quả sử dụng tài sản cố định =
Vốn cố định

ý nghĩa: chỉ tiêu cho biết số tiền lãi trên một đồng vốn cố định

Lợi nhuận
 Hiệu quả sử dụng tài sản lưu động =
Vốn lưu động

ý nghĩa: chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn lưu động bỏ ra thì sẽ tạo ra được
bao nhiêu đồng lợi nhuận.

Lợi nhuận
 Mức sinh lời của một lao động =
Số lao động

ý nghĩa: chỉ tiêu này cho biết một lao động sử dụng trong doanh nghiệp sẽ tạo
ra bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Doanh thu
 Số vòng luân chuyển của vốn lưu động =
Vốn lưu động

ý nghĩa: Chỉ tiêu này cho biết vốn lưu động sẽ quay được bao nhiêu vòng

trong một năm.
Doanh thu



 Số vòng quay của toàn bộ vốn =
Vốn kinh doanh

ý nghĩa: chỉ tiêu này cho biết mỗi đơn vị kinh doanh bỏ ra sẽ mang lại bao
nhiêu đồng doanh thu, hay phản ánh tốc độ quay của toàn bộ vốn kinh doanh.

Doanh thu
 Doanh thu từ một lao động =
Số lao động

ý nghĩa: chỉ tiêu này phản ánh một lao động có thể tạo ra bao nhiêu đồng
doanh thu trong một thời kỳ phân tích.
Trên đây là các chỉ tiêu được sử dụng để đánh giá và phản ánh hiệu quả kinh
doanh của doanh nghiệp và một điều đáng chú ý rằng để đánh giá hoạt động kinh
doanh một cách chính xác thì doanh nghiệp cần phải phân tích sàng lọc số liệu một
cách đầy đủ và sát thực thì hiệu quả phản ánh được càng cao. Bên cạnh đó doanh
nghiệp cần lựa chọn cho mình một bộ chỉ tiêu phản ánh đúng thực trạng kinh
doanh của doanh nghiệp mình chứ không nên một lúc đánh giá tất cả các chỉ tiêu
trên, để tránh tình trạng kết luận không tập trung được thực trạng vấn đề.
4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh
4.1. Các nhân tố chủ quan
4.1.1. Nguồn nhân lực
Trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, nguồn nhân lực tác động trực
tiếp lên hiệu quả kinh doanh theo có hướng sau:
Trình độ lao động: nếu lực lượng lao động cuẩ doanh nghiệp có trình độ tương

ứng sẽ góp phần quan trọng trong vận hành có hiêụ quả yếu tố vật chất trong quá
trình kinh doanh của doanh nghiệp.
Cơ cấu lao động: nếu doanh nghiệp có cơ cấu lao động hợp lý phù hợp trước
hết góp phần vào sử dụng có hiệu quả bản thân các yếu tố lao động trong qúa trình
sản xuất kinh doanh, mặt khá góp phần tạo lập và thường xuyên điều chỉnh mối
quan hệ tỷ lệ hợp lý thích hợp giữa các yếu tố trong quá trình kinh doanh.



ý thức, tinh thần, trách nhiệm, kỷ luật của người lao động: Đây là yếu tố cơ
bản quan trọng để phát huy nguồn lao động trong kinh doanh. Vì vậy chúng ta chỉ
có thể đạt được hiệu quả kinh doanh trong doanh nghiệp chừng nào chúng tạo
được đội ngũ lao động có kỷ luật có kỹ thuật có năng suất cao.
4.1.2. Mức độ hiện đại và đồng bộ của cơ sở vật chất kỹ thuật và ứng dụng
tiến bộ khoa học lỹ thuật
Nhân tố này tác động vào hiệu quả kinh doanh theo các hướng sau:
Sự phát triển của cơ sở vật chất kỹ thuật tạo ra cơ hội để nắm bắt thông tin
trong quá trình hoạch định kinh doanh cũng như trong quá trình điều chỉnh, định
hướng lại hoặc chuyển hướng kinh doanh.
Kỹ thuật và công nghệ sẽ tác động đến việc tiết kiệm chi phí vật chất trong
quá trình kinh doanh làm cho chúng ta sử dụng một cách hợp lý tiết kiệm chi phí
vật chất trong quá trình kinh doanh.
Cơ cấu vật chất và ứng dụng của tiến bộ khoa học kỹ thuật sẽ tạo ra ngành
nghề kinh doanh mới.
4.1.3. Hệ thống trao đổi và xử lý thông tin của doanh nghiệp
Thông tin ngày nay được gọi là đối tượng lao động của các nhà kinh doanh và
nền kinh tế thị trường là kinh tế thông tin hàng hoá. Để kinh doanh thành công
trong điều kiện cạnh tranh trong nước và quốc tế ngày càng phát triển, các doanh
nghiệp cần có thông tin chính xác về thị trường, người mua, người bán, đối thủ
cạnh tranh, tình hình cung – cầu hàng hoá, giá cả … Không những thế, doanh

nghiệp rất cần hiểu biết thành công và thất bài của các doanh nghiệp trong nước và
quốc tế các chính sách kinh tế của Nhà nước khác có liên quan đến thị trường của
doanh nghiệp.
Thông tin chính xác kịp thời là cơ sở vững chắc cho doanh nghiệp xác đinh
phương hướng kinh doanh, xây dựng chiến lược kinh doanh dài hạn cũng như
hoạch định chương trình kinh doanh ngắn hạn. Nếu doanh nghiệp không quan tâm
đến thông tin không thường xuyên nắm bắt thông tin kịp thời thì doanh nghiệp dẽ
đi đến thất bại do không hiểu chính xác thông tin.
Trong kinh doanh nếu biết mình biết người, nắm bắt được thông tin về đối thủ
cạnh tranh … thì doanh nghiệp mới có những biện pháp thích hợp để giành thắng



lợi trong kinh doanh và thu lợi nhuận cao bảo đảm cho doanh nghiệp tồn tại và
phát triển.
Một nhiệm vụ quan trọng của các nhà quản trị doanh nghiệp hiện nay là làm
sao tổ chức được hệ thống thông tin của doanh nghiệp một cách hợp lý đáp ứng
kịp thời nhu cầu thông tin.
4.1.4. Nhân tố tổ chức quản lý doanh nghiệp
Trong kinh doanh nhân tố quản trị kinh doanh có vai trò vô cùng quan trọng:
quản trị doanh nghiệp có vai trò định hướng cho doanh nghiệp một hướng đi đúng
trong hoạt động kinh doanh xác định chiến lược kinh doanh phát triển doanh
nghiệp. Chiến lược kinh doanh và phát triển doanh nghiệp là cơ sở để đạt được
hiệu quả hoặc thất bại phi hiệu quả của doanh nghiệp trong kinh tế thị trường.
Mọi nhân tố phân tích ở trên đều có tác động tích cực hoặc tiêu cực đến hiệu
quả kinh doanh thông hoạt động của bộ máy quản trị doanh nghiệp và đội ngũ cán
bộ quản trị.
Nhà quả trị doanh nghiệp đạc biệt các lãnh đạo doanh nghiệp bằng phẩm chất
và tài năng của mình có vai trò quan trọng bậc nhất và có ý nghĩa duy trì thành đạt
cho một tổ chức kinh doanh. Trong nhiệm vụ phải hoàn thành cán bộ doanh

nghiệp phải chú ý hai nhiệm vụ chủ yếu là:
- Xây dựng tập thể thành một hệ thống đoàn kết, năng động với chất lượng
cao.
- Dìu dắt tập thể dưới quyền hoàn thành mục đích và mục tiêu một cách vững
trắc ổn định
ở bất kỳ doanh nghiệp nào hiệu quả kinh doanh đều phụ thuộc lớn vào cơ cấu
tổ chức bộ máy quản trị nhận thức hiểu biết, trình độ đội ngũ các nhà quản trị, khả
năng xác định mục tiêu và phương hướng kinh doanh của những nhà lãnh đạo
doanh nghiệp.
4.2 . Các nhân tố khách quan
Bất cứ doanh nghiệp nào trong lĩnh vực nào dù là với bất kỳ mô hình kinh
doanh dù là lớn hay là nhỏ suy cho cung nó chỉ là một trong các phần tử cấu thành
nền kinh tế quốc dân hay trên phương diẹen rộng hơn trong hoàn cảnh quốc tế hoá
đang diễn ra mạnh mẽ trên khắp thế giới thì coi là một bộ phận cấu thành của nền



kinh tế thế giới. Do đó, hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng
rất lớn từ môi trường bên ngoài. Đó là tổng họp các nhân tố khách quan tác động
đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và cụ thể là tác động đến hiệu quả
kinh doanh của doanh nghiệp. ở đây chúng ta đi xem xét một số nhân tố chủ yếu
sau;
4.2.1. Môi trường pháp lý
Môi trường pháp lý có ảnh hưởng tới hiệu quả của hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp. Môi trường pháp lý lành mạnh sẽ giúp cho doanh nghiệp tiến hành
hoạt động kinh doanh thuận lợi và ngược lại nếu môi trường pháp lý không ổn
định sẽ gây cho doanh nghiệp nhiều khó khăn, trở ngại và những rủi ro trong kinh
doanh của mình. Môi trường pháp lý gồm hai hệ thống các văn bản pháp luật do
nhà nước đặt ra thể hiện vai trò quản lý của nhà nước đối với nền kinh tế và các
thông lệ và luật quốc tế đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Ví dụ như chủ

trương chính sách của nhà nước về quản lý hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu
của doanh nghiệp bằng công cụ quản lý hư giấy phép, hạn ngạch , thuế quan, quản
lý ngoại tệ, quản lý ngoại hối…
Môi trường pháp lý tạo ra hành lang pháp lý cho doanh nghiệp hoạt động, mọi
doanh nghiệp đều nằm trong hanh lang đó nếu lệch ra ngoài là phạm luật bị sử lý
theo luật quy định. Vì vậy trong hoạt động kinh doanh của mình doanh nghiệp
phải chấp nhận mọi quy định của nhà nước và nếu doanh nghiệp hoạt động liên
quan đến thị trường nước ngoài thì doanh nghiệp không thể khong nắm chắc và
tuân thủ pháp luật nước đó và thông lệ quốc tế.
4.2.2. Môi trường kinh tế
Môi trường kinh tế là nhân tố tác động mạnh mẽ đến hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp. Môi trường kinh tế bao gồm các yếu tố như tốc độ tăng trưởng kinh
tế, tốc độ tăng thu nhập quốc đan, lạm phát… Các yếu tố này luôn là các nhân tố
tác động trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Môi trường kinh tế trước hết phản ánh qua tốc độ tăng trưởng kinh tế về cơ cấu
ngành cơ cấu vùng. Tình hình đó có thể tạo nên sự hấp dẫn của thị trường. Nếu tốc
độ tăng trưởng của kinh tế cao và ổn định thì nó sẽ là một động lực tạo ra môi
trường kinh doanh ổn định cho doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả và sử dụng



nguồn lực một cách có hiệu quả. Còn ngược lại nếu tăng trưởng kinh tế của doanh
nghiệp cũng như thị trường của doanh nghiệp bị thu hẹp, nguồn lực sử dụng bị
lãng phí thì doanh nghiệp sẽ kinh doanh không có hiệu quả.
Mức tăng thu nhập quốc dân cũng ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp. Mức tăng trưởng kinh tế của đất nước cao và ổn định tức là khả
năng tiêu dùng thực tế của khách hàng doanh nghiệp ngày càng tăng làm cho thị
trường của doanh nghiệp được đặt ra. Ngược lại thu nhập quốc dân thấp sẽ làm
cho thị trường của doanh nghiệp được mở rộng và vấn đề mở rộng sản xuất cho
doanh nghiệp được đặt ra. Ngược lại thu nhập quốc đan thấp sẽ làm cho khả năng

tiêu dùng giảm thị trường của doanh nghiệp bị thu hẹp sản xuất trì trệ hàng sản
xuất ra không tiêu dùng được.
Lạm phát cũng là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp và sâu sắc đến đời sống kinh tế
của đất nước nói chung và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng. Tốc
độ lạm phát của đất nước được kìm chế thấp và ổn định sẽ làm cho giá trị đồng
tiền trong nước ổn định các doanh nghiệp sẽ yên tâm sản xuất kinh doanh và đầu
tư mở rộng sản xuất. Mặt khác giá trị của đồng tiền trong nước ổn định cũng là cơ
sở quan trọng để đánh giá chính xác hiệu quả kinh doanh cảu doanh nghiệp. ngược
lại nếu tốc độ lạm phát cao sẽ làm cho người ta mất lòng tin vào đồng nội tệ và
người ta không dám đầu tư vào sản xuất và tìm cách thoát li khỏi đồng tiền nội tệ
bằng cách mua ngoại tệ mạnh và mua những tài sản có giá trị khác như vàng bạc
đá quý …
Các chính sách kinh tế xã hội của nhà nước cũng tác động lớn đến hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp. Trước hết các chính sách kinh tế của nhà nước thể
hiện vai trò của Nhà nước trong quản lý kinh tế quốc dân. Nếu chính sách kinh tế
của nhà nước đưa ra là phù hợp với các điều kiện thực tế thì sẽ góp phần thúc đẩy
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
II. Gia công và hiệu quả gia công xuất khẩu
1. Khái niệm gia công quốc tế
Gia công quốc tế là một hình thức khá phổ biến trong hoạt động ngoại thương
của một nước trên thế giới. Muốn hiểu rõ khái niệm gia công quốc tế ta sẽ tiếp cận
từ khái niệm về gia công:



Thứ nhất: Gia công là một phương thức sản xuất trong đó người đặt gia công
sẽ cung cấp toàn bộ tư liệu sản xuất cùng nguyên liệu và nhận về sản phẩm hoàn
chỉnh, người nhận gia công sẽ sản xuất ra sản phẩm theo mẫu, giao sản phẩm đó
cho người đặt gia công và nhận tiền công theo số lượng sản phẩm làm ra.
Thứ hai: Gia công là một trong những phương thức sản xuất hàng hoá trong đó

người đặt gia công sẽ cung cấp nguyên vật liệu, có khi cung cấp cả máy móc thiết
bị, bán thành phẩm và nhận lại sản phẩm hoàn chỉnh. Người nhận gia công tự tổ
chức quá trình sản xuất làm ra sản phẩm theo mẫu mã của khách hàng, giao toàn
bộ sản phẩm cho người đặt gia công và nhận tiền gia công.
Thứ ba: Gia công là một phương thức sản xuất theo đơn đặt hàng và mẫu mã
của người đặt gia công. Người nhận gia công tổ chức quá trình sản xuất sản phẩm
theo mẫu và những sản phẩm làm ra giao cho người đặt gia công hoặc cho người
nào đó mà bên đặt gia công chỉ định theo giá cả thoả thuận của cả hai bên.
Như vậy, có thể định nghĩa: Gia công là sự cải tiến đặc biệt các thuộc tính
riêng của các đối tượng lao động (Nguyên vật liệu hoặc bán thành phẩm) được tiến
hành một cách có sáng tạo và có ý thức nhằm đạt được một giá trị sử dụng nào đó.
Hoạt động gia công gồm một bên là bên đặt gia công và một bên là bên nhận gia
công. Bên đặt gia công giao một phần hay toàn bộ nguyên vật liệu có khi là bán
thành phẩm hay máy móc thiết bị và chuyên gia cho bên kia. Có nhiều trường hợp,
bên đặt gia công uỷ thác cho bên nhận gia công mua nguyên vật liệu do mình chỉ
định tại nơi nào đó sau đó gia công sản phẩm theo yêu cầu và kỹ thuật của mình.
Bên nhận gia công tiếp nhận hay mua mguyên vật liệu và tổ chức gia công theo
đúng yêu cầu của bên đặt gia công và nhận được một khoản tiền từ bên đặt gia
công gọi là phí gia công.
Khi hoạt động gia công vượt khỏi biên giới quốc gia thì gọi là gia công quốc tế,
tức là bên đặt gia công và bên nhận gia công phải có quốc tịch khác nhau hoặc có
trụ sở giao dịch chính ở hai quốc gia khác nhau . Vậy: “Hoạt động gia công quốc
tế là một phương thức giao dịch, trong đó bên đặt gia công ở nước ngoài cung cấp
máy móc thiệt bị nguyên phụ liệu và bán thành phẩm để bên nhận gia công trong
nước tổ chức quá trình sản xuất thành sản phẩm theo yêu cầu của bên đặt gia công.



Toàn bộ sản phẩm làm ra bên nhận gia công sẽ giao lại cho bên đặt gia công để
nhận về một khoản thù lao ( gọi là phí gia công ) theo thoả thuận.”

2. Phân loại hoạt động gia công
2.1. Phân loại theo quyền sở hữu nguyên, vật liệu:
Xét theo quyền sở hữu nguyên vật liệu gia công quốc tế có thể tiến hành theo
các hình thức sau đây:
 Hình thức nhận nguyên phụ liệu giao thành phẩm hay còn gọi hình thức
gia công đơn thuần (Không có sự chuyển giao quyền sở hữu nguyên vật liệu).
Bên đặt gia công giao nguyên liệu hoặc bán thành phẩm cho bên nhận gia công
và sau thời gian sản xuất, chế tạo sẽ thu hồi thành phẩm và trả phí gia công. Quyền
sở hữu nguyên vật liệu thuộc về bên đặt gia công trong suốt thời gian sản xuất.
Bên nhận gia công nhận nguyên vật liệu và tiến hành tổ chức gia công. Trong quá
trình này, bên đặt gia công có thể chuyển giao máy móc thiết bị và cử chuyên gia
sang cùng phối hợp thực hiện quá trình gia công. Bên nhận gia công có thể mua
nguyên phụ liệu nếu được sự đồng ý của bên đặt gia công và sẽ được thanh toán
hợp lý khi kết thúc quá trình gia công.
Trong suốt quá trình gia công, bên đặt gia công lo tiêu thụ sản phẩm của mình.
Bên nhận gia công có lợi là không phải bỏ tiền mua nguyên vật liệu, nếu biết sử
dụng một cách tiết kiệm so với định mức tiêu hao nguyên vật liệu thì được hưởng
phần nguyên vật liệu dôi ra đó. Tuy nhiên bên nhận gia công sẽ bị phụ thuộc nhiều
vào bên đặt gia công về tiến độ giao nguyên vật liệu, dễ bị động trong tổ chức sản
xuất, tiền phí gia công thường thấp do bị ép giá dẫn đến hiệu quả kinh tế không
cao.
 Hình thức mua nguyên liệu - bán thành phẩm (Mua NL bán TP).
Trong trường hợp này, quyền sở hữu nguyên vật liệu được chuyển từ bên đặt
gia công sang bên nhận gia công. Bên đặt gia công sẽ bán đứt nguyên vật liệu hoặc
chỉ định thị trường mua cho bên nhận gia công, sau một thời gian sản xuất sẽ mua
lại toàn bộ thành phẩm.
ở hình thức này, bên đặt gia công không phải chịu chi phí ứng trước về nguyên
vật liệu, ít chịu rủi ro trong quá trình sản xuất. Còn bên nhận gia công có thể chủ
động đưa thêm một số nguyên vật liệu phụ sẵn có trong nước để giảm chi phí sản




xuất. Bên nhận gia công nhận được số tiền nhiều hơn so với hình thức gia công
thông thường.
 Hình thức kết hợp.
Theo hình thức này, bên đặt gia công chỉ giao nguyên vật liệu chính cùng các
tài liệu kỹ thuật còn bên nhận gia công sẽ cung cấp những nguyên phụ liệu bổ
sung. Gia công theo hình thức này có thể bán được một phần nguyên liệu trong
nước theo giá quốc tế.
2.2. Phân loại theo giá cả gia công.
Xét theo giá cả gia công có thể chia việc gia công thành hai hình thức:
 Hợp đồng thực chi thực thanh (cost plus contract).
Trong đó bên nhận gia công thanh toán với bên đặt gia công toàn bộ những chi
phí thực tế của mình cộng với tiền thù lao gia công.
 Hợp đồng khoán.
Trong đó người ta xác định một giá định mức cho mỗi sản phẩm, bao gồm chi
phí định mức và thù lao định mức. Dù chi phí thực tế của bên nhận gia công là bao
nhiêu đi nữa, hai bên vẫn thanh toán với nhau theo giá định mức đó.
2.3. Phân loại theo công đoạn sản xuất.
Xét theo công đoạn sản xuất, bao gồm các loại sau:
 Gia công chi tiết.
Bên nhận gia công thực hiện gia công trọn vẹn một chi tiết sản phẩm mà bên
đặt gia công yêu cầu, với nguyên phụ liệu mà bên đặt gia công đưa đến, sau đó
giao chi tiết hoàn thành cho bên đặt gia công.
 Gia công đảm nhận công đoạn.
Bên nhận gia công sẽ gia công một phần sản phẩm, có thể là đoạn còn lại của sản
phẩm hoặc một đoạn nào đó trong quá trình chế tạo sản phẩm cho bên đặt gia
công.
 Gia công hoàn chỉnh một sản phẩm.
Bên nhận gia công nhận nguyên vật liệu chính và phụ (nếu có) và gia công

hoàn chỉnh từ đầu đến cuối một sản phẩm, sau đó đóng gói và chuyển giao cho bên
đặt gia công, tuỳ thuộc thoả thuận trong hợp đồng gia công.
2.4. Phân loại theo số bên tham gia quan hệ gia công.



Xét về số bên tham gia quan hệ gia công ta có hai loại gia công sau đây:
 Gia công hai bên: trong đó chỉ có bên đặt gia công và bên nhận gia
công.
 Gia công nhiều bên: còn gọi là gia công chuyển tiếp, trong đó bên nhận
gia công là một số doanh nghiệp mà sản phẩm gia công của đơn vị trước là đối
tượng gia công của đơn vị sau, còn bên đặt gia công vẫn chỉ là một.
3. Các nội dung cơ bản của hoạt động gia công hàng may mặc
Quan hệ gia công được thể hiện dưới hình thức hợp đồng giữa hai bên. Hợp
đồng gia công được thực hiện là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên nhận gia
công thực hiện một công việc nào đó để tạo ra sản phẩm theo yêu cầu của bên đặt
gia công, còn bên đặt gia công nhận thành phẩm và trả tiền công.
Chính vì vậy, nội dung của hợp đồng gia công hàng xuất khẩu ở Việt Nam phải
tuân thủ theo các quy định chung về hợp đồng dân sự.
Hợp đồng gia công là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên nhận gia công
thực hiện một công việc để tạo ra sản phẩm theo yêu cầu của bên đật gia công, còn
bên đặt gia công nhận sản phẩm và trả tiền.
Nội dung gia công trong thương mại gồm sản xuất, chế biến, chế tác, sửa chữa,
tái chế, lắp ráp, phân loại, đóng gói hàng hoá theo yêu cầu và bằng nguyên vật liệu
của bên đặt gia công.
Đối tượng của hợp đồng gia công là vật được xác định trước theo mẫu hay theo
tiêu chuẩn mà các bên thoả thuận hoặc pháp luật quy định.
Nghĩa vụ của bên đặt gia công: giao toàn bộ hoặc một phần nguyên vật tư gia
công theo thoả thuận tại hợp đồng gia công. Nhận và đưa khỏi Việt Nam toàn bộ
sản phẩm gia công, máy móc, thiết bị cho thuê hoặc mượn; nguyên liệu, phụ liệu

vật tư, phế liệu sau khi thanh lý hợp đồng gia công, trừ trường hợp được phép tiêu
huỷ, tiêu thụ, tặng theo quy định của Nghị định số 57/NĐ-CP ngày 31/7/1998.
Được cử chuyên gia đến Việt Nam để hướng dẫn kỹ thuật sản xuất và kiểm tra
chất lượng sản phẩm gia công theo thoả thuận của hợp đồng gia công.
Chịu trách nhiệm về quyền sử dụng nhãn hiệu hàng hoá, tên gọi, xuất xứ hàng
hoá. Trường hợp nhãn hiệu hàng hoá và tên gọi hàng hoá đã được đăng ký tại Việt
Nam thì phải có giấy chứng nhận của cục sở hữu công nghiệp Việt Nam. Tuân thủ



các quy định của pháp luật Việt Nam có liên quan đến hoạt động gia công và các
điều khoản của hợp đồng gia công đã ký kết.
Quyền của bên đặt gia công: nhận sản phẩm gia công theo đúng phương thức,
thời hạn và địa điểm đã thoả thuận. Đơn phương đình chỉ hợp đồng và yêu cầu bồi
thường thiệt hại khi bên nhận gia công vi phạm hợp đồng.
Trong trường hợp sản phẩm không đảm bảo chất lượng mà bên đặt gia công
đồng ý nhận sản phẩm nhưng yêu cầu sửa chữa mà bên nhận gia công không sửa
chữa được trong thời hạn đã thoả thuận thì bên đặt gia công có quyền huỷ bỏ hợp
đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Bên đặt gia công có quyền cử đại diện kiểm tra giám sát việc gia công tại nơi
nhận đặt gia công theo thoả thuận giữa các bên.
Nghĩa vụ của bên nhận gia công: bảo quản nguyên vật liệu do bên đặt gia
công cung cấp. Báo cho bên đặt gia công biết để đòi nguyên vật liệu khác nếu
nguyên vật liệu không đảm bảo chất lượng, từ chối thực hiện gia công nếu việc sử
dụng nguyên vật liệu có thể tạo ra sản phẩm gây nguy hại cho xã hội, nếu không
báo hoặc không từ chối thì phải chịu trách nhiệm về sản phẩm tạo ra.
Giao sản phẩm cho bên đặt gia công đúng chất lượng, số lượng, phương thức,
thời hạn và địa điểm đã thoả thuận. Giữ bí mật các bí mật các thông tin về quy
trình gia công và sản phẩm tạo ra. Chịu trách nhiệm về chất lượng sản phẩm nếu
thực hiện công việc bằng nguyên vật liệu của mình. Hoàn trả nguyên vật liệu còn

lại cho bên đặt gia công sau khi hoàn thành hợp đồng.
Quyền của bên nhận gia công: yêu cầu bên đặt gia công giao nguyên vật liệu
đúng chất lượng, số lượng, thời hạn và địa điểm đã thoả thuận. Từ chối sự chỉ dẫn
không hợp lý của bên đặt gia công nếu thấy chỉ dẫn có thể làm giảm chất lượng
sản phẩm nhưng phải báo ngay cho bên đặt gia công. Yêu cầu bên đặt gia công trả
đủ tiền công theo đúng thời hạn và phương thức đã thoả thuận.
Trách nhiệm chịu rủi ro: cho đến khi giao sản phẩm cho bên đặt gia công
người nào là chủ sở hữu của nguyên vật liệu thì phải chịu rủi ro đối với nguyên vật
liệu sản phẩm được tạo ra từ nguyên vật liệu đó trừ trường hợp thoả thuận khác.
Khi bên gia công chậm giao sản phẩm mà có rủi ro đối với tài sản gia công thì
phải bồi thường thiệt hại cho bên đặt gia công.



Điều kiện giao, nhận sản phẩm: bên nhận gia công phải giao sản phẩm và bên
đặt gia công phải nhận sản phẩm theo đúng thời hạn và tại địa điểm đã thoả thuận.
Trường hợp chậm giao chậm nhận sản phẩm gia công:
Trong trường hợp bên nhận gia công chậm giao sản phẩm thì bên đặt gia công
có thể gia hạn, nếu hết thời hạn đó mà bên nhận gia công vẫn chưa hoàn thành
công việc thì bên đặt gia công có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng
và yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Trong trường hợp bên đặt gia công chậm nhận sản phẩm thì bên đặt gia công
có thể gửi sản phẩm đó lại nơi nhận gửi và phải báo ngay cho bên nhận gia công.
Nghĩa vụ giao sản phẩm hoàn thành, khi đáp ứng được các điều kiện đã thoả thuận
và bên đặt gia công đã được thông báo. bên đặt gia công phải chịu mọi chi phí phát
sinh từ việc gửi giữ.
Trách nhiệm của các bên do đơn phương đình chỉ hợp đồng: Mỗi bên đều có
quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng gia công nếu việc thực hiện hợp
đồng không mang lại lợi ích cho mình trừ trường hợp có thoả thuận khác hoặc
pháp luật có quy định khác, nhưng phải báo cho bên kia biết trước một thời gian

hợp lý.
Nếu bên đặt gia công đơn phương đình chỉ hợp đồng thì phải trả tiền công
tương ứng với công việc đã làm. nếu bên nhận gia công đình chỉ hợp đồng thì
không được trả tiền công trừ trường hợp có thoả thuận khác.Bên đơn phương đình
chỉ thực hiện hợp đồng mà gây thiệt hại cho bên kia thì phải bồi thường.
Trả tiền công: Bên đặt gia công phải trả tiền công vào thời điểm nhận sản
phẩm nếu không có thoả thuận khác. Trong trường hợp không có thoả thuận về
mức tiền công áp dụng thì áp dụng mức tiền công trung bình đối với việc tạo ra
sản phẩm cùng loại tại địa điểm gia công và vào thời điểm trả tiền.
Bên đặt gia công không có quyền giảm tiền công nếu sản phẩm không bảo đảm
chất lượng do nguyên liệu của mình đã cung cấp hoặc do sự chỉ dẫn không hợp lý
của mình.
Thanh lý nguyên vật liệu: Khi hợp đồng gia công chấm dứt, bên nhận gia công
phải hoàn trả nguyên vật liệu còn lại cho bên đặt gia công trừ trường hợp đã có
thoả thuận khác.



 Ký kết hợp đồng:
Về bản chất pháp lý, hợp đồng gia công khác với hợp đồng lao động. Theo
hợp đồng lao động thì người lao động phải chịu rủi ro và chi phí trong quá trình
gia công. Trong khi đó, theo hợp đồng gia công thì người đặt gia công phải chịu
mọi rủi ro và chi phí chế biến từ nguyên vật liệu ra loại thành phẩm mà hợp đồng
quy định. Ngoài ra, hợp đồng gia công cần phải chú ý đến những điều sau:
Quy định về định mức tiêu hao nguyên vật liệu.
Điều khoản giao hàng: địa điểm, thời gian, đặc điểm, điều kiện giao hàng và
nghiệm thu thành phẩm.
Điều khoản về chi phí gia công: bao gồm tiền thù lao gia công, chi phí nguyên
vật liệu phụ mà bên nhận gia công tự mua sắm, chi phí bao bì đóng gói và phí làm
thủ tục xuất nhập khẩu.

Điều khoản về thanh toán: khi đã ký kết hợp đồng, người nhận gia công hàng
may mặc xuất khẩu với tư cách là một bên ký kết phải tổ chức thực hiện hợp đồng.
Đây là công việc phức tạp, đòi hỏi phải hiểu rõ luật lệ quốc gia và quốc tế đồng
thời phải bảo đảm được quyền lợi của quốc gia cũng như uy tín của đơn vị. Người
nhận gia công phải sắp xếp từng phần việc của đơn vị tham gia gia công một cách
hợp lý đảm bảo tiết kiệm được nguyên vật liệu, giảm chi phí vận chuyển tạo được
hiệu quả cao trong hoạt động gia công.
Hoạt động gia công hàng may mặc xuất khẩu ở nước ta hiện nay đang phát
triển. Tuy nhiên công tác này đang là vấn đề mới, do đó đòi hỏi các đơn vị tham
gia phải tiến hành tốt các nội dung thực hiện hợp đồng của mình.
Đơn vị nhận gia công trước hết phải thực hiện hợp đồng nhập khẩu, hợp đồng
này phải được tiến hành theo trình tự nhất định: Mở L/C, xin giấy phép nhập khẩu,
làm thủ tục Hải quan, mua bảo hiểm, nộp thuế nhập khẩu, kiểm tra hàng hoá và
nguyên vật liệu, giám định kiểm dịch. Sau đó giao nguyên vật liệu hàng hoá về
đơn vị để tiến hành gia công. Ngoài ra còn tiến hành làm thủ tục thanh toán, khiếu
nại về hàng hoá thiếu hụt hoặc tổn thất.
Sau khi hoàn tất hoạt động gia công, bên nhận gia công phải tiến hành giao
hàng cho bên đặt gia công. Công việc này gồm các khâu như: Giục mở và kiểm tra
L/C, xin giấy phép xuất khẩu, chuẩn bị hàng hoá, thuê tàu hoặc uỷ thác thuê tàu,



kiểm nghiệm và kiểm dịch hàng hoá, làm thủ tục Hải quan, nộp thuế xuất khẩu,
giao hàng lên tàu, mua bảo hiểm, làm thủ tục thanh toán, khiếu nại và giải quyết
khiếu nại (nếu có).
 Tổ chức gia công hàng may mặc xuất khẩu.
Để hoạt động gia công hàng may mặc có hiệu quả thì khâu tổ chức là khâu
quan trọng để quyết định toàn bộ quá trình gia công. Tổ chức gia công hợp lý sẽ
nâng cao chất lượng sản phẩm phù hợp với nhu cầu thị trường, tiết kiệm được
nguyên vật liệu giảm giá thành ngay trong khâu đầu của quá trình gia công, đặc

biệt là tăng khả năng cạnh tranh của hàng may mặc xuất khẩu đối với các đối thủ
khác trên thị trường trong và ngoài nước.
Để đạt được điều này thì việc tổ chức gia công hàng may mặc xuất khẩu được
tiến hành theo các khâu sau:
Chọn nhận mẫu gia công: khâu này đòi hỏi đơn vị gia công phải có kinh
nghiệm chọn và nhận mẫu phù hợp với trình độ tay nghề của công nhân, phù hợp
với quy trình công nghệ và máy móc thiết bị, cũng như phù hợp về giá cả. Có
những hợp đồng gia công mà trong đó đưa cả máy móc thiết bị và công nghệ sang
đặt gia công để phù hợp với yêu cầu gia công của họ. Đơn vị phải tiến hành các
bước giao nhận phương tiện, nguyên vật liệu, yêu cầu về kỹ thuật.
Tiến hành gia công thử để tính mức nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ trên cơ
sở nhận được mẫu mã. Tính thù lao gia công, nếu có vấn đề chưa hợp lý thì phải
thoả thuận lại để đưa vào phụ lục hợp đồng bổ xung.
Tiến hành đào tạo nâng cao tay nghề của công nhân cho phù hợp với yêu cầu
của hợp đồng. Trường hợp bên đặt gia công đưa chuyên gia kỹ thuật của họ sang
để tiếp nhận và kiểm tra thực tế thì đơn vị nên học hỏi kinh nghiệm và kỹ thuật của
họ.
Tổ chức khâu gia công với các đơn vị trong nước, những công đoạn nhỏ đã
được chuyên môn hoá trong nước.
Tiến hành phân phối đặt hàng gia công.
Kiểm nhận đặt gia công theo quy đinh về thời gian, chất lượng đã đặt với đơn
vị gia công.

×