TÊN ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU:
NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI TRONG
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM.
LĨNH VỰC NGHIÊN CỨU: HÀNH CHÍNH – PHÁP LÝ.
CHUN NGÀNH: LUẬT HÌNH SỰ.
Hà Nội, Năm 2016
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
NCTN:
Người chưa thành niên
NCTNPT:
Người chưa thành niên phạm tội.
BLHS:
Bộ Luật Hình Sự.
VKSND:
Viện Kiểm Sát Nhân Dân
CƯQTE:
Cơng ước quốc tế về quyền trẻ em
CHXHCNVN:
Cộng Hịa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam
XHCN:
Xã Hội Chủ Nghĩa
BLTTHS:
Bộ luật tố tụng hình sự
TNHS:
Trách nhiệm hình sự
PLHS:
Pháp luật hình sự
3
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài .
Trải qua một quá trình đấu tranh lâu dài, với bao mất mát và hi sinh; nhân loại mới
đạt được giá trị tinh thần vơ cùng vĩ đại đó là: Quyền con người. Cái buổi đầu sơ khai,
quyền con người còn nhiều bó hẹp, nhưng cũng đủ cho những người yêu chuộng hịa
bình, tự do nguyện đấu tranh, hi sinh để bảo vệ và phát triển nó.
Để đi tiếp con đường bảo vệ và phát triển quyền con người ấy, nhiều quốc gia trên thế
giới đã tuyên bố, và liên hiệp với nhau ký kết các điều ước quốc tế về bảo vệ quyền con
người. Đến nay ngày càng được hoàn thiện và phát triển.
Nhìn lại lịch sử về quyền con người ở Việt Nam. Năm 1990 Việt Nam là nước đầu tiên ở
Châu Á, và là nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn công ước Liên Hợp Quốc về quyền trẻ
em. Đến năm 1992 lần đầu tiên trong Hiến Pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đề cập đến thuật ngữ “Quyền con người”.
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa X) tại Đại hội lần thứ XI
của Đảng khẳng định: “Nhà nước chăm lo, phục vụ nhân dân, bảo đảm quyền, lợi ích
chính đáng của mọi người dân”.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, và phát
triển năm 2011), trong phần những định hướng lớn về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội,
quốc phịng, an ninh, đối ngoại Đảng ta đã chỉ rõ: “con người là trung tâm của chiến
lược phát triển, đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn
quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân
dân”; “Nhà nước tôn trọng và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân; chăm lo
hạnh phúc, sự phát triển tự do của mỗi người”
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 cũng nhấn mạnh: “Mở rộng dân chủ,
phát huy tối đa nhân tố con người; coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục
tiêu của sự phát triển”; “Phải bảo đảm quyền con người, quyền công dân và các điều kiện
để mọi người được phát triển toàn diện”.
Vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích của con người nói chung và đặc biệt là bảo vệ quyền
và lợi ích của người chưa thành niên là vấn đề cấp thiết của một quốc gia văn minh tiến bộ.
Tuy nhiên trong tình hình hiện nay, tội phạm là người chưa thành niên đang có sự gia tăng
nhanh chóng cả về số lượng và mức độ nguy hiểm cho xã hội. Mà người thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội nếu thỏa mãn đủ các dấu hiệu theo quy định của pháp luật sẽ phải
4
chịu trách nhiệm pháp lý, trong đó nghiêm khắc nhất là người phạm tội phải chịu trách
nhiệm hình sự (TNHS). Khi gánh chịu trách nhiệm hình sự người phạm tội sẽ bị hạn chế
một số quyền con người, và có khi ảnh hưởng đến cả sinh mệnh chính trị, đến quyền sống quyền cơ bản nhất của con người. Do đó khi người chưa thành niên phạm tội (người chưa
phát triển đầy đủ cả về tâm, sinh lý và thể chất), họ chưa có sự hiểu biết và chuẩn bị đầy đủ
để bước vào vòng tố tụng hết sức nghiêm khắc mà pháp luật hình sự đặt ra, Để tránh khỏi
những tổn thương cho người chưa thành niên khi đứng trước những tình huống phải chịu
sự áp dụng của pháp luật hình sự, cần thiết phải có những cơ chế đảm bảo quyền và lợi ích
hợp pháp của người chưa thành niên phạm tội, Một trong những cơ chế quan trọng, đó là
xây dựng hệ thống các quy định của pháp luật hình sự về xử lý NCTN phạm tội. Xuất phát
từ yêu cầu đó, Nhóm tác giả đã chọn đề tài: “người chưa thành phạm tội trong pháp luật
hình sự Việt Nam.”
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu.
2.1.Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài.
Việc NCTN phạm tội, là một hiện tượng xã hội xảy ra ở mọi quốc gia. Vì vậy việc
xử lý NCTN phạm tội được quy định trong hầu hết các hệ thống pháp luật của các quốc
gia trên thế giới. Đây là vấn đề không chỉ được các nhà khoa học pháp lý ở Việt Nam
quan tâm, nghiên cứu, mà trên thế giới cũng có rất nhiều cơng trình nghiên cứu về những
quy định của pháp luật hình sự về bảo vệ NCTN phạm tội. Tuy nhiên do đặc điểm khác
nhau giữa các quốc gia dân tộc, nên việc hệ thống tư pháp đối với NCTN phạm tội cũng
có nhiều điểm khác nhau. Nên những quy định về xử lý NCTN phạm tộị cũng được
nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau của các nhà khoa học. Qúa trình nghiên cứu cho
thấy trên thế giới đã có một số cơng trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề NCTN phạm tội
trong pháp luật hình sự ở một số nước, dưới nhiều cách tiếp cận khác nhau, mặc dù việc
thống kê các cơng trình này chưa thực sự được đầy đủ, nhưng có thể khái quát một số
cơng trình nghiên cứu ở một số nước tiêu biểu như sau:
- Trong cuốn Phòng ngừa tội phạm do người chưa thành niên gây ra: Một yêu cầu toàn diện
(Preventing and Reducing Juvenile Delinquency: A Comprehensive Framework) của tác
giả Jame C. Howell, năm 2003 do nhà xuất bản Sage, Mỹ ban hành đã đề cập trình bày các
chương trình nghiên cứu mới nhất cho việc phịng ngừa, kiểm sốt NCTN phạm tội; trên
cơ sở phân tích nghiên cứu hệ thống tư pháp cho NCTN của Mỹ hiện hành. Trên cơ sở đó
5
tác giả đã đưa ra các giải pháp phòng ngừa một cách tồn diện việc NCTN phạm tội, ở
nhiều khía cạnh khác nhau.
- Trong cuốn sách tư pháp cho người chưa thành niên ở Mỹ (American Juvenile) của tác giả
Franklin E. Zimring năm 2005, do đại học oxford, Anh ban hành đã phân tích các chính
sách của quốc gia đối với NCTN, trong đó chủ yếu tập trung vào các nguyên tắc của hệ
thống tư pháp đối với NCTN. Tác giả đã đề cập đến việc công tố xét xử NCTN phạm tội,
cần chú ý đến điều kiện, hoàn cảnh khắc phục sửa chữa vi phạm của họ. Đồng thời tác giả
cũng nêu lên quan điểm của mình về việc sử dụng súng, sử dụng công cụ, việc phạm tội
giết người ở NCTN cần được pháp luật quốc gia chú trọng xem xét…..
- Trong cuốn tài liệu tập huấn hoạt động của Radda Barnen vì trẻ em làm trái pháp luật,
người chưa thành niên phạm pháp của tổ chức cứu trợ trẻ em Thụy Điển (1999), Nhóm tác
gả đã trình bày các hoạt động của tổ chức cứu trợ trẻ em Thụy Điển, thong qua những
nghiên cứu cụ thể, đã khái quát về hoàn cảnh đa đạng, những nguyên nhân xơ đẩy trẻ em
phạm tội, nhóm tác giả này đã đề cao việc ngăn ngừa, loại trừ những nguyên nhân dẫn đến
việc trẻ em phạm tội, kêu gị sự giúp đỡ từ cộng đồng, xã hội; hơn là sự thẳng tay trừng trị
bằng pháp luật.
-Trong cuốn sách tư pháp cho người chưa thành niên, những yếu tố cần thiết
(Juvenen Justice: The Essentials) của tác giả Richard Lawrence, năm 2009 do nhà xuất bản
sage, Mỹ ban hành đã phản ánh về các vấn đề thực tiễn liên quan đến hệ thống tư pháp liên
quan đến hệ thống tư pháp NCTN. Tác giả đã nhấn mạnh một trong những cách để làm
giảm tội phạm do NCTN gây ra là phải sử dụng các quy định của pháp luật một cách bình
sẳng và công bằng.
Như vậy trên cơ sở khảo sát một số tài liệu, cho thấy việc nghiên cứu các chế định
của pháp luật đối với NCTN phạm tội được áp được nhiều nhà khoa học pháp lý trên thế
giới quan tâm và nghiên cứu một cách cụ thể chi tiết. Tuy nhiên các nghiên cứu chủ yếu đề
cập tới vấn đề tội phạm do NCTN gây ra và hệ thống tư pháp của từng quốc gia được
nghiên cứu áp dụng đối với họ. do điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội ở mỗi quốc gia, dân
tộc là khác nhau, nên cần thiết phải có một cơng trình nghiên cứu đầy đủ, các quy định của
pháp luật hiện hành ở nước Việt Nam đối với NCTN phạm tội, trong bối cảnh công cuộc
cải cách tư pháp đang được diễn ra mạnh mẽ, đặc biệt là hiến pháp năm 2013 và BLHS
2015 mới được ban hành, tình hình tội phạm là NCTN ngày càng gia tăng. Vì vậy việc
nghiên cứu về vấn đề này vẫn mang tính cấp thiết hiện nay.
6
2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước.
Tại Việt Nam việc nghiên cứu về NCTN phạm tội nhận được sự quan tâm nghiên cứu của
nhiều nhà khoa học, Thể hiện ở một số cơng trình khoa học tieu biểu sau:
-Trong cuốn sách chuyên khảo “Phòng ngừa thanh thiếu niên phạm tội – nhiệm của
gia đình, nhà trường và xã hội” của GS.TS Đỗ Xuân Yêm và cộng sự, nhà xuất bản Công
An Nhân Dân, năm 2004. Công trinh nghiên cứu đã đề cập đến nhiều vấn đề toàn diện tổng
quan, về cơng tác phịng ngừa NCTN phạm tội, và các vấn đề liên quan. Đồng thời tác giả
cũng đặt ra những yêu cầu đối với việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về NCTN
phạm tội.
-Trong cuốn sách “Tội phạm do người chưa thành niên thực hiện trên địa bàn Hà
Nội, thực trạng và giải pháp”, của tác giả Trịnh Quốc Toản, nhà xuất bản Công An Nhân
Dân, năm 2007. Tác giả đã phân tích về thực trạng và nguyên phạm tội của NCTN trong
địa bàn thành phố Hà Nội, đồng thời đưa ra những giải pháp để nâng cao hoạt động của các
cơ quan bảo vệ pháp luật.
-Luận án tiến sĩ luật học đề tài: “Hoạt động của viện kiểm sát nhân dân trong thực
hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án cố ý gây thương tích do người chưa thành
niên gây ra”, của tác giả Lại Viết Quang, thực hiện năm 2015, đã đề cập đến tình hình tội
phạm cố ý gây thương tích do NCTN gây ra trong những năm gần đây, đồng thời phân tích
những ưu, nhược điểm trong q trình thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và
kiểm sát điều tra của VKSND các cấp, đối với các vụ án cố ý gây thương tích. Đồng thời
đưa ra những giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động của VKSND các cấp trong việc xử
lý NCTN phạm tội.
- Luận văn tiến sĩ luật học, đề tài: “Pháp luật về quyền của người chưa thành niên
phạm tội ở Việt Nam”, của tác giả Vũ Thị Thu Quyên, được thực hiện nam 2015. Tác giả
đã nghiên cứu một cách khá toàn diện về các quy định trong pháp luật hình sự, tố tụng hình
sự về NCTN phạm tội, đồng thời đưa ra những kiến nghị giải pháp nhằm ngăn ngừa NCTN
phạm tội và kiến nghị hoàn thiện hệ thống các quy định pháp luật áp dụng đối với NTCN
phạm tội, theo hướng đảm bảo tốt nhất quyền của NCTN phạm tội.
- Luận án tiến sĩ tâm lý học, đề tài: “Đặc điểm tâm lý của người chưa thành niên
coscos hành vi phạm tội”. Do tác giả Đặng Thanh Nga thực hiện, năm 2007. Luận án đã
cung cấp nhiều tri thức khoa học về tâm lý của NCTN phạm tội, thông qua các khảo sát về
tâm lý của NCTN trước, trong và sau khi phạm tội. Luận án đã lý giải vì sao NCTN có
7
nguy cơ cao bị lôi kéo vào con đường phạm tội và có nguy cơ cao bị tổn thương bởi các
biện pháp cưỡng chế hình sự, và khả năng giáo dục hoàn thiện nhân cách, lối sống cao hơn
người đã thành niên.
- Ở trong trường đại học Kiểm Sát Hà Nội có luận văn thạc sĩ luật học đề tài: "Miễn
trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội theo luật hình sự Việt
Nam" của tác giả Lê Ngọc Duy, thực hiện năm 2012, tác giả đã phân tích một cách
đầy đủ sâu sắc về các trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự đối với NCTN
phạm tội, đồng thời lý giải các trường hợp NCTN phạm tội được miễn trách nhiệm
hình sự (TNHS) đã gây búc xúc trong dư luận, đưa ra những kiến nghị hoàn thiện
pháp luât và nâng cao hiệu quả áp dụng chế định miễn TNHS đối với NCTN phạm
tội trên thực tiễn.
Qua nghiên cứu các cơng trình, tài liệu điển hình trên cho thấy các tác giả đa
đề cập đến những vấn đề liên quan như: Lý luận chung về NCTN phạm tội nói
chung, tình trạng NCTN phạm tội và các loại tội phạm do NCTN gây ra. Hoặc đề
cập đến trách nhiệm của các cơ quan điều tra, VKSND, Tòa án trong cơng tác đấu
tranh phịng chống tội phạm là NCTN phạm tội; hoặc nghiên cứu về từng chế định
cụ thể của pháp luật áp dụng với NCTN phạm tội như: quyết định hình phạt, chế
định miễn hình phạt, quy trình thủ tục tố tụng đối với NCTN phạm tội. Mà chưa có
cơng trình nào nghiên cứu một cách chun sâu ở mức một đề tài khoa học về hệ
thống các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành, về việc xử lý NCTN
phạm tội, có đề cập, phân tích, đánh giá đến cả những quy định của BLHS năm
2015 mới ban hành. Trên cơ sở đó chúng tôi cho rằng: Việc nghiên cứu vấn đề
“Người chưa thành niên phạm tội trong pháp luật hình sự Việt Nam” vẫn mang
tính cấp thiết cần phải nghiên cứu trong tình hình hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
3.1.
Mục đích nghiên cứu.
-Mục tiêu tổng quan:
Nghiên cứu một cách có hệ thống các quy định về xử lý NCTN phạm tội trong pháp
luật hình sự Việt Nam, Từ việc phân tích thực trạng áp dụng, tác giả sẽ chỉ rõ các vấn đề lý
luận về việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên phạm tội, trong
tình hình hiện nay. Việc nghiên cứu góp phần bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật
8
hình sự, phù hợp hơn với tình hình thực tiễn hiện nay và yêu cầu thực hiện thắng lợi công
cuộc cải cách tư pháp mà Đảng và Nhà nước đã đề ra.
Kết quả nghiên cứu sẽ cung cấp những nhận thức đầy đủ, về các nguyên tắc xử lý NCTN
phạm tội, việc bảo vệ quyền của người chưa thành niên phạm tội khi đưa ra xử lý, để
những người có thẩm quyền áp dụng pháp luật hình sự, cả gia đình, cộng đồng có NCTN
phạm tội hiểu sâu ắc và vận dụng chính xác. Nâng cao hiệu quả cơng tác bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của nguời chưa thành niên.
-Mục tiêu cụ thể:
Thứ nhất: Nêu lên hệ thống lý luận chung, đầy đủ, khoa học về NCTN phạm tội, việc xử
lý NCTN phạm tội, Từ đó vận dụng vào phân tích pháp luật hình sự Việt Nam hiện hành.
Thứ hai: Có những kiến nghị, đề xuất sửa đổi, bổ sung một số quy định của pháp luật hình
sự Việt Nam hiện hành, góp phần hồn thiện hệ thống pháp luật hình sự Việt nam hơn.
Thứ ba: Góp phần bảo vệ có hiệu quả quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành
niên phạm tội, xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, tiến bộ và văn minh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Để đạt được các mục tiêu đã đề ra, Tác giả đã cụ thể hóa bằng các nhiệm vụ sau:
- Thứ nhất: Làm rõ cơ sở lý luận của việc xử lý NCTN phạm tội, vai trị của pháp
luật hình sự trong việc đấu tranh, phịng ngừa NCTN phạm tội, đồng thời bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên phạm tội.
- Thứ hai: Phân tích rõ những quy định về vấn đề xử lý NCTN phạm tội trong bộ
luật hình sự của Việt Nam hiện hành (BLHS 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009) và trong
BLHS mới (BLHS 2015, Quốc hội thơng qua ngày 27/11/2015, sẽ có hiệu lực ngày
1/7/2016; ngày 29/6/2016 Quốc hội, đã ban hành nghị quyết số 144/2016/QH13, về việc
lùi thịi điểm có hiệu lực của BLHS năm 2015.)
- Thứ ba: Đối chiếu với pháp luật hình sự của một số quốc gia trên thế giới trong
việc xây dựng những quy phạm pháp luật nhằm xử lý NCTN phạm tội, từ đó rút ra một số
kinh nghiệm cho việc xây dựng pháp luật ở Việt Nam.
-Thứ tư: Phân tích và khái quát thực trạng áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự
về xử lý NCTN phạm tội, chỉ ra những bất cập, hạn chế trong quá trình áp dụng các quy
định này, đồng thời có những kiến nghị, giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật
hình sự về xử lý NCTN phạm tội và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định đó trên thực
tiễn.
9
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
4.1.
Đối tượng nghiên cứu.
Với những mục tiêu và nhiệm vụ đã đề ra ở trên, đề tài tập trung nghiên cứu vào các đối
tượng sau:
-Thứ nhất, tập trung nghiên cứu hệ thống các quy phạm pháp luật hình sự ( luật nội dung)
ở Việt Nam về xử lý NCTN phạm tội. Để đánh giá được những quy định của pháp luật việt
Nam, cần đặt nó trong mối liên hệ, so sánh tương quan với pháp luật hình sự của một số
quốc gia trên thế giới. Vì thế bên cạnh việc phân tích làm rõ các quy định của pháp luật
hình sự ở Việt Nam, đề tài còn đề cập đến pháp luật hiện hành ở một số nước như Mĩ, Liên
- Thứ hai, nghiên cứu về thực trạng tình hình tội phạm do NCTN phạm tội gây ra, và thực
tiễn việc khởi tố, xét xử các vụ án đó, để tổng hợp đánh giá thực tế áp dụng các quy định
của pháp luật hình sự về xử lý NCTN phạm tội.
4.2.
Phạm vi nghiên cứu.
-Phạm vi về khơng gian:
+Phạm vi Quốc tế: vì đặc điểm của quyền con người có tính phổ biến trong nhân
loại, trong đó có quyền của NCTN. Do đó phạm vi nghiên cứu của đề tài trước hết là quyền
của người chưa thành niên được ghi nhận trong các công ước, điều ước quốc tế, và trong
pháp luật hình sự của một số quốc gia trên thế giới ( đề tài nghiên cứu về pháp luật của
Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Thái Lan …). Những nghiên cứu này sẽ làm
cơ sở để so sánh, đánh giá pháp luật, thực tiễn Việt Nam trong việc bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của NCTN trong pháp luật hình sự.
+Phạm vi trong nước: Đề tài tập trung nghiên cứu các quy định của Bộ Luật Hình
Sự của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN) năm 1999 (sửa đổi, bổ
sung năm 2009); và bộ luật hình sự nước CHXHCNVN năm 2015, về các nguyên tắc,
đường lối xử lý đối với NCTN phạm tội. Tuy nhiên để có một sự đánh giá tồn diện thì đề
tài cũng đề cập đến một số nguyên tắc cơ bản trong bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) hiện
hành ( BLTTHS 2003), BLTTHS năm 2015 (chưa có hiệu lực) về bảo vệ quyền và lợi ích
của người chưa thành niên khi họ tham gia vào quá trình tố tụng hình sự, và các quyền và
lợi ích của người chưa thành niên được ghi nhận trong các văn kiện của Đảng, chính sách
của nhà nước ở giai đoạn hiện nay.
- Phạm vi về thời gian:
10
Đề tài tập trung nghiên cứu về tình hình áp dụng các chế định của pháp luật hình sự về
xử lý NCTN phạm tộị, trong các vụ án xảy ra trong khoảng thời gian từ năm 2011 đến năm
2015.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Các nguyên tắc mang tính định hướng trong quá trình nghiên cứu:
-
Phương pháp luận nghiên cứu đề tài dựa trên phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa
Mác – Lênin, quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về lý luận nhà nước và pháp luật. Đề tài
còn nghiên cứu dựa trên tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, với tư
tưởng mọi quyền lực nhà nước đều xuất phát từ nhân dân.
Việc nghiên cứu đề tài dựa trên các quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và
nhà nước về đường lối đổi mới đất nước, phát huy dân chủ, phát huy nhân quyền, xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; và quan điểm, đường lối chỉ đạo của Đảng, Nhà
nước về công cuộc cải cách tư pháp, đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp.
-
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể:
+Phương pháp nghiên cứu tài liệu:
•
Nhóm tác giả đã sưu tầm, phân tích và tổng hợp các giáo trình luật hình sự của một số trường
đại học, các cơng trình khoa học, các luận án thạc sĩ, luận án tiến sĩ nghiên cứu về vấn đề bảo
vệ quyền và lợi ích của người chưa thành niên trong hệ thống pháp luật nước ta, Tác giả đề
tài đã kế thừa một số cơ sở lý luận từ các cơng trình này đồng thời bổ sung hoàn thiện một số
vấn đề mới đáp ứng yêu cầu của thực tiễn và yêu cầu nghiên cứu của đề tài.
•
Nghiên cứu hệ thống các báo cáo tổng kết năm của cục thống kê tội phạm Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, nghiên cứu các kết luận điều tra, hồ sơ vụ án liên quan đến người chưa
thành niên tại một số Viện kiểm sát.
+Phương pháp quan sát:
Quan sát, tổng hợp, đánh giá ý kiến của dư luận về một số vụ án lớn, liên quan đến
người chưa thành niên mà dư luận quan tâm.
+Phương pháp xử lý thông tin:
Sử dụng phương pháp xử lý toán học đối với các thơng tin mang tính định lượng, và
xử lý lơgic đối với các thơng tin định tính.
Các nội dung trình bày trong đề tài được tác giả sử dụng kết hợp, đan xen nhiều
phương pháp so sánh, tổng hợp, phân tích, phương pháp sử dụng tri thức liên ngành khoa
học… để đưa ra các kết luận, đánh giá chính xác, khách quan.
11
6. Ý nghĩa và những đóng góp mới của đề tài.
-
Kết quả nghiên cứu của đề tài nêu lên một cách tổng quan nhất các quy định của Bộ luật
hình sự Việt Nam hiện hành, và bộ luật hình sự năm 2015 về người chưa thành niên phạm
tội. Tạo nên cơ sở lý luận và thực tiễn để các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, áp
dụng một cách chính xác và đầy đủ những vấn đề cần thiết trong truy cứu trách nhiệm hình
sự người chưa thành niên phạm tội, đảm bảo hiệu quả công tác đấu tranh, phòng, chống tội
phạm do người chưa thành niên gây ra trong thời gian tới, đồng thời vẫn đảm bảo tốt các
quyền và lợi ích hợp pháp cho người chưa thành niên phạm tội.
-
Kết quả nghiên cứu của đề tài còn là tài liệu khoa học để cho các sinh viên, giảng viên,
những người nghiên cứu và làm việc trong lĩnh vực pháp luật tham khảo và tiếp tục nghiên
cứu phát hiện và giải quyết tốt các vấn đề mới phát sinh đáp ứng yêu cầu mà thực tiễn đặt ra.
-
Đề tài nghiên cứu đã chỉ những điểm chưa hoàn thiện, những điểm hạn chế trong các các
quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về NCTN phạm tội. Từ đó có những kiến nghị, đề
xuất giải pháp để hoàn thiện hệ thống pháp luật của nước Việt Nam, góp phần thực hiện
thắng lợi cơng cuộc cải cách tư pháp hiện nay và xây dựng một nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa vững mạnh
7. Kết cấu của đề tài.
Ngoài phần Mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo, phụ lục luận án gồm 2
chương:
•
Chương 1:cơ sở lý luận về người chưa thành niên phạm tội trong pháp luật hình sự .
•
Chương 2: Thực trạng việc áp dụng và đề xuất hoàn thiện các các quy định của pháp luật
hình sự hiện hành, giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của pháp luật hình sự
về người chưa thành niên phạm tội.
12
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI
TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm người chưa thành niên phạm tội.
1.1.1. Khái niệm người chưa thành niên
Theo cách gọi thơng thường thì một chu kỳ sống của con người được chia thành
nhiều giai đoạn, lứa tuổi khác nhau như: Nhi đồng, thiếu niên, thanh niên, trung niên và cao
niên; cịn theo thuật ngữ pháp lý thì các giai đoạn, lứa tuổi chia thành: NCTN (trong đó có
trẻ em) và Người đã thành niên.
Ở mỗi quốc gia, thuật ngữ "trẻ em" và “NCTN” được hiểu và quy định khác nhau
phụ thuộc vào những đặc điểm riêng về sự phát triển sinh học, tâm sinh lý cũng như quan
điểm của mỗi nước về chăm sóc, bảo vệ và giáo dục đối với trẻ em: BLHS Liên bang Nga
1996 quy định, trẻ em được hiểu là NCTN và là người chưa đủ 18 tuổi; Thái Lan quy định
NCTN là người dưới 17 tuổi…
Về phương diện quốc tế, tại Điều 1 CƯQTE thông qua ngày 20/11/1989 quy định:
“Trong phạm vi của Cơng ước này, trẻ em có nghĩa là mọi người dưới 18 tuổi, trừ trường
hợp luật pháp áp dụng với trẻ em đó quy định tuổi thành niên sớm hơn”. Quy tắc tối thiểu
phổ biến của Liên Hợp Quốc (LHQ) về bảo vệ NCTN bị tước quyền tự do được LHQ thông
qua ngày 14/12/1992 quy định NCTN là người dưới 18 tuổi. Tham khảo thêm các văn bản
pháp luật quốc tế liên quan đến người chưa thành niên gồm: Công ước về Quyền trẻ em
(United Nations Convention on the Rights of the Child) được Đại hội đồng Liên hợp quốc
thông qua ngày 20-11-1989; Quy tắc tiêu chuẩn tối thiểu của Liên hợp quốc về áp dụng pháp
luật với người chưa thành niên (United Nations Standard Minimum Rules for the
Administration of Juvenile Justice /Beijing Rules) ngày 29-11-1985; Hướng dẫn của Liên
hợp quốc về phòng ngừa phạm pháp ở người chưa thành niên (United Nations Guidelines for
the Prevention of Juvenile delinquency/ Riyadh Guidelines) ngày 14-12-1990. Theo quan
niệm quốc tế thì trẻ em (Child) là người dưới 18 tuổi, người chưa thành niên (Juvenile) là
người từ 15 đến 18 tuổi, thanh niên (Youth) là người từ 15 đến 24 tuổi, người trẻ tuổi (Young
persons) bao gồm trẻ em, người chưa thành niên và thanh niên.
Ở Việt Nam, trong nhiều năm trước đây, NCTN được gọi là “vị thành niên” nhưng
từ khi chúng ta có hệ thống pháp luật tương đối hồn chỉnh, thuật ngữ "vị thành niên" được
13
đổi thành NCTN nhằm phân biệt với người thành niên. Trong khoa học pháp lý và trong các
văn bản pháp luật, thuật ngữ NCTN, trong đó có NCTNPT được sử dụng với ý nghĩa là một
người đang ở độ tuổi chưa đủ 18. Theo từ điển Tiếng Việt: "Vị thành niên là người chưa đến
tuổi được pháp luật công nhận là công dân với đầy đủ các quyền và nghĩa vụ hay là người
chưa đủ 18 tuổi". Cũng theo từ điển Tiếng Việt (Viện Ngôn ngữ học, Nxb Đà Nẵng năm
2002) thì: "NCTN là người chưa phát triển đầy đủ, tồn diện về thể lực, trí tuệ, tinh thần
cũng như chưa có đầy đủ quyền và nghĩa vụ cơng dân". Định nghĩa này phù hợp với tinh
thần của CƯQTE đã nêu trên, tuy nhiên, lại đồng nhất hai thuật ngữ: NCTN và Trẻ em.
Theo pháp luật Việt Nam, từ những kinh nghiệm được thừa nhận trong quá khứ, dựa
trên những thành tựu do các ngành khoa học khác mang lại cũng như tiếp thu các văn bản
pháp luật quốc tế mà các nhà làm luật đã đưa ra khái niệm về NCTN, tuỳ theo từng lĩnh vực
điều chỉnh của từng ngành luật. Trong Hiến Pháp năm 1992, BLHS năm 1999, BLTTHS
năm 2003, Bộ luật Lao động, Bộ luật Dân sự, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và một số
văn bản quy phạm pháp luật khác, đều quy định tuổi của NCTN là dưới 18 tuổi và quy định
riêng những chế định pháp luật đối với NCTN trong từng lĩnh vực cụ thể. Điều 18 Bộ luật
dân sự quy định: "Người từ đủ mười tám tuổi trở lên là người thành niên. Người chưa đủ
mười tám tuổi là NCTN" và Bộ luật lao động sửa đổi, bổ sung năm 2002 cũng quy định:
"Người lao động chưa thành niên là người dưới 18 tuổi". Bên cạnh đó, Điều 1 Luật Giáo
dục, chăm sóc và bảo vệ trẻ em quy định rõ: "Trẻ em quy định trong luật này là công dân
Việt Nam dưới 16 tuổi". Như vậy, có thể thống nhất một quan điểm là NCTN là người dưới
18 tuổi.
Dưới góc độ luật hình sự và luật TTHS Việt Nam, NCTN được phân biệt thành hai
nhóm (độ tuổi) khác nhau để buộc phải chịu TNHS. Cụ thể, theo Điều 12 BLHS, NCTN có
thể được phân chia thành hai nhóm, mỗi nhóm có đặc điểm riêng:
Nhóm thứ nhất, từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi (thuộc nhóm đối tượng được quy
định là trẻ em), đặc điểm của nhóm này là: Vừa vượt qua giai đoạn trẻ con, gần gia đình và
sống phụ thuộc hồn tồn vào gia đình.
Nhóm thứ hai, từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi, nhóm này có đặc điểm đang ở giai
đoạn sắp bước vào tuổi thành niên, nhận thức xã hội khá hơn nhóm thứ nhất nhưng vẫn
chưa tách khỏi gia đình, kinh tế cịn phụ thuộc vào gia đình.
Như vậy, có thể nói rằng khái niệm "trẻ em" trong pháp luật Việt Nam không đồng
nhất với khái niệm "người chưa thành niên". Trẻ em là người dưới 16 tuổi, NCTN là người
14
dưới 18 tuổi, nên trẻ em là NCTN, nhưng NCTN có thể khơng phải là trẻ em. Từ đó chúng
tơi đưa ra khái niệm NCTN như sau: NCTN là người dưới 18 tuổi, chưa phát triển hoàn
thiện về thể chất và tinh thần, chưa có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ pháp lý như người đã
thành niên.
1.1.2. Khái niệm người chưa thành niên phạm tội
Điều 40(1) Công ước quyền trẻ em đề cập đến NCTNPT là trẻ em có hành vi vi
phạm pháp luật hình sự. Điều 37 cịn đề cập đến khái niệm trẻ em bị tước tự do. Khái niệm
này có thể được hiểu (tương đương với) là NCTNPT bị tước tự do. Ngoài các khái niệm trên,
một thuật ngữ khác cũng thường được sử dụng bởi một số cơ quan nhân quyền LHQ và tổ
chức quốc tế khác, đó là trẻ em làm trái pháp luật, NCTN vi phạm pháp luật. Theo UNICEF,
NCTN làm trái với pháp luật là những người dưới 18 tuổi phải làm việc với hệ
thống tư pháp do bị nghi ngờ hay bị cáo buộc là phạm tội. Cũng có quanđiểm cho rằng,
NCTN vi phạm pháp luật hay làm trái pháp luật được hiểu là “những người dưới 18 tuổi đã
thực hiện, hoặc bị tố cáo là đã thực hiện một hành vi vi phạm pháp luật (hành chính hoặc
hình sự)” [90]. Như vậy, khái niệm NCTN vi phạm pháp luật có nội hàm rộng hơn khái niệm
NCTNPT, do vi phạm pháp luật khơng có nghĩa chỉ bao gồm pháp luật hình sự, và khơng có
nghĩa trong mọi trường hợp sẽ dẫn đến hậu quả là NCTN bị truy cứu TNHS và bị xác định là
phạm tội như với trường hợp NCTNPT.
Ở Việt Nam, NCTNPT là thuật ngữ được sử dụng nhiều trong luật hình sự và tố
tụng hình sự. BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) có một chương riêng (chương
X): Những quy định đối với NCTNPT. BLTTHS năm 2003 cũng đề cập đến khái niệm
NCTNPT trong nhiều quy định của Chương XXXII (Thủ tục tố tụng với NCTN). Tuy nhiên,
cho đến nay pháp luật vẫn chưa nêu ra một định nghĩa chính thức về NCTNPT.
Theo GS.TSKH Lê Cảm và TS. Đỗ Thị Phượng thì NCTNPT là người từ đủ 14 tuổi
đến dưới 18 tuổi có năng lực TNHS chưa đầy đủ, do hạn chế bởi các đặc điểm tâm sinh lý và
đã có lỗi (cố ý hoặc vơ ý) trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự
cấm [13]. Quan niệm này chủ yếu vẫn nhắc lại quy định của pháp luật và đưa ra khái niệm
trên cơ sở độ tuổi của NCTN và tiếp cận ở góc độ hẹp - tội phạm học.
Theo pháp luật Việt Nam hiện nay, người phạm tội là “người có đủ dấu hiệu của
chủ thể của tội phạm đã thực hiện hành vi được luật hình sự quy định là tội phạm” [86,
tr.36]. Người phạm tội có thể đã hoặc chưa thành niên, trong đó NCTNPT là một dạng đặc
thù của người phạm tội nói chung, ranh giới ngăn cách NCTNPT và người thành niên phạm
15
tội là 18 tuổi tròn [114, tr.311]. Người từ đủ 18 tuổi trở lên thực hiện hành vi nguy hiểm cho
xã hội và bị coi là tội phạm, họ được xem là những người đã thành niên phạm tội, còn người
chưa đủ 18 tuổi mà thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm thì sẽ được
xem là NCTNPT.
Theo Điều 12 BLHS 1999, NCTNPT chỉ bao gồm những người từ đủ 14tuổi nhưng
chưa đủ 18 tuổi. Việc quy định về NCTNPT trong luật hình sự trước hết có ý nghĩa xác định
ranh giới giữa hành vi phạm tội với hành vi không phải là tội phạm do họ thực hiện. Tuy
nhiên, không phải tất cả NCTN từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội đều bị coi là tội phạm. Luật hình sự quy định cụ thể, một người nếu chưa đủ
14 tuổi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội hoặc một người từ đủ 14 nhưng chưa đủ 16
tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng hoặc tội rất nghiêm trọng với lỗi vơ ý thì đều
khơng phải chịu TNHS.
Như vậy, NCTNPT được quy định trong luật hình sự chủ yếu nhằm xác định tội
phạm đối với hành vi do NCTN thực hiện, hình phạt và các biện pháp tư pháp khác cần áp
dụng với NCTNPT cho phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm
mà họ đã thực hiện trên cơ sở những đặc điểm tâm, sinh lí của họ vào thời điểm họ phạm tội.
Do đó, NCTNPT có thể là: Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng
do cố ý, phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; Nguời từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm một tội
được quy định trong BLHS.
Từ những phân tích trên có thể hiểu NCTNPT là người từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 18
tuổi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, có lỗi và phải chịu
hình phạt.
1.1.3. Đặc điểm của người chưa thành niên phạm tội
Hành vi phạm tội của người chưa thành niên luôn chịu sự chi phối của đời sống
tâm lí, đặc điểm cá nhân trong hoàn cảnh xã hội của họ. Vậy đặc điểm tâm lí nào của
người chưa thành niên là nguyên nhân dẫn đối tượng này đến thực hiện hành vi phạm tội.
Cần phải thấy rằng, đối với con người, đặc trưng cơ bản là hoạt động có ý thức, có mục
đích. Tội phạm được thực hiện do cố ý hoặc vô ý nhưng vẫn là hành vi của một chủ thể là
con người có ý thức, do vậy, nguyên nhân dẫn đến hành vi này không chỉ phụ thuộc vào
chủ thể hành động với những kết cấu hết sức phức tạp về tâm sinh lí mà cịn phụ thuộc
vào những hoàn cảnh xã hội mà họ trải nghiệm. Trong bài viết này, chúng tơi phân tích
16
một số đặc điểm tâm lí của người chưa thành niên phạm tội với mục đích làm sáng tỏ một
phần nguyên nhân phạm tội ở lứa tuổi chưa thành niên.
Thứ nhất, về trạng thái xúc cảm: Người chưa thành niên là người đang trong
quá trình phát triển cả về sinh lí, tâm lí và ý thức. Đây là giai đoạn diễn ra những biến cố
rất đặc biệt, đó là sự phát triển cơ thể mất cân bằng nên đã dẫn đến tình trạng mất cân
bằng tạm thời trong cảm xúc của người chưa thành niên. Sự phát triển không cân bằng
của hệ tim và mạch. Tim phát triển nhanh hơn các mạch máu đã gây ra sự thiếu máu
trong từng bộ phận trên vỏ não và đơi khi cịn làm rối loạn chức năng trong hoạt động
của hệ tim mạch. Do đó, người chưa thành niên có cảm giác mệt mỏi, chóng mặt, nhức
đầu, sức làm việc suy giảm, dễ bị kích động, dễ nổi nóng… Đồng thời, tuyến nội tiết ở
người chưa thành niên hoạt động mạnh (đặc biệt là tuyến sinh dục và tuyến giáp trạng)
gây ra sự mất cân bằng trong hoạt động của hệ thần kinh trung ương, dễ đưa họ đến
những cơn xúc động mạnh, những phản ứng nóng nảy vơ cớ, những hành vi bất bình
thường.
Trên thực tế, trạng thái thần kinh, trạng thái cảm xúc khơng cân bằng có thể là
yếu tố gây nên các hành vi lệch chuẩn. Có khơng ít trường hợp, do xuất phát từ những
mâu thuẫn nhỏ, nhưng không kiềm chế được sự nóng giận q khích mà người chưa
thành niên đã phạm phải hành động sai lầm, thậm chí là thực hiện hành vi phạm tội. Như
vậy, sự mất cần bằng tạm thời về trạng thái xúc cảm của người chưa thành niên là một
trong những nhân tố có thể dẫn tới hành vi phạm tội khi các em khơng làm chủ được bản
thân và khi nó được kết hợp với một số yếu tố tâm lí có tính tiêu cực khác.
Thứ hai, về nhận thức pháp luật: Có thể nói, lứa tuổi chưa thành niên là giai
đoạn phát triển như “vũ bão” về mặt sinh học nhưng lại thiếu cân đối về mặt trí tuệ. Đó là
lứa tuổi mà kinh nghiệm trong cuộc sống cịn q ít ỏi, đặc biệt là khả năng nhận thức về
pháp luật còn nhiều hạn chế. Thực tế cho thấy những người chưa thành niên còn rất non
nớt về kiến thức xã hội và ý thức pháp luật. Nhận thức và quan niệm về pháp luật chưa
hình thành đầy đủ hoặc bị lệch lạc theo cách hiểu chủ quan của họ.
Một biểu hiện khác của sự nhận thức về pháp luật chưa đúng đắn là khơng ít em
cho rằng, những u cầu và những đòi hỏi của các chuẩn mực luật pháp chỉ được quy
định trong các văn bản pháp luật và hồn tồn mang tính hình thức cịn hành động thì
phải căn cứ vào nhu cầu cụ thể của cá nhân mới thể hiện được cuộc sống tự do. Thực tế
cho thấy, nhiều người chưa thành niên thực hiện hành vi phạm tội đặc biệt nghiêm trọng
17
nhưng lại khơng biết rằng mình phạm tội, khơng thấy được hết tính nguy hiểm đối với xã
hội của hành vi đó mà lại cho rằng hành vi của mình là hợp pháp, là tự vệ hoặc bảo vệ
quyền lợi hợp pháp của mình. Một phần khơng nhỏ người chưa thành niên thực hiện hành
vi phạm tội chỉ để thỏa mãn nhu cầu, hứng thú không đúng đắn của cá nhân, không quan
tâm đến hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Chỉ khi được giải thích, phân tích thì các em mới
hiểu rằng hành vi của mình là phạm tội.
Như vậy, ý thức pháp luật là nhân tố rất quan trọng đối với sự phát triển nhân
cách của người chưa thành niên. Song, khi các em khơng có được ý thức pháp luật đúng
đắn thì nguy cơ dẫn tới hành vi phạm tội là rất cao.
Thứ ba, về nhu cầu độc lập: Những phát triển mạnh mẽ về thể chất và sự hoàn
thiện cơ bản của các chức năng sinh lí làm cho người chưa thành niên có ấn tượng sâu
sắc rằng “mình khơng cịn là trẻ con nữa”. Đặc điểm tâm lí nổi bật, đặc trưng nhất mà ta
thường thấy ở lứa tuổi này là sự biểu hiện nhu cầu độc lập. Nhu cầu độc lập là mong
muốn tự hành động, tự đưa ra quyết định theo cách phù hợp với nhận thức của bản thân
hơn là để thoả mãn địi hỏi của xã hội, mơi trường hay của người khác. Nhu cầu độc lập
có thể được hiểu là việc cá nhân tự hành động và tự ra quyết định theo ý kiến riêng mà
không muốn bị ảnh hưởng của người khác. Có thể nói nhu cầu độc lập là sự phát triển tất
yếu và rất cần thiết của các em ở lứa tuổi chưa thành niên. Đây là cơ sở quan trọng giúp
các em trở thành người lớn sau này. Tuy vậy, vấn đề đặt ra là khi nào thì nhu cầu độc lập
trở thành một trong những nguyên nhân của hành vi phạm tội ở lứa tuổi này?
Thực tế cho thấy, không phải tất cả các em khi hình thành và phát triển nhu cầu
độc lập đều có nguy cơ phạm tội. Nhu cầu độc lập của các em chỉ trở thành nguyên nhân
dẫn tới các hành vi phạm tội trong một số trường hợp, cụ thể là: Khi các em mong muốn
tự hành động, tự quyết định để phù hợp với những nhận thức, thái độ của mình. Chính
điều này đã làm giảm đi sự phụ thuộc vào những quyết định của cha mẹ. Nhưng chúng ta
cũng cần lưu ý rằng, nhu cầu độc lập không chỉ có mặt tích cực mà cịn có mặt tiêu cực
nếu một khi nó phát triển theo hướng thái quá. Do ln có ý thức tự trọng và mong muốn
được tôn trọng như người lớn, người chưa thành niên thường có tâm lí “phóng đại” các
khả năng của mình, đánh giá chúng cao hơn hiện thực. Đặc biệt, ở lứa tuổi chưa thành
niên, nhu cầu độc lập thái quá thường biểu hiện ra bên ngoài dưới dạng các hành vi như
ngang bướng, cố chấp, dễ tự ái, gây gổ, phô trương. Tất cả những hành vi này của người
18
chưa thành niên đều mang tính chất của hành vi lệch chuẩn, dễ dẫn tới các hành vi phạm
tội.
Thứ tư, về nhu cầu khám phá cái mới: Tìm hiểu, khám phá cái mới là một trong
những nhu cầu của các em ở lứa tuổi chưa thành niên. Điều đáng lưu ý là các em khơng
chỉ có nhu cầu khám phá cái mới mà cịn tìm tịi, thử nghiệm cái mới, trong đó có cả
những cái thiếu lành mạnh, trái với các chuẩn mực xã hội. Đây chính là một trong những
nguyên nhân dẫn tới hành vi phạm tội của các em. Vấn đề này có thể được lí giải như
sau: Các em rất tị mị, hiếu động, có xu hướng tìm kiếm, khám phá những cái mới lạ, hay
bắt chước nên rất dễ bị lôi cuốn vào những hoạt động tiêu cực. Trong hồn cảnh đó,
những tật xấu sẽ được bộc lộ, ngày càng được củng cố và phát triển. Những nhu cầu,
hứng thú, thói quen xấu dần dần được hình thành như nghiện thuốc lá, nghiện ma túy,
thuốc lắc, nghiện rượu, ăn quà vặt, ham mê những trò chơi giải trí vơ bổ, thiếu lành mạnh
như xem phim ảnh đồi trụy, bạo lực, nghiền “chát”, chơi điện tử…
Như vậy, nhu cầu khám phá cái mới của người chưa thành niên là nhân tố cần
thiết đối với sự phát triển nhân cách, đặc biệt phát triển về nhận thứTuy vậy, sự tị mị và
khám phá cái mới cũng có thể trở thành một trong những nguyên nhân dẫn tới hành vi
phạm tội của các em , nếu các em thiếu sự hướng dẫn, kiểm tra, giám sát của gia đình, xã
hội, không tự chủ được bản thân và không phân biệt được phải trái, đúng sai.
19
1.2.Đường lối và các nguyên tắc xử lý đối với người thành niên phạm tội.
Bộ luật hình sự là văn bản thể hiện chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong việc
thực thi nghĩa vụ của quốc gia thành viên Công ước Quyền trẻ em, nhằm tăng cường hiệu
quả giáo dục, phục hồi đối với người chưa thành niên phạm tội. Khi người chưa thành niên
là chủ thể tội phạm thì việc xử lý các em phải tuân theo nguyên tắc nhất định. Xuất phát từ
đặc điểm tâm sinh lý của người chưa thành niên, trên cơ sở niềm tin vào khả năng cải tạo,
giáo dục người chưa thành niên phạm tội, nên chính sách nhân đạo của Đảng, Nhà nước ln
mong muốn giúp họ tích cực cải tạo, sửa chữa sai lầm để trở thành người có ích cho xã hội.
Chính sách đó được thể hiện rõ nét và tập trung nhất tại Điều 69 BLHS, trong mọi trường
hợp điều tra, truy tố, xét xử hành vi phạm tội của người chưa thành niên, các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền phải xác định khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã
hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm. Đây là nguyên tắc
mang tính chỉ đạo, thể hiện chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta trong quá trình xử
lý người chưa thành niên phạm tội.
1.2.1. Nguyên tắc thứ nhất là việc xử lí người chưa thành niên phạm tội chủ
yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành
cơng dân có ích cho xã hội
“Việc xử lý người chưa thành niên phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ
sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành cơng dân có ích cho xã hội.
Trong mọi trường hợp điều tra, truy tố, xét xử hành vi phạm tội của người chưa
thành niên, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải xác định khả năng nhận thức của
họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây
ra tội phạm.” ( Khoản 1 Điều 69 BLHS 1999, sửa đổi bổ sung 2009)
Người chưa thành niên là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất cũng như về
tâm sinh lý, trình độ nhận thức và kinh nghiệm sống của họ còn hạn chế, nguyên nhân và
điều kiện dẫn đến người chưa thành niên phạm tội phần lớn do môi trường sống của họ,
trong đó có một phần trách nhiệm lớn của gia đình và xã hội. Chính vì vậy, việc xử lý
người chưa thành niên phạm tội chủ yếu là nhằm giáo dục họ ý thức tôn trọng pháp luật,
tôn trọng các qui tắc của cuộc sống xã hội XHCN, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển
lành mạnh và trở thành người có ích cho xã hội.
Do chưa phát triển và hồn thiện về các mặt, cho nên khơng phải bất cứ trường
hợp phạm tội cụ thể nào người chưa thành niên cũng có đầy đủ năng lực trách nhiêm hình
20
sự, tức là có khả năng nhận thức đầy đủ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà
mình thực hiện và hậu quả của nó cũng như khả năng điều khiển hành vi ấy. Năng lực
này đối với từng trường hợp phạm tội cụ thể là rất khác nhau. Vì thế, luật hình sự Việt
Nam địi hỏi trong mọi trường hợp điều tra, truy tố và xét xử hành vi phạm tội của người
chưa thành niên, các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phải xác định rõ khả năng nhận
thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.
Chỉ khi làm rõ những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến mức độ nguy hiểm của
hành vi và nhân thân người phạm tội thì các cơ quan tư pháp và người tiến hành tố tụng
mới có thể giúp họ nhận thức ra được lỗi lầm và sửa chữa để trở thành người có ích cho
xã hội. Mặt khác, người chưa thành niên chịu sự tác động chủ yếu của môi trường sống.
Sự hình thành và phát triển nhân cách cũng như các đặc điểm nhân thân khác của người
chưa thành niên chịu chi phối bởi qui định bởi nền giáo dục, đào tạo của gia đình, nhà
trường, xã hội. Nguyên nhân và điều kiện dẫn đến người chưa thành niên phạm tội phần
lớn do môi trường sống của họ tạo ra. Vì vậy, khi điều tra, truy tố, xét xử hành vi phạm
tội của người chưa thành niên, các cơ quan có thẩm quyền khơng những phải xác định
năng lực TNHS của họ mà phải còn xác định nguyên nhân, điều kiện phạm tội từ đó để
đưa ra giải pháp thích hợp, nhằm cải tạo, giáo dục người chưa thành niên phạm tội có
hiệu quả.
Nguyên tắc này cũng phù hợp với mục tiêu “cải huấn can phạm” được quy định
tại Điều 40 Công ước Quốc tế về quyền trẻ em năm 1989 (CRC). Khoản 1 Điều 40
Công ước Quốc tế về quyền trẻ em quy định: “Các Quốc gia thành viên thừa nhận
quyền của mọi trẻ em bị coi là, bị tố cáo hay bị công nhận là đã vi phạm luật hình sự,
được đối xử theo cách thức phù hợp với việc cổ vũ ý thức của trẻ em về phẩm cách và
phẩm giá, tăng cường lịng tơn trọng của trẻ em đối với các quyền con người và các
quyền tự do cơ bản của người khác, cách thức đối xử cũng phải tính đến lứa tuổi của trẻ
em và đến điều mong muốn làm sao thúc đẩy sự tái hồ nhập và việc đảm đương một vai
trị xây dựng trong xã hội của trẻ em.”
Thể hiện nguyên tắc nhân đạo XHCN, các biện pháp áp dụng đối với người chưa
thành niên phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục họ, làm cho họ thấy được tính chất của tội
phạm, sự nghiêm minh của pháp luật, bản chất nhân đạo của các biện pháp áp dụng. Chỉ
trong những trường hợp phạm tội có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội cao, ý
21
thức phạm tội của người chưa thành niê sâu sắc mới cần thiết áp dụng các biện pháp
trừng trị đối với họ.
1.2.2. Nguyên tắc thứ hai là miễn trách nhiệm hình sự đối với người chưa
thành niên phạm tội
Miễn trách nhiệm hình sự là miễn hậu quả pháp lý bất lợi của việc phạm tội, thể
hiện ở chỗ người phạm tội khơng phải chịu sự kết tội của Tịa án, khơng bị coi là có tội,
khơng phải chịu hình phạt và khơng phải mang án tích. Tại khoản 2 Điều 69 Bộ luật hình
sự hiện hành có quy định: “Người chưa thành niên phạm tội có thể được miễn trách
nhiệm hình sự, nếu người đó phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng, gây hại
khơng lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám
sát, giáo dục”.
Biện pháp này được áp dụng khi có căn cứ pháp lý do luật thực định quy định tại
khoản 2 Điều 69 BLHS năm 1999. Theo đó, điều kiện để NCTN được áp dụng chế định
nhân đạo của BLHS năm 1999 cụ thể như sau:
Thứ nhất: người phạm tội là NCTN từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi.
Thứ hai: Tội phạm người đó thực hiện phải là tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm
trọng, gây thiệt hại khơng lớn.
Thứ ba: Người phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ TNHS.
Thứ tư: Người đó được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục.
-
Người phạm tội là NCTN từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi.
Theo Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 5/1/1986 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS (năm 1985) thì cách tính
tuổi đủ là tính kể từ ngày, tháng, năm sinh đối chiếu với ngày, tháng, năm thực hiện tội
phạm. Ví dụ, một người sinh ngày 31/12/1996 thì ngày 31/12/2010 người đó được coi là
đủ 14 tuổi.
Việc xác định độ tuổi của một người phải dựa trên những giấy tờ có ý nghĩa pháp
lý xác thực như giấy khai sinh, chứng minh thư, sổ hộ khẩu... Trong trường hợp những
giấy tờ trên không phản ánh được thực tế độ tuổi mà có những chứng cứ khác xác thực
thì phải dựa trên những chứng cứ xác thực đó để tính độ tuổi. Tại Nghị quyết số
02/HĐTP ngày 5/1/1986, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã hướng dẫn:
"Trong trường hợp khơng có điều kiện xác định được chính xác ngày sinh thì tính ngày
22
sinh theo ngày cuối cùng của tháng sinh và nếu cũng khơng có điều kiện xác định chính
xác tháng sinh thì xác định ngày sinh là 31/12 năm sinh".
Theo điều 12 BLHS 1999 cũng có sự phân hóa TNHS trong lứa tuổi NCTN
phạm tội, quy định: "Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội
phạm. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự
về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng" Như vậy,
người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi không phải chịu TNHS về những tội phạm ít nghiêm
trọng, nghiêm trọng và rất nghiêm trọng do vô ý. Đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18
tuổi có đủ khả năng nhận thức tính nguy hiểm cho xã hội và điều khiển hành vi của mình
nên họ phải chị TNHS về mọi loại tội phạm do mình gây ra.
- Tội phạm mà NCTN thực hiện phải là tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm
nghiêm trọng, gây hại khơng lớn.
Phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng theo Điều 8 BLHS hiện hành thì
tội ít nghiêm trọng là tội phạm có mức cao nhất của khung hình phạt là đến 3 năm tù, tội
nghiêm trọng là tội phạm mà mức cao nhất của khung hình phạt là đến 7 năm tù. Ở điều
kiện này, người chưa thành niên phạm tội tội phạm có mức cao nhất của khung hình phạt
là đến 7 năm tù. Gây hại không lớn nghĩa là hậu quả và tác hại của tội phạm không lớn.
- Người chưa thành niên phải có nhiều tình tiết giảm nhẹ TNHS.
Về điều kiện này luật địi hỏi phải có nhiều tình tiết giảm nhẹ, tức là NCTN
phạm tội phải có ít nhất từ hai tình tiết giảm nhẹ TNHS trở lên. Mặc dù vậy, luật cũng
chưa quy định rõ các tình tiết giảm nhẹ đó bắt buộc phải quy định tại khoản 1 Điều 46
BLHS năm 1999 hay không ? Theo chúng tơi, các tình tiết giảm nhẹ ở đây được hiểu là
những tình tiết giảm nhẹ TNHS có thể được quy định trong luật (khoản 1 Điều 46) và có
thể không được quy định trong luật mà trong các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật
hoặc do Tòa án tự cân nhắc trong từng trường hợp cụ thể và ghi rõ trong bản án. Theo
Nghị quyết số 01/HĐTP ngày 08/ 04/2000 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao Tịa án có thể coi các tình tiết khác ngồi khoản 1 Điều 46 BLHS là tình tiết giảm nhẹ
TNHS mà cụ thể là: Vợ, chồng, cha, mẹ, con, anh, chị, em ruột bị cáo là người có cơng
với Nhà nước hoặc có thành tích xuất sắc được Nhà nước tặng một trong các danh hiệu
vinh dự như anh hùng lao động, anh hùng lực lượng vũ trang, người mẹ Việt nam anh
hùng, nghệ sĩ nhân dân, thầy thuốc nhân dân, thầy thuốc ưu tú, nhà giáo nhân dân, nhà
23
giáo ưu tú hoặc các danh hiệu cao quý khác theo quy định của Nhà nước, bị cáo là
thương binh hoặc có người thân thích như vợ, chồng, cha, mẹ, con (con đẻ hoặc con
nuôi) anh, chị, em ruột là liệt sỹ, bị cáo là người tàn tật do bị tai nạn trong lao động hoặc
cơng tác mà có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên, người bị hại cũng có lỗi, thiệt hại do lỗi
của người thứ ba, gia đình bị cáo đã sửa chữa bồi thường thiệt hại thay cho bị cáo; người
bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo
trong trường hợp chỉ gây tổn hại về sức khỏe của người bị hại, gây thiệt hại về tài sản;
phạm tội trong trường hợp vì phục vụ yêu cầu công tác đột xuất như đi chống bão, lũ, cấp
cứu.
Như vậy, việc mở rộng phạm vi áp dụng các tình tiết giảm nhẹ TNHS thể hiện rõ
xu hướng nhân đạo hóa trong chính sách hình sự nói chung, đường lối xử lý đối với
NCTN nói riêng, đồng thời cũng thể hiện phương châm việc xử lý NCTN phạm tội chủ
yếu giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có
ích cho xã hội.
- Người chưa thành niên được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức xã hội nhận giám
sát, giáo dục.
Gia đình là tế bào của xã hội, là nơi mỗi người lớn lên, sinh sống, phát triển và
hồn thiện nhân cách của mình. Vì thế, đối với NCTN thì gia đình là tổ ấm, là chỗ dựa
vững chắc nhất, là môi trường thuận lợi nhất cho học tập, tu dưỡng rèn luyện, có vai trị
quan trọng đối với NCTN mà ở đó hình thành lối sống, phẩm chất đạo đức, cũng như
hoàn thiện con người tốt nhất. Cho nên việc gia đình NCTN nhận trách nhiệm giám sát,
giáo dục NCTN cũng có thể coi là điều kiện tốt để giáo dục, cải tạo giúp đỡ người phạm
tội có hiệu quả. Hơn nữa, cơ quan, tổ chức xã hội cũng là nơi mà NCTN có thể được học
tập, lao động, học nghề, rèn luyện lối sống để hoàn thiện bản thân và đó cũng là mơi
trường sống của NCTN; vì vậy nếu cơ quan, tổ chức có uy tín nhận giám sát, giáo dục,
cải tạo NCTN phạm tội thì cũng cần phải tạo cơ hội để cơ quan, tổ chức đó giúp đỡ, gánh
vác việc giáo dục - cải tạo NCTN phạm tội, góp phần xã hội hóa việc giáo dục NCTN
phạm tội
Ngoài bốn trường hợp quy định miễn trách nhiệm hình sự được áp dụng riêng
với người chưa thành niên phạm tội như trên, người chưa thành niên phạm tội cịn được
miễn trách nhiệm hình sự theo các quy định tại Điều 25, khoản 2 Điều 69 BLHS hiện
hành và ở phần riêng của một số tội phạm cụ thể. Điều này thể hiện sự khoan hồng đặc
24
biệt và chính sách nhân đạo của Nhà nước Việt Nam đối với người chưa thành niên phạm
tội, phù hợp với quyền con người của người chưa thành niên được ghi nhận tại điểm b
Khoản 3 Điều 40, Điều 41 Công ước về quyền trẻ em năm 1989, bảo đảm yêu cầu “có
các biện pháp xử lý trẻ em vi phạm pháp luật hình sự mà khơng phải sử dụng đến quá
trình tố tụng tư pháp.”
PLHS Việt Nam quy định chế định miễn TNHS đối với NCTN phạm tội có ý
nghĩa quan trọng trong áp dụng pháp luật cũng như giáo dục cải tạo NCTN phạm tội,
không những động viên, khuyến khích người phạm tội lập cơng chuộc tội, chứng tỏ khả
năng giáo dục, cải tạo nhanh chóng hịa nhập cộng đồng mà còn tạo cơ sở pháp lý cho sự
kết hợp các biện pháp cưỡng chế hình sự của nhà nước với các biện pháp tác động xã hội
trong việc giáo dục, cải tạo người phạm tội, giúp họ trở thành người có ích trong xã hội.
Qua đó góp phần thể hiện rõ nét quan điểm của Nhà nước là không để lọt tội phạm và
người phạm tội cũng như không làm oan người vô tội, phần nào làm giảm nhẹ cường độ
việc áp dụng TNHS đối với NCTN phạm tội khi có đầy đủ căn cứ pháp lý và những điều
kiện theo luật định.
1.2.3. Nguyên tắc thứ ba là việc truy cứu trách nhiệm hình sự người chưa
thành niên phạm tội và áp dụng hình phạt đối với họ được thực hiện chỉ trong trường
hợp cần thiết và phải căn cứ vào tính chất của hành vi phạm tội, vào những đặc điểm
về nhân thân và yêu cầu của việc phòng ngừa tội phạm
“Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người chưa thành niên phạm tội và áp dụng
hình phạt đối với họ được thực hiện chỉ trong trường hợp cần thiết và phải căn cứ vào
tính chất của hành vi phạm tội, vào những đặc điểm về nhân thân và yêu cầu của việc
phòng ngừa tội phạm” ( khoản 3 Điều 69 Bộ luật hình sự hiện hành).
Nguyên tắc thứ ba của việc xử lý người chưa thành niên phạm tội thể hiện tính
nhân đạo sâu sắc. Cùng với nguyên tắc thứ nhất, nguyên tắc này đặt yêu cầu và giới hạn
phạm vi những trường hợp cần truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người chưa thành
niên phạm tội. Việc truy cứu trách nhiệm hình sự chỉ đặt ra khi nó thực sự cần thiết và
xuất phát từ yêu cầu phòng ngừa tội phạm. Kể cả khi người chưa thành niên phạm tội và
bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì họ vẫn có khả năng khơng bị áp dụng hình phạt. Thay
vào vị trí của hình phạt họ có thể áp dụng các biện pháp tư pháp nếu biện pháp này đủ tác
dụng cải tạo họ thành cơng dân có ích cho xã hội. Sự “cần thiết” hay “không cần thiết”
25
trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự và áp dụng hình phạt đối với người chưa thành
niên phạm tội được xác định căn cứ vào:
- Tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội đã thực hiện. Nếu hành vi
phạm tội của người chưa thành niên có tính chất khơng lớn thì khơng cần thiết phải truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với họ.
- Đặc điểm nhân thân của người chưa thành niên phạm tội. Nếu người chưa thành
niên lần đầu phạm tội, có nhân thân tốt thì cần thiết phải cân nhắc việc có truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với họ hay khơng.
- u cầu cụ thể của việc phòng ngừa tội phạm đối với bản thân người chưa
thành niên phạm tội và đối với người khác trong xã hội.
Đây là những yếu tố xác định tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội và
khả năng cải tạo giáo dục đối với người chưa thành niên. Do đó, khi truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với người chưa thành niên thì cơ quan tiến hành tố tụng phải cân nhắc đến
các yếu tố này nhằm bảo đảm tốt nhất quyền con người của người chưa thành niên.
1.2.4. Nguyên tắc thứ tư là khi xét xử, nếu thấy không cần phải áp dụng hình
phạt đối với người chưa thành niên phạm tội thì tịa án áp dụng một trong các biện
pháp tư pháp như giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng.
“Khi xét xử, nếu thấy không cần phải áp dụng hình phạt đối với người chưa
thành niên phạm tội thì tịa án áp dụng một trong các biện pháp tư pháp được qui định
tại Điều 70 BLHS” (khoản 4 Điều 69 Bộ luật hình sự hiện hành).
Điểu 69 Bộ luật hình sự hiện hành đã xây đựng một nguyên tắc nhằm hạn chế
việc áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội bằng việc áp dụng các
biện pháp tư pháp để thay thế. Nguyên tắc này cụ thể hóa một trong những nội dung
của nguyên tắc thứ ba: "Việc truy cứu trách nhiệm hình sự người chưa thành niên phạm
tội và áp dụng hình phạt đối với họ được thực hiện chỉ trong trường hợp cần thiết”.
Nguyên tắc này yêu cầu Tòa án phải lựa chọn giữa việc áp dụng hình phạt đối vối
người chưa thành niên phạm tội hoặc áp dụng biện pháp tư pháp đối vối họ, trong đó
việc áp dụng biện pháp để thay thế cho hình phạt được ưu tiên áp dụng. Điều này đã
làm rõ hơn chủ trương của Đảng và Nhà nước ta trong đường lối xử lý đối với người
chưa thành niên phạm tội: việc áp dụng hình phạt đối vói người chưa thành niên chí
được thực hiện khi thật sự cần thiết và đểu nhằm bảo đảm tốt nhất cho sự phát triển
toàn diện của người chưa thành niên, cho dù họ là người phạm tội.