Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

BẢY PHÁP DỨT SỰ TRANH CÃI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (418.62 KB, 23 trang )

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI TP.HỒ CHÍ MÍNH

-----------------------------------------------------

LÊ VĂN CAN

BẢY PHÁP DỨT SỰ TRANH CÃI

Tiểu luận học kỳ 2: Môn Luật Học Phật Giáo Đại Cương

Người hướng dẫn khoa học: TT.TS THÍCH GIÁC DŨNG

TP.Hồ Chí Minh ,Năm 2020.


GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI TP.HỒ CHÍ MÍNH

-----------------------------------------------------

TÊN TÁC GIẢ: LÊ VĂN CAN
PHÁP DANH: TRÍ CƯỜNG
LỚP ĐTTX: KHĨA VI
MSSV: TX 6031

BÀI TIỂU LUẬN

BẢY PHÁP DỨT SỰ TRANH CÃI

Tiểu luận học kỳ 2: Môn Luật Học Phật Giáo Đại Cương


Người hướng dẫn khoa học: TT.TS THÍCH GIÁC DŨNG

TP.Hồ Chí Minh , Năm 2020.


LỜI CẢM ƠN :
Tôi xin trân thành tri ân những cá nhân, tập thể và những ai liên quan đã hướng
dẫn giúp đỡ, cộng tác trong quá trình thực hiện đề tài.
(Tác giả tiểu luận ký tên).

Lê Văn Can

NHẬN XÉT CỦA HỘI ĐỒNG XÉT DUYỆT
............................................................................................................... ………..
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
.............................................................................................................................
TP.HCM, ngày 04 tháng 04 năm 2020
Trưởng tiểu ban xét duyệt


MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU........................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................ 1

2. Phạm vi đề tài ..................................................................................................... 1
3. Cơ sở tài liệu ...................................................................................................... 1
4. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................................ 1
5. Bố cục tiểu luận ................................................................................................. 2
B. NỘI DUNG…………………………………………………………………..3

Chương1 : Sự hình thành và phát triển các bộ phái phật giáo và
ngơn ngữ của luật tạng
1.Sự hình thành và phát triển các bộ phái phật giáo ....................................... 3
1.1 Tam tạng của các bộ phái phật giáo .......................................................... 3
1.1.1.Thượng tọa bộ …………………………………………………………3
1.1.2. Thuyết nhứt thuyết hữu bộ…………………………............................4
1.1.3.Đại thừa………………………………………………………………..4
1.2 .Ngôn ngữ của luật tạng………………………………………………….4
1.2.1.Sự phát triển các loại mẫu tự được dùng để viết chữ ………………….5
Chương 2:Dữ liệu luật và kinh liên quan
2. 1. Dữ liệu luật .............................................................................................. .5
2.2. Kinh liên quan ………………………………………………………….5
Chương 3: Khái niệm ngũ thiên và thất tụng


3.1. Khái niệm ngũ thiên…………………………………………………….6
3.1.1.Năm nhóm tội nặng đến nhẹ……………………………………………7
3.1.1.1.Chia theo nhóm……………………………………………………..8-9
Chương 4:Nội dung và bảy pháp diệt tránh
4.1.Nội dung chi tiết bảy pháp dứt sự tranh cãi…………………………………10
4.2.Bảy cách dứt sự tranh cãi và các trường hợp áp dụng……………………….10
4.2.1.Ngôn tránh …………………………………………………………………11
4.2.2.Mích tránh………………………………………………………………….12
4.2.3.Phạm tránh …………………………………………………………………13

4.2.4.Sự tránh…………………………………………………………………….14
4.3.Nhân dun Đức Phật nói bảy pháp dứt sự tranh cãi………………………..15
4.3.1.Hiện tiền tì ni……………………………………………………………….15
4.3.1.2.Ức niệm tì ni……………………………………………………………...15
4.3.1.3.Bất si tì ni…………………………………………………………………15
4.3.1.4.Tự ngơn trị………………………………………………………………..15
4.3.1.5.Đa nhân ngữ……………………………………………………………...16
4.3.1.6.Mịch tội tướng tì ni………………………………………………………16
4.3.1.7.Như thảo phú địa tì ni…………………………………………………….16
C. KẾT LUẬN CHUNG ...................................................................................... 17

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 18


1. Lý do chọn đề tài:

A. MỞ ĐẦU:

Con đường siêu việt tam giới, đoạn trừ trần lao phiền não để thành tựu Phật quả chung qui
khơng ngồi sự kiến tạo của ba môn học: giới - định - tuệ. Ba môn học này là nền tảng duy
nhất để hành giả tiến thân đến thánh vị một cách vững chãi mà trong vơ lượng pháp mơn khó
tìm thấy tiêu chuẩn nào ưu việt hơn. Bởi thánh đạo hay Phật quả đều có từ sự thành tựu trí tuệ.
Tuệ phát sinh từ định. Định do giới mà có. Thế mới biết giới là cung bậc đầu tiên để kiến tạo
nền trí tuệ tối thượng. Do đó người học Phật nếu khơng xác định được giá trị quan trọng hàng
đầu của giới, bỏ qua giới mà muốn tiến thẳng đến quả chứng thì cũng khơng khác gì muốn nấu
cát thành cơm. Với mục đích và ý nghĩa nêu trên, người viết xin chọn đề tài “bảy pháp dứt sự
tranh cãi” để trình bày tiểu luận, nhằm cố gắng thể hiện sự học tập của mình và cũng là dịp
người viết có cơ hội nghiên cứu giới luật và củng cố những kiến thức đã học.
2. Phạm vi đề tài :
Trong tập luận văn này người viết chỉ trình bày những gì gọi là cơ bản thiết thực đối với

người xuất gia. Vì số trang có giới hạn cũng như thời gian khơng có nhiều nên người viết
khơng thể trình bày một cách chi tiết về giới luật, vì vậy chắc chắn s gặp phải những thiếu sót
l i lầm, ngưỡng mong Chư vị tôn túc giáo thọ sư từ bi, hoan hỷ chỉ dạy để tập tiểu luận được
hoàn chỉnh hơn.
3. Cơ sở tài liệu:
Trong quá trình thực hiện người viết đã được kham khảo những tài liệu về giới luật do
chư vị Tơn túc Hồ thượng, Thượng tọa, Ni trưởng… phiên dịch và chú giải để làm cơ sở
nghiên cứu cho tập tiểu luận này. Mục đích là nói lên các cách để chấm dứt sự tranh cãi tồn tại
của Phật pháp và đối với người xuất gia .cũng như người cư sĩ như thế nào? Từ đó mọi người
có cái nhìn sâu sắc hơn để nghiêm trì giới luật. Với mục đích ấy nội dung tiểu luận này cũng
muốn nhắc lại một lần nữa về sự quan trọng của giới bổn tứ phần luật trong đời sống xuất
gia.
4. Phương pháp nghiên cứu:

1


Như chúng ta đã biết, trên lộ trình tu tập giải thốt thì người xuất gia phải trải qua ba
mơn Vơ lậu học Giới-Định-Tuệ, vì đây là con đường duy nhất đưa đến Niết bàn an lạc.Trong
đó, Giới vơ lậu học đóng vai trị cơ bản nhất đối với người xuất gia, vì Giới chính là nền tảng
cho người xuất gia, là yếu tố quan trọng để sanh định và phát tuệ. Như thế, người xuất gia
trước tiên cần phải nghiêm trì giới luật. Trong đó Luật tạng được xem là bậc thầy cao cả của
đại chúng, như kinh Bồ tát giới viết:
“Giới như đại minh đăng
Năng tiên trường dạ ám
Giới như châu bảo kính
Chiếu pháp tận vơ vi
Giới như ma - ni châu
Vũ vật tế bần cùng
Ly thế tốc thành Phật

Duy thử pháp vi tối”.
Kinh Phương Đẳng đức Phật cũng nói: “Giới là cội gốc hết thảy các điều lành”, vì người
giữ giới là khn khổ làm cho thân, khẩu, ý được trong sạch, ngăn chặn tội l i phát sinh, diệt
trừ thói quen làm việc ác và do nhờ giữ giới trong sạch thì mới có thể duy trì các thiện pháp.
Bởi thế, người tu học Phật khơng thể khơng am tường giới luật, vì giới luật là mạng mạch của
tăng đồn. Qua đó, chúng ta thấy rằng Giới là nền tảng, là đạo lộ đưa đến hướng phát triển tâm
thức, nâng cao phẩm chất đạo đức nơi m i cá nhân để làm chất liệu bồi dưỡng cho trí tuệ. Vì
bản chất của giới luật là phịng hộ, là bờ đê ngăn cản những dòng nước đục từ bên ngoài các
ngõ thân và ngữ tràn vào tâm làm cho tâm tư vẩn đục. Song song đó, giới là suối nguồn thanh
tịnh, là nấc thang đầu tiên để bước đi những bước kế tiếp. Ví như một căn nhà được xây dựng
bằng một nền móng vững chắc, thì căn nhà ấy s tồn tại lâu dài.
5 .Bố cục tiểu luận: Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham
khảo, tiểu luận gồm 15 trang được kết cấu thành 4 chương, 9 tiết và 18 tiểu tiết

2


B.NỘI DUNG
Chương 1:Sự hình thành và phát triển các bộ phái Phật giáo
Và ngôn ngữ cổ của Luật tạng
1 : Sự hình thành và phát triển các bộ phái Phật giáo :
Phật giáo Nguyên thủy được thành lập từ khi đức Phật cịn tại thế và chỉ có một Kinh tạng và
một Luật tạng. Sau khi đức Phật nhập diệt, đạo Phật bắt đầu chia thành hai phái: một
là Thượng tọa bộ gồm những người lớn tuổi và chứng đắc A la hán và một là Đại Chúng
bộ gồm đa số cịn lại, có khuynh hướng phát triển, tiến bộ. Dần theo thời gian, các bộ
phái lại tiếp tục chia ra thành 18 bộ phái khác nữa, có lúc lên đến trên 25 bộ phái và m i bộ
pháp có Kinh tạng, Luật tạng và Luận tạng riêng giải thích theo tư tưởng, sự hiểu biết riêng
của bộ phái mình. Vì vậy Phật giáo bộ phái khơng cịn giống như Phật giáo Nguyên thủy nữa
Phật giáo Nguyên thủy → Phật giáo Bộ phái
→ Phật giáo Đại thừa.

“ Tóm lại, sự phân ly của Cộng đồng Tăng già thành nhiều bộ phái đã xuất phát từ
nhiều nguyên nhân khác nhau và phức tạp, mà chúng ta không thể nhận biết được
cách rõ ràng, và chúng thay đổi theo thời gian.”
1.1 : Tam tạng của các bộ phái Phật giáo :
1.1.1 : Thượng Tọa bộ :
Kinh : Panca Nikaya : Ngũ bộ :
Trường Bộ kinh = Trường A Hàm : Pháp Tạng bộ
Trung Bộ kinh = Trung A Hàm:Thuyết Nhất Thiết Hữu bộ
Tăng Chi Bộ kinh = Tăng Nhất : Đại Chúng bộ
Tương Ưng Bộ kinh=Tạp A Hàm:Thuyết Nhứt ThiếtHữu bộ
\Tiểu Bộ kinh
Luật : Vinaya Pitaka
Luận :
1) Dhammasangani : Pháp Tập luận
2) Vibhanga : Phân Biệt luận
3) Dhatukatha : Giới luận
3


4) Puggala Pannatti : Nhân Thi Thiết luận
5) Kathavatthu : Luận Sự
6) Yamaka : Song Luận
7) Patthana : Phát Thú luận
1.1.1.2.Thuyết Nhứt Thiết Hữu bộ :
Kinh : - Trung A Hàm
- Tạp A Hàm
Luật : Thập Tụng luật
Luận : 7 bộ
1/『阿毘達磨発智論』: Jñānaprasthāna : Thân luận
2/ 『(阿毘達磨)集異門足論: Abhidharma-saṃgīti-paryāya-pāda-śāstra,

3/ 『(阿毘達磨)法蘊足論』: Abhidharma-dharmaskandha-pāda-śāstra,
4/ 『(阿毘達磨)施設足論』: Abhidharma-Prajñapti-pāda-śāstra
5/ 『(阿毘達磨)界身足論』:Abhidharma-dhātukāya-pāda-śāstra
6/ 『(阿毘達磨)識身足論』:Abhidharma-vijñānakāya-pāda-śāstra
7/ 『(阿毘達磨)品類足論』:Abhidharma-prakaraṇa-pāda-śāstra
Từ số 2 đến số 7 : Túc luận
1.1.3.Đại thừa :
Kinh : Pháp Hoa, Niết Bàn, Bát Nhã,…
Luật : a/ Bồ Tát Trì Địa kinh
b/ Bồ Tát Anh Lạc Bản Nghiệp kinh
c/ Bồ Tát Thiện Giới kinh
d/ Ưu Bà Tắc Giới kinh
e/ Phạm Võng kinh
Luận : Đại Trí Độ luận, Du Già Sư Địa luận,….
1.2.Ngơn ngữ cổ của Luật tạng :
Sanskrit và Pàli : Đầu tiên được viết bằng mẫu tự Brahmi và kharothi
4


- Sự nghiên cứu về các Pháp dụ của vua Asoka được bắt đầu từ năm 1837.
- Người nghiên cứu đầu tiên lại là một tu sĩ Thiên Chúa giáo, khi linh mục Joseph
Tiefenthaler khảo sát những mảnh của pháp trụ Meerut tại Delhi vào năm 1756 nhưng không
hiểu được nội dung. -- - Mãi đến năm 1837 những pháp dụ của Asoka mới được nhà khảo cổ
James Prinsep (1799-1840) giải ám mã lần đầu tiên từ một đồng tiền cổ hai mặt có hai loại
ngơn ngữ khác nhau. Rồi từ đó những pháp dụ được dịch thuật và in ấn quảng bá khắp nơi.
1.2.1 : Sự phát triển của các loại mẫu tự được dùng để viết chữ Sanskrit Phật giáo, pàli và
Prakrit
1, Kharosthi : -3 đến 3. Kharosthi script :
2. Brahmi : -3 đến 5
3.Gupta : 54.Siddham script : 6-13

5.Devanagari : được dùng để viết 120 ngôn ngữ : 13 đến nay.

Chương 2: Dữ Liệu Luật Và Kinh Liên Quan
2.1. Dữ Liệu Luật:
Chia theo 6 trường phái giới luật.
a)Luật tứ phần(Pūti mukta vinaya): do Phật Đà Da Xá và Trúc Phật Niệm dịch,gồm 60 quyển.
Bảy pháp diệt tránh nằm chương VIII.
b)Luật thượng tọa bộ hay luật phật giáo nguyên thủy (theravada vinaya): Bảy pháp diệt tránh
nằm chương IV.
c)Luật thập tụng (sarvā sitavāda vinaya): do Cưu Ma La Thậpdịch,gồm 58 quyển,giới tỳ kheo
263 giới.Bảy pháp diệt tránh nằm chương 20 trang 241,và chương 25 trang 251.
d)Luật ma ha tăng kỳ (Mahā sanghika vinaya): do Phật Đà La và Pháp Hiển dịch vào năm 418
trước tây lịch,giới tỳ kheo 218 điều.Bảy pháp diệt tránh nằm chương 22 trang 421.
e)Luật ngũ phần (Mahisāsaka vinaya): gồm 30 quyển,251 điều cho tỳ kheo.Bảy pháp diệt
tránh nằm chương 10 trang 77 và chương 23 trang 153.
f)Căn bản thuyết nhất thuyết hữu bộ (Mùla-Sarvàstivàda): dịch vào năm 700-711 trước tây
lịch,giới tỳ kheo 192 điều.Bảy pháp diệt tránh nằm chương 50 trang 904.
2.2.Kinh Liên quan:
Kinh làng sama(sāmagāma sutta) 104 trong kinh trung bộ.Nhân sự kiện Nigantha Nataputta
mệnh chung ,các đệ tử tranh chấp cãi cọ nhau,tôn giả Ananda thưa thế tơn,nhân đó thế tơn dạy
về lối sống và giới bổn.Do các ác tâm,bất thiện tạm khởi lên bốn tránh sự:tranh luận,chỉ
trích,trách nhiệm,phạm giới.Để dập tắt các tránh sự,Đức Phật dạy “thất diệt tránh” và sáu phép
hòa kính.

5


Chương 3:Khái Niệm Ngũ Thiên Và Thất Tụng
3.1. Khái Niệm Ngũ Thiên:
3.1.1.Năm nhóm tội từ nặng đến nhẹ để nhắc nhở người xuất gia không lên vi phạm.

Phân loại theo các việc cần phải cấm chỉ không được làm (chỉ trì) hoặc cần phải làm (tác trì)
thì có bảy nhóm như trên, gọi là "Bảy tụ", cũng như những chương, điều được nêu trong bộ
luật hình sự ở đời. Những việc Phật cấm chỉ khơng được làm, nếu làm thì phạm, gọi là "chỉ trì
tác phạm" như giới sát đạo dâm vọng v.v. Những việc Phật dạy phải làm không được bỏ qua,
thì gọi là "tác trì chỉ phạm", ví như những việc bố tát, tụng giới, yết ma, tự tứ, vân vân.
Nhưng phân loại theo tội phạm và mức độ xử phạt (tỉ như định mức án trong bộ luật hình sự ở
đời) thì chỉ có năm mục, gọi là "Năm thiên" đáng nói, đó là:
Thiên 1:giới cực trọng Ba-la-di, tiếng Phạn là Pàràjika, nghĩa là tội khí (bỏ ra ngoài Phật
pháp), tội đoạn đầu (như người bị chặt đầu, không thể dùng thuốc cứu chữa được nữa).
Thiên 2:Tăng-già-bà-thi-sa, tiếng Phạn là (Sangha-disesa) dịch là Tăng tàn, nghĩa là kẻ
bị trọng thương đối với Tịnh pháp của Tăng già nhưng vẫn cịn có thể dùng phương pháp sám
hối để cứa chữa được.
Thiên 3: Ba-dật-đề, tiếng Phạn là Pàyattika (P: Pàcittiya) còn được dịch là Ba-dật-để-ca, Badạ-đề, nghĩa là tội phải đọa địa ngục. Vì phạm tội này khơng có vật để xả bỏ, nên thông thường

gọi là Đơn đọa.



Thiên 4:Thâu-lan-giá, tiếng Phạn Sthùlàtyaya dịch là Đại chướng thiện đạo, đại tội, thô ác,
thô quá v.v…, hoặc gọi là phạm tội nặng, ô trược. Chủ yếu là do phạm tội Ba-la-di hoặc Tăng
tàn mà chưa hồn tồn đầy đủ. Nó gồm 2 loại: Nếu từ một tội khác mà phát sinh thì gọi là
Tùng sinh Thâu-lan-giá, nếu nó phát sinh một cách độc lập thì gọi là Độc đầu Thâu-lan-giá.
Thiên 5: Đột-cát-la, tiếng Phạn là Duskrta (Dukkata), gồm có 2 loại tội danh là ác tác,
thuộc thân nghiệp và ác thuyết, thuộc khẩu nghiệp. Tội này là do những sơ xuất, những l i nhỏ
thuộc cử chỉ, ngôn ngữ, phạm vi của nó rất rộng, nên trong giới bản gọi là Chúng học giới.
Đối với 4 tội Ba-la-di, sự sám hối khơng giải quyết được gì, vì các tội này thuộc về tánh
tội. Sám hối chỉ trừ được già tội, cịn tánh tội thì phải chịu quả báo.
Trong các giới của Tỳ-kheo, có nhiều giới tánh tội và già tội giống nhau, cũng có một số giới
chỉ có già tội. Có tánh tội tức có già tội, nhưng có già tội chưa chắc đã có tánh tội. Có một số
giới gồm cả 2 tội, có một số giới chỉ có một tội, đại khái phạm giới dâm, trộm, sát, vọng, hủy

báng v.v... thì phạm một lần cả 2 tội: tánh và già, cịn phạm các giới về oai nghi thì chỉ
thuộc già tội mà thôi.
So sánh 5 thiên với ngũ hình (luật pháp của Trung Quốc đời nhà Tùy)
- Thiên Ba-la-di = tội Tử (tử hình).
- Thiên Tăng tàn = tội Lưu (đày đi xa).
- Thiên Ba-dật-đề = tội Đồ (khổ sai).
- Thiên Đề-xá-ni = tội Trượng (đánh bằng gậy).
- Thiên Pháp chúng học = tội Si (đánh bằng roi).
6


3.1.1.1.Chia theo nhóm.
Nhóm 1:Ba ladi :Tăng gồm có 4 điều, Ni gồm 8 điều.
Nhóm 2:Tăng tàn :Tăng gồm có 13 điều, Ni gồm 17 điều.
Nhóm 3:Xả đọa: Tăng gồm có 13 điều, Ni gồm 13 điều gồm hai tội :một là chứa vật dụng
không lên chứa,hai là quyên mang vật dụng cần thiết.
Nhóm 4:ba dật đề .Tăng gồm có 90 điều, Ni gồm 178 điều
Nhóm 5:tội hối hóa(hướng bị hối) .Tăng gồm có 4 điều, Ni gồm 8 điều.
Nhóm 6:chúng học pháp .Tăng gồm có 100 điều, Ni gồm 100 điều.
Nhóm 7:bảy pháp diệt tránh .Tăng gồm có 7 điều, Ni gồm 7 điều.

7


Bảng so sánh các kiền độ
Căn Bản
(Tạng)
1. Xuất
gia sự
2. Bố tát

4. An cư
3. Tùy ý
5. Bì cách
7. Y
6. Dược

Thập Tụng
1. Thọ Cụ túc giới
pháp
2.Bố tát
4. An cư
3. Tự tứ
5. Bì cách
7.Y
6. dược

1. Đại kiền độ
2. Bố tát
3. An cư
4. Tự tứ
5. Bì cách
8. Y
6. Dược

1.Thọ giới kiền
độ
2.Thuyết giới
3. An cư
4. Tự tứ
5. Bì cách

6. Y
7. Dược

8. Ca hi na
y
9. Câu
Diệm Di
10. ết
ma
11. Hồng
XíchTì
kheo
12. Nhân
13. Biệt
trụ
14. Giá bố
tát
17. Phá
tăng
16. Tránh

8. Ca hi na y

7. Ca hi na y

8. Ca hi na y

9. Câu Xá Di

10. Câu Diệm Di 9. Câu Diệm Di


10. Chiêm Ba

9. Chiêm Ba

10. Chiêm Ba

11. Bàn Trà Lô Già

11. ết ma

11. Ha trách

12. Tăng tàn hối

13. Tập
12. Biệt trụ

12.Nhân
13. Phú tàng

17. Biệt trụ

13. Giá

19. Giá thuyết
giới
17. Phá tăng

14. Giá


16. Giá bố tát

15. Phá tăng

12. Phá tăng

14. Diệt tránh
20. Tì-kheo ni

16. Diệt tránh
17. Tì-kheo ni

10. Diệt tránh
19. Tì-kheo ni

14. Ngọa cụ

18. Oai nghi
16. Ngọa tọa cụ

18. Pháp
19. Phòng xá

15. Oai nghi
13. Ngọa cụ

17. Tạp
19. Ngũ bách Tì-kheo
kết tập Tam tạng pháp

20. Thất bách Tì kheo
tập diệt ác pháp

15. Tạp sự
21. Ngũ bách
nhân
22. Thất bách
nhân

20. Tạp
14. Tạp
21. Tập pháp tì ni 20. Ngũ bách tập
ngũ bách nhân
22. Thất bách tập 21. Thất bách tập
pháp tì ni
18. Điều phục

15. Ngọa
cụ
Tạp

16. Điều Đạt
15. Tránh sự
18. Tì-kheo ni bát
kính

Vinaya Pitaka

8


Tứ Phần

Ngũ Phần
1. Thọ giới pháp
2. Bố tát
3. An cư
4. Tự tứ
6. Bì cách
5. Y
7. Dược
8. Thực
9. Ca hi na y
11. ết ma


Bảng so sánh giới điều của 6 bộ Luật tạng
Giới Tì-kheo
Vinaya
pitaka

Tứ
Phần

Ngũ
Phần

Thập
Tụng

Căn Bản Thuyết

Ma Ha
NhấtThiết Hữubộ Tăng Kỳ
văn

1
2
3
4
5
6

Ba la di
Tăng tàn
Bất định
Xả đọa
Đọa
Hướng bỉ
hối
7 Chúng
học
8 Diệt tránh

Hán

Tạng văn

4
13
2
30

92
4

4
13
2
30
90
4

4
13
2
30
91
4

4
13
2
30
90
4

4
13
2
30
90
4


4
13
2
30
90
4

4
13
2
30
92
4

75

100

100

107

99

108

66

7

227

7
250

7
251

7
257

7
249

7
258

7
218

Giới Tì-kheo Ni
Vinaya
pitaka
1
2
3
4
5

Ba la di

Tăng tàn
Xả đọa
Đọa
Hướng bỉ
hối
6 Chúng
học
7 Diệt tránh

8
17
30
166
8

Tứ
Phần
8
17
30
178
8

75

Ngũ
Phần

Thập
Tụng


8
17
30
210
8

8
17
30
178
8

100

107

Căn Bản Thuyết
NhấtThiết Hữubộ
văn

Hán

8
20
33
180
11

Tạng văn


Ma Ha
Tăng Kỳ

8
20
33
180
11

8
19
30
141
8

98

107

77

7
357

7
366

7
290


100
7
311

7
348

7
380

7
355

9


Chương 4: Nội Dung Và Bảy Pháp Diệt Tránh
4.1.Nội dung chi tiết bảy pháp dứt sự tranh cãi:
Để tiện lợi trong việc trình bày, ở đây trước hết s giới thiệu các chi tiết nội dung của chúng.
Cho đến mục tiếp theo mới s giới thiệu các trường hợp tránh sự cần được giải quyết theo pháp
diệt tránh nào.Xét về bản chất, bảy diệt tránh là các học xứ của Tỳ kheo, tức những nghĩa vụ
mà luật ấn định, các Tỳ kheo phải chấp hành. Ai không chấp hành, phạm đột kiết la, s y luật
xử trị. Nói theo thuật ngữ của Luật tạng, bản chất của chúng là luật tác trì. Đã là luật Phật chế
thì khơng ai được phép thêm bớt, và cũng khơng được phép giải thích chúng một cách tùy tiện.
Nhưng, trong áp dụng thực tiễn, các pháp diệt tránh là những nguyên tắc xét xử tránh sự của
Tăng. Một mặt, là các nghĩa vụ phải chấp hành, và mặt khác là thủ tục điều hành các pháp diệt
tránh như vậy hàm chưa hai bản chất khác nhau.
1) Hiện tiền tỳ ni:Tỳ ni ở đây được hiểu là nguyên tắc hay nguyên lý hướng dẫn, phải tuân
theo. Hiện tiền tỳ ni, nói cách khác, là nguyên tắc hiện diên. Nội dung của sự hiện tiền này

gồm ba điểm căn bản: pháp hiện tiền, tỳ ni hiện tiền và nhân hiện tiền.Pháp được nói ở đây là
giáo pháp, tức lời dạy của Phật. Chính yếu là những lời dạy được ghi chép trong Kinh tạng. Tỳ
ni hay luật, tức những điều được ghi trong Luật tạng.
2) Ức niệm tỳ ni:Ức niệm có nghĩa là đương sự nhớ rõ, biết rõ một cách chính xác việc làm
của mình, có tội hay vơ tội.Ngun tắc ức niệm này bao gồm hai trường hợp. Thứ nhất, đối với
người hoàn toàn vơ tội. Thứ hai, người có tội, nhưng đã sám hối như pháp. Trong trường hợp
trước, khi một Tỳ kheo bị vu khống, và trước Tăng, Tỳ kheo này đã chứng tỏ minh bạch rằng
mình vơ tội, và Tăng cũng đã xác nhận điều đó. Tuy nhiên, cũng có một số Tỳ kheo hiếu sự,
hoặc thỉnh thoảng, hoặc thường xuyên, đến tra vấn Tỳ kheo này. Sự việc như vậy thật gây
phiền phức khơng ít cho người vơ tội. Để chấm dứt tình trạng này, Tỳ kheo đương sự đến trước
Tăng, thỉnh cầu Tăng tác pháp ức niệm tỳ ni cho. Sau khi Tăng đã tác pháp thành tựu, Tỳ kheo
nào cịn hiếu sự hỏi lơi thơi, s bị như luật xử trị.
3) Bất si tỳ ni:Đây là nguyên tắc khơng mất trí. Sự ấn định các điều khoản của luật có một
nguyên tắc rất quan trọng. Đó là nguyên tắc miễn thứ. M i điều luật có một số trường hợp đặc
miễn. Nhưng tất cả đều có một dặc miễn quan trọng, đó là trường hợp Tỳ kheo mất trí. Những
gì Tỳ kheo làm trong khi mất trí đều khơng bị kết tội. Do đó, khi xét tội phạm m i Tỳ kheo,
việc phải làm trước hết là xác định trạng thái tinh thần của đương sự trong lúc phạm.
4) Tự ngôn trị:
Như thuật ngữ Hán dịch đã chỉ rõ, Tăng chỉ xử trị một Tỳ kheo bị cáo là phạm tội khinào
đương sự xác nhận tội phạm, dù tội ấy có bằng chứng cụ thể, mọi người đều biết rõ. Đương
nhiên, theo tinh thần luật chế, một Tỳ kheo bị cáo khơng nhất thiết địi hỏi phải trưng đủ bằng
chứng cụ thể cho lời cáo buộc. Nghĩa là, ngoài sự việc mà nguyên cáo chứng kiến tận mắt ;
những trường hợp chỉ nghe người khác nói lại, hoặc chỉ có ý nghi ngờ, cũng đủ làm căn cứ cho
hành vi khởi tố. Dù vậy, dù Tỳ kheo có sử dụng tố quyền của một một cách hợp pháp, nhưng
sự tố giác ấy không phải là tất yếu để Tăng xử trị bị cáo.
5) Tội xứ sở:
10


Tức là, khi được Tăng xét hỏi, tìm cách trả lời quanh khiến khơng xác nhận đích thực có

phạm hay khơng phạm. Do đó, mích tội tướng là bắt buộc Tỳ kheo ấy phải xác nhận dứt khoát
trước những câu hỏi và những bằng chứng mà Tăng đưa ra. Chừng nào Tăng nhận thấy không
thể khiến Tỳ kheo bị cáo tự xác nhận tội phạm của mình, bấy giờ Tăng tuyên bố tác pháp yết
ma áp dụng nguyên tắc tội xứ sở. Với nguyên tắc này, mặc dù Tỳ kheo bị cáo không nhất định
là phạm ba la di hay tăng già bà thi sa, một số hành pháp nặng gần bằng tội tăng già bà thi sa
được áp dụng cho Tỳ kheo ấy. Tức là, Tỳ kheo bị Tăng tác pháp tội xứ sở tỳ ni không được
phép thực hiện một số việc mà các Tỳ kheo khác thường làm.
6) Đa nhân ngữ:
Thuật ngữ Hán dịch cũng nói là đa nhân mích tội. Theo nghĩa đen của Hán mà hiểu, thì
nguyên tắc diệt tránh này căn cứ vào ý kiến của đa số. Nguyên tắc này được thực hiện bằng
cách bỏ phiếu. Do điểm này, nó được định nghĩa một cách rất tổng quát, căn cứ theo thủ tục
hành sự, là sự hòa giải bằng cách y trên đa số phiếu.
7) Như thảo phú địa:
Nghĩa đen của thuật ngữ này chỉ sự rải cỏ che lấp đất, bất kể là bùn sình hay cát sỏi, bất
kể là đen hay trắng. Nó cũng được dịch là như thảo bố địa, hay như thảo yểm địa.
Ý nghĩa giống nhau.Căn bản của nguyên tắc này là sự sám hôi tập thể, hay phổ đồng sám hối.
Nhưng trong áp dụng vào các tránh sự, nguyên tắc này bao gồm hai phương diện. Phương diện
thứ nhất, với ý nghĩa là sám hối. Phương diện thứ hai, với ý nghĩa là hòa giải.
Về phương diện thứ hai, khi toàn thể Tăng trong một trú xứ chia thành hai phe kình chống
nhau, nếu khơng cịn biện pháp giải quyết nào thỏa mãn, thì biện pháp cuối cùng là tất cả đồng
ý dẹp bỏ vấn đề, khỏa lấp hết, không phân biệt trắng đen giải quyết, cũng không truy cứu
nguồn gốc phát khởi tránh sự nữa. Đây là ý nghĩa hịa giải.
Tuy có hai phương diện với hai ý nghĩa của vấn đề, nhưng căn bản vẫn là sự sám hối tập thể.
Tùy theo trường hợp, hoặc sám hối vì tập thể đồng phạm tội, hoặc sám hối để chấm dứt tránh
chấp, thể thức tác pháp có một số chi tiết hơi khác nhau. Dưới đây nêu điển hình trường hợp
sám hối để chấm dứt tranh chấp.
4.2.Bảy cách dứt sự tranh cãi và các trường hợp áp dụng:
Trước hết, chúng ta phải hiểu rõ bản chất của sự tranh chấp. Nói một cách đại cương, thì mặc
dù các tránh sự khởi lên cho các Tỳ kheo là vơ số, nhưng có thể tóm thâu vào hai vấn đề lớn.
Đó là phá giới và phá kiến. Phá giới là những vấn đề liên hệ việc trì luật. Tranh luận có thể xảy

ra, khi các Tỳ kheo giải thích một điều luật trong giới bổn để căn cứ theo đó mà xác định một
Tỳ kheo có phạm giới hay khơng. Hoặc giả, cũng có khi tranh luận về bằng chứng buộc tội là
xác thực hay không xác thực.Thứ hai là phá kiến. Tức có chủ trương, quan điểm trái ngược với
truyền thống giáo lý xưa nay. Để bảo vệ chánh kiến, các Tỳ kheo cần tranh luận để làm sáng tỏ
ý nghĩa. Đấy cũng là nguyên nhân đấu tranh. Do đó, chính Đức Thích Tơn đã phân loại một
cách có hệ thống cho các đề tài tranh chấp. Phân loại này có bốn. Gọi là bốn tránh sự. Sự tức
là tránh, như đã nói trong mục ý nghĩa. Nhưng cũng theo nghĩa của chữ Hán, tránh là đấu
tranh, là tranh chấp nhau bằng lời. Sự là tức sự việc rắc rối, như ta thường nói: đa sự, sinh sự,
gây sự… Bốn tránh sự, theo dịch ngữ của Tứ phần, gồm ngơn tránh, mích tránh, phạm tránh và
sự tránh.
4.2.1.Ngơn tránh:
11


Tránh sự thuộc về lời nói. Đây là hiểu theo nghĩa đen qua dịch ngữ của Tứ phần và Ngũ
phần. Nhưng chính xác phải hiểu, nó chỉ sự tranh chấp xảy ra do tranh luận, cãi cọ nhau về một
vấn đề. Do nghĩa này, Thập tụng dịch nó là đấu tránh sự. Trong Luật nhiếp, nó được gọi
là bình luận tránh sự.Nói chung, bất cứ sự tranh chấp nào cũng bao gồm các tranh luận. Do đó,
để nhận thức chúnh xác trường hợp luận đề cập ở đây, từ ngữ tránh sự cần được hiểu theo
nghĩa rộng rãi. Đó là việc phiền phức, nhiểu loạn, xảy ra giữa các Tỳ kheo, cần phải giải
quyết.Vậy thì, tranh luận như thế nào mới được gọi là tránh sự ? Luật các bộ nêu 18 đề tài, như
đã được thống kê trong lời giải điều 10 của chương Tăng già bà thi sa . Các đề tài này liên hệ
đến giới luật, giáo nghĩa của Phật. Để dập tắt tránh sự này, có hai nguyên tắc tỳ ni cần được áp
dụng: hiện tiền tỳ ni và đa nhân ngữ. Theo diễn tiến, trước hết cần giải quyết bằng hiện tiền tỳ
ni. Nếu sự giải quyết này cuối cùng bất thành, phải áp dụng đa nhân ngữ.Nguyên tắc này được
tiến hành qua ba giai đoạn, s được nói chi tiết dưới đây.
Giai đoạn thứ nhất.
Giai đoạn này được thực hiện trong phạm vi trú xứ mà tránh sự phát khởi. Trong đó, nó bao
gồm hai cấp, cá thể và Tăng.Đầu tiên là cấp cá thể.Trong một cuộc tranh chấp, đương nhiên có
hai phe, bất kể nhân số tham dự nhiều ít. Bấy giờ, trong Tăng có một Tỳ kheo, có uy tín về

phẩm chất trí tuệ cũng như tư cách đạo đức, khơng can sự vào phe nào cả. Vị ấy nên tự động
đứng ra làm trung gian hòa giải. Thập tụng gọi Tỳ kheo hòa giải này là thát lại tra ; Tứ
phần gọi là bình dương nhân. Căn cứ vào uy tín cá nhân, và với thái độ vô tư, vị này s phán
quyết theo quan điểm riêng của mình, rằng trong hai phe ai phải ai quấy.Nếu Tỳ kheo thát lại
tra bất lực, vì sự phán quyết và lời giải thích không được một trong hai phe thỏa mãn ; vị này
có bổn phận đưa sự vụ ra trước Tăng để yêu cầu giải quyết. Nếu phán quyết của Tăng cũng
không được một trong hai phe chấp nhận, sự vụ cần đưa sang trú xứ Tăng gần nhất để nhờ giải
quyết. Đây là thủ tục đơn giản của Tứ phần và Ngũ phần.
Giai đoạn thứ hai.
Giai đoạn này cũng vẫn áp dụng nguyên tắc hiện tiền tỳ ni, nhưng được thực hiện tại trú xứ
gần đó. Tại đây, sự vụ trước hết vẫn được giải quyết bằng cấp cá thể, và người đứng ra giải
quyết cũng giống như trong giai đoạn thứ nhất, tức vị mà Thập tụng gọi là thát lại tra. Nếu cấp
cá thể giải quyết không xong, cũng lại chuyển lên Tăng.Ở đây, trong Thập tụng, diễn tiến cũng
như trước ; lặp lại tất cả thủ tục y như giai đoạn thứ nhất đã thực hiện tại trú xứ tranh chấp.
Trong Ngũ phần, về căn bản, cũng như giai đoạn thứ nhất, nhưng ở đây có sự triển khai các
điểm căn bản ấy.Trong khi thảo luận, Tăng cần bảo Tỳ kheo ấy tránh đi ch khác, nếu vị này là
cấp hạ tọa. Nếu là cấp thượng tọa, Tăng bảo ngồi ở đấy, rồi đi qua ch khác để nghị sự. Nếu
thấy vấn đề có thể giải quyết được, s trở lại báo cho biết rằng Tăng ở đây s thụ lý sự vụ, và
yêu cầu Tỳ kheo kia trình bày chi tiết nội dung tranh chấp, cũng như các diễn tiến. Sau khi
nghe trình bày, Tăng có thể đưa ra phán quyết. Nhưng nếu trong Tăng có hai quan điểm khác
nhau về vấn đề tranh chấp, Tăng s khiến Tỳ kheo đương sự ấy tùy ý chọn tám người, m i ý
kiến bốn người. Đây gọi là ủy ban đốn sự tám người. Tiếp theo đó, Tăng yết ma sai các Tỳ
kheo này làm người đoán sự. Yết ma chia làm ba lần. Lần thứ nhất và lần thứ hai, m i lần sai
ba vị ; lần thứ ba, hai vị. Ban đoán sự s họp riêng, nghiên cứu vấn đề để đưa ra kết luận.
Trong khi nghiên cứu, nếu có Tỳ kheo dù được Tăng sai nhưng tỏ ra không đủ kiến thức, về
pháp, về luật ; hoặc có Tỳ kheo tinh thơng pháp luật nhưng có thái độ quấy phá, hoặc xuyên tạc
12


ý nghĩa, v.v…, các Tỳ kheo này cần được đơn bạch yết ma loại khỏi ủy ban. Những người

được Tăng chọn phải hội đủ 10 đức tính:
1) Trì giới trọn vẹn.
2) Thông bác.
3) Thấu suốt hai bộ luật.
4) Hiểu tường tận ý nghĩa và cả sự áp dụng thực tế rộng rãi của chún.
5) Ngơn từ thiện xảo.
6) Có khả năng dập tắt tránh sự ấy.
7) Không thiên vị.
8) Không hay giận hờn.
9) Không hay mù quán.
10) Không sợ hãi ai.
Một điểm khác với Ngũ phần khá quan trọng, là trong Tứ phần, ban đốn sự này khơng
do bạch nhị yết ma Tăng sai, mà là đơn bạch để thiết lập. Văn bạch Tứ phần nói:
Đại đức Tăng, xin lắng nghe. Nếu thời gian thích hợp đối với Tăng, Tăng nay chấp
thuận, Tăng tập họp riêng các Tỳ kheo có trí tuệ để bình đốn tránh sự. Đây là lời tác
bạch.
Và rồi, khi thảo luận, trong số các Tỳ kheo được tập hợp riêng nếu có vị nào tỏ ra bất
xứng, cần phải đơn bạch loại trừ. Văn bạch như sau:
Đại đức Tăng, xin lắng nghe. Tỳ kheo (nói rõ sự việc). Nếu thời gian thích hợp đối
với Tăng, Tăng nay loại trừ Tỳ kheo này ra khỏi đây. Đây là lời tác bạch.
Ủy ban đốn sự nếu khơng giải quyết xong, vấn đề chuyển sang giai đoạn ba.
Giai đoạn thứ ba.
Đến đây là trú xứ thứ ba. Trú xứ này bất kể xa gần đối với trú xứ tranh chấp, nhưng điều
quan trọng là tại đó có một số Tỳ kheo rất nổi tiếng là uyên bác về luật, qn thơng Tam tạng.
Sự việc trước hết được trình bày với từ một đến ba Tỳ kheo có uy danh ấy, để yêu cầu giải
quyết. Sự giải quyết này nếu được thỏa mãn, gọi là tránh sự được dập tắt theo hiện tiền tỳ ni.
Nhưng nếu các vị ấy cũng không giải quyết được, bấy giờ mới áp dụng nguyên tắc đa nhân
ngữ.Tuy nhiên, Thập tụng nói rõ, nếu Tăng trú xứ gần giải quyết khơng xong, thì chính Tăng
này làm yết ma sai Tỳ kheo làm vị truyền sự nhân chuyển sự vụ lên trú xứ thứ ba. Tại trú xứ
này, Tăng s chọ một Tỳ kheo có đủ uy tín và khả năng để quyết đốn vấn đề đứng ra thụ lý.

Thập tụng cũng nói thêm rằng, sở dĩ Tăng phải thỏa mãn các điều kiện tiên quyết này đối với
Tỳ kheo s được đề cử, vì năm lý do, hay năm sự khó khăn trong sứ mạng:
1. Cường lực, sự ngoan cố của Tỳ kheo tranh chấp .
2. Cường lực, thế lực của các Tỳ kheo ấy .
3. Hung bạo, bản tính hung hăng của họ .
13


4. Vãng lai, vì lộ trình giữa hai trú xứ có thể xa cách nhau .
5. Thận trọng.
4.2.2. Mích tránh:
Theo nghĩa đen Hán của thuật ngữ này, đây là tránh sự do tìm tịi. Chính xác hơn, nó là sự bới
lơng tìm vết ; căn cứ những dữ kiện vụn vặt để quy thành chuyện lớn. Đó là thuật ngữ theo
cách hiểu của Tứ phần. Trong Ngũ phần, nó được gọi là giáo giới tránh sự. Thuật ngữ này
khơng chính xác, nếu hiểu theo nghĩa hẹp của nó. Căn bản bản và Luật nhiếp gọi nó là phi
ngơn tránh sự, theo nghĩa, đó là lời nói khơng đúng sự thật. Cũng tương tợ ý nghĩa này, Thập
tụng gọi nó là vô căn sự, tức tránh sự không căn cứ. Căn ở đây chỉ các bằng chứng buộc tội,
tức do thấy, do nghe, và do nghi ngờ. Đây là dịch ý, lấy duyên khởi từ việc hai Tỳ kheo Từ và
Địa vu khống trưởng lão Ma La Tử bằng tội ba la di không căn cứ.Xét trong hai thuật ngữ
của Ngũ phần và Căn bản,rõ ràng chúng cùng một gốc tiếng Phạn, nhưng do các dịch giả đọc
khác nhau về một nguyên âm trong đó, hoặc ngắn hoặc dài, nên cso sự khác biệt ý nghĩa như
thế.Mích tránh được dập tắt với bốn nguyên tắc: hiện tiền tỳ ni, ức niệm tỳ ni, bất si tỳ ni và tội
xứ tỳ ni.Nói tóm lại, bốn nguyên tắc được áp dụng để dập tắt mích tránh áp dụng song đơi như
nhau. Với Tỳ kheo thanh tịnh nhưng bị cử tội, áp dụng hiện tiền và ức niệm. Với Tỳ kheo gây
tội do mất trí: hiện tiền và bất si. Với Tỳ kheo có tội nhưng ngoan cố nói quanh, nói dối: hiện
tiền và tội xứ sở.
4.2.3. Phạm tránh:
Tránh sự do phạm tội. Ở đây chỉ sự vi phạm các học xứ thuộc năm thiên trong giới bổn.
Trong đó, trừ tội phạm ba la di khơng thể sám hối, cịn lại tùy theo nặng nhẹ được Tăng xử trị.
Tỳ kheo nào bao che tội l i của vị khác, cũng là một vi phạm cần được xử trị. Như vậy, tránh

sự này cũng không có nghĩa là sự tranh chấp. Đơn giản, đó là sự việc không tốt đẹp đã xảy ra,
cần dập tắt, để duy trì sinh mạng thanh tịnh của Tăng. Xét về phía bị can, có hai trường hợp
phạm tội: cá nhân và tập thể. Một Tỳ kheo phạm tội, tự mình phát lộ trước một hoặc hai hoặc
ba Tỳ kheo thanh tịnh để sám hối, hoặc cần được phát lộ trước Tăng để sám hối. Trường hợp
như vậy thuộc phạm vi cá nhân. Hoặc giả, Tỳ kheo ấy cố ý che giấu, nhưng Tỳ kheo khác phát
hiện, và vị này bèn cử tội. Căn cứ theo luật, người phạm tội được xử trị. Như vậy cũng trong
phạm vi cá nhân. Phạm tránh thuộc cá nhân, được dập tắt theo nguyên tắc tự ngôn trị kết hợp
với hiện tiền tỳ ni. Các nguyên tắc cử tội, các thể thức sám hối như pháp tùy theo tội thuộc
thiên tụ nào, s được dẫn giải chi tiết trong phần sau, sám hối và trị phạt.
4.2.4. Sự tránh:
Sự ở đây chỉ các nghĩa vụ thường nhật của Tăng, như yết ma thuyết giới, truyền giới, tự tứ,
v.v… Do nghĩa này, Thập tụng gọi nó là thường sở hành. Các Tăng sự bao gồm nhiều lãnh
vực, hoặc liên hệ cá nhân như truyền giới, sám hối ; hoặc liên hệ tập thể, như thuyết giới, tự tứ.
Nghĩa vụ hay phận sự nào được Tăng thực hiện không như pháp, đều trở thành tránh sự. Tuy
nhiên, Tăng không phải là một tập thể trừu tượng, mà bao gồm nhiều cá thể Tỳ kheo. Do đó,
tránh sự tranh chấp các phận sự này có thể thuộc phạm vi tập thể, cũng có thể thuộc phạm vi cá
thể. Thí dụ, khi tồn thể Tăng trong một trú xứ cùng tác pháp thuyết giới không đúng pháp, các
Tỳ kheo tham dự biết là sai nhưng không chịu ngăn, nên thảy đều phạm tội đột kiết la. Tăng
14


trong trú xứ này bấy giờ trở thành tập thể phạm tội, và tránh sự này phải được dập tắt bằng
hiện tiền tỳ ni và như thảo phú địa.
4.3.Nhân duyên Đức Phật nói bảy pháp dứt sự tranh cãi:
4.3.1. Hiện tiền tì ni
Nhân tơn gải Ca lưu đà di, một trong Nhóm 6 Tỳ kheo, cùng nhiều vị đi tắm sông. Tôn giả lên
trước, lấy lộn y của vị khác mặc đi về. Vị kia lên sau tìm khơng thấy y mình mà thấy y của Ca
lưu đà di bỏ lại, bèn kết cho vị này tội ăn trộm, làm yết ma diệt tẩn vắng mặt. Tôn giả Ca lưu
đà di đến bạch Phật. Phật hỏi tôn giả Ca lưu đà di đến bạch Phật. Phật hỏi tôn giả khi lấy y mặc
thì tâm nghĩ gì? Tơn giả đáp tưởng là của mình nên lấy mặc, thế thơi. Phật dạy thế thì

khơng phạm tội, nhưng lần sau phải xem kỹ trước khi mặc. Và đại chúng cũng không được
phép làm yết ma kết tội kẻ vắng mặt. Khi làm các yết ma y chỉ, diệt tẩn, quở trách, ngăn đến
nhà cư sĩ, yết ma cử tội, v.v cần phải có mặt đương sự, gọi là "hiện tiền tì ni". Pháp diệt tránh
này gọi là "hiện tiền tì ni diệt tránh", nghĩa là phương pháp dứt tranh cãi trong đó cần có mặt
đương sự.
4.3.1.2. Ức niệm tì ni
Nhân dun, Đạp bà ma la làm tri sự, chia mền chiếu xấu cho một vị trong Lục quần Tỳ kheo,
vị này tức giận vu khống tôn giả phạm giới dâm dục. Phật hỏi tơn giả có như vậy khơng. Tơn
giả đáp từ khi xuất gia ơng chưa từng có tâm niệm ấy dù trong giấc mộng. Lục quần cũng xác
nhận tôn giả thanh tịnh. Phật tuyên bố Đạp bà ma la là bậc a la hán vơ trước, khơng cịn ý
tưởng dâm dục. Nhưng các Tỳ kheo cứ tiếp tục quấy nhiễu tôn giả bằng cách đi theo mà cật
vấn: "Ơng có nhớ ông phạm tội ba la di, tăng tàn... nào không" và tôn giả cứ phải trả lời:
"Trưởng lão, tôi không phạm, chớ có cật vấn tơi mãi. Các Tỳ kheo vẫn theo hỏi dai, tôn
giả bạch Phật. Phật cho tăng bạch tứ yết ma làm pháp "ức niệm tì ni". ết ma xong thì phải để
cho đương sự yên ổn, không được theo hỏi lần đân.Đương sự đủ uy ngh tác bạch:"Xin đại
đức tăng nghe cho. Tôi tên Đạp bà ma la không phạm trọng, các Tỳ kheo lại bảo tơi phạm,
và cứ theo hỏi tơi: "Ơng có nhớ ơng phạm trọng khơng?". Tơi đã nhớ mình khơng phạm tội, và
đã xin các trưởng lão chớ thường xuyên cật vấn tôi. Thế mà các vị ấy vẫn theo vấn nạn khơng
thơi. Nay xin tăng cho tơi pháp "ức niệm tì ni". Xin tăng thương xót". (nói ba lần).Tăng sai một
vị làm yết ma nói như trên để hỏi ý kiến đại chúng, nếu bằng lịng thì im lặng. Hỏi ba lần
đều im lặng có nghĩa là yết ma đã thành,sau khi yết ma, thì tội ấy khơng được cử lại.
Nếu đương sự thực có phạm giới mà làm yết ma như trên, thì đó là yết ma phi pháp.
4.3.1.3. Bất si tì ni
Nhân duyên Tỳ kheo Nan đề trong thời gian bị bệnh điên cuồng tâm loạn đã phạm nhiều tội,
mất uy nghi. Về sau khi ông ấy hết bệnh, các vị khác vẫn theo hỏi, "Ơng có nhớ ơng đã làm
vậy vậy hay khơng?". Nan đề xấu hổ nói: "Trước đây tơi đã phạm nhiều tội vì điên cuồng tâm
loạn chứ không cố ý. Xin chư vị đừng theo hỏi tơi hồi". Các vị khác cứ lần đân theo hỏi,
đương sự bạch Phật. Phật cho bạch tứ yết ma làm pháp "Bất si tì ni" nghĩa là xác nhận đương
sự đã hết điên, từ nay không được nhắc lại những chuyện đương sự đã làm trong lúc điên.
4.3.1.4. Tự ngôn trị

Nhân duyên Đức Phật ở Chiêm bặc, vào một ngày rằm bố tát, tăng chúng nhóm họp đơng đủ
nhưng Đức Thế Tôn vẫn không thuyết giới. Mãi cho đến nửa đêm, Phật vẫn ngồi bất động. Tôn
giả A nan đến nhắc mấy lần, Đức Thế Tôn vẫn im lặng. Cuối cùng ngài mới dạy rằng, đức Như
Lai không thể nói giới khi mà trong chúng có Tỳ kheo khơng thanh tịnh. Khi ấy tôn giả Mục
15


Kiền Kiên dùng thiên nhãn quán sát và biết kẻ phạm giới đang ngồi cách Thế tôn không
xa. Tôn giả bèn đến túm y vị ấy mà lôi ra khổi pháp đường. Đức Thế Tôn dạy: "Mục Liên, lần
sau ông không được làm như vậy, mà phải làm yết ma cử tội". Từ nay về sau, hãy làm pháp "tự
ngôn trị" để diệt tranh cãi.Luật Tứ phần quyển 48 nói: Phật dạy A nan, khi tranh cãi về
sự phạm giới tội, thì phải dùng ba pháp là "hiện tiền", "tự ngôn" và "như thảo phú địa" để giải
quyết, không được dùng vũ lực mà trị tội. "Tự ngôn" là để cho đương sự tự phát lộ tội l i của
mình rồi mới xử.
4.3.1.5. Đa nhân ngữ tì ni
4.3.1.6. Mích tội tướng tì ni
Nhân duyên, Tỳ kheo Tượng lực ưa tranh luận, khi thua bèn nói ngược lại những gì đã nói.
Các Tỳ kheo bạch Phật, Phật dạy tăng hãy bạch tứ yết ma làm pháp "mích tội tướng" đối
với Tỳ kheo ấy. Nghĩa là khi một người phạm tội nặng (ba la di) mà nói dối, thì tăng cứ bạch tứ
yết ma kết tội ba la di, chờ đến khi họ thú tội mới giải yết ma.
4.3.1.7. Như thảo phú địa tì ni
Phật ở Xá vệ, các Tỳ kheo nhân một việc nhỏ mà gây gổ chia thành hai phe cãi nhau không dứt
(một bên là phe của một thượng tọa luật sư, phe kia của Luật sư), Phật can không được cuối
cùng ngài phải bỏ vào rừng an cư với một con voi chúa, có bầy khỉ dâng trái cây m i ngày. Cư
sĩ sau đó khơng đến vườn Cấp cơ độc để cúng dường nữa vì vắng Phật, chúng tăng bèn lên
rừng thỉnh Phật trở về. Phật dạy hai phe hãy giảng hòa bằng pháp "Như thảo phú địa" (trải
cỏ che lấp) là một cách xí xóa tất cả cho nhau, vì hai bên đều có l i.
Nhân đấy Phật kể câu chuyện để chứng minh những kẻ oan gia nhiều đời mà cuối cùng còn
sống với nhau được, tại sao Tỳ kheo lại khơng hịa nhau để tu học Ngày xưa giữa vua Phạm
Chí và vua Trường Sinh có mối thù từ nhiều đời kiếp. Vua Phạm Chí cất quân sang đánh chiếm

nuớc của vua Trường sinh, bắt vua và hoàng hậu đem đi xử trảm. Thái tử cịn nhỏ được người
trung thần ẵm mang đi thốt được, mai danh ẩn tích trở thành một trẻ bụi đời kiếm sống bằng
nghề hát rong. Một hôm đi ngang hồng cung bấy giờ đã bị vua Phạm Chí chiếm đoạt, nghe
giọng hát hay, hồng hậu của vua Phạm Chí bèn gọi đứa trẻ vào cung để mua vui. Đứa trẻ
được hồng hậu u mến, cho ở ln trong cung cấm. Một hơm xâu ngọc q của hồng hậu
khơng cánh mà bay mất. Nhà vua, hồng và đình thần đều nghi đứa bé ăn cắp, vì ngồi nó ra
khơng người nào được vào ra trong cung. Khi bị bắt, đứa trẻ bèn nhận tội ngay khơng chối cãi.
Hỏi cung, nó khai ra thêm bốn người liên lụy trong vụ này là thái tử, quan tể tướng, ông tỷ phú
trong thành, và nữ danh ca được yêu chuộng nhất. Cả bốn người đều bị bắt vào tù. Quản tể
tướng hỏi: "Này con, tại sao con biết rõ là ta không lấy, mà lại khai ẩu?".
Nó bảo: "Vì quan thơng minh, đa mưu túc trí, thế nào cũng tìm ra manh mối vụ này".
Thái tử cũng hỏi nó một câu tương tự, nó đáp, "Tại vì ngài là con vua, vua s khơng nỡ giết.
Khơng l cha mà lại đi giết con?".
Ơng tỷ phú vào tù gặp nó, bứt đầu bứt tai bảo: "Trời đất quỷ thần ơi, sao cháu nỡ nào khai oan
cho bác vậy?"Thì nó tỉnh bơ đáp rằng: "Tại vì bác có thể bỏ tiền ra chuộc mạng để khỏi ở tù".
Và khi cơ ca sĩ khóc lóc hỏi nó, "Em ơi, tại sao em nỡ vu khống cho chị lấy xâu chu i
ngọc trong khi chị chẳng biết ất giám gì?"Nó trả lời: "Vì thiên hạ đều hâm mộ chị, nên thế nào
người ta cũng tìm cách đưa vụ này ra ánh sáng càng sớm càng tốt, để cứu chị thốt nạn lao tù".
Quả nhiên sau đó một người đầu đảng khét tiếng tài danh về nghề trộm cướp được đưa vào
khám đường đối chất. Gặp nó, người chuyên nghề trộm cướp hỏi: "Trong cung, ngoài đức vua,
16


hồng hậu và bé ra, cịn có con vật nào được ra vào khơng?" "Có một con khỉ thường theo chơi
với hoàng hậu"Kẻ trộm nổi danh đi về, rồi trở lại đem theo vào nội cung một bầy khỉ. Ông
cũng xin cho đem con khỉ của hoàng hậu đến. Sau khi mượn tạm những xâu chu i của
các cung nữ đang đeo, y phân phát cho m i con khỉ một chu i, rồi tự đeo vào cổ một xâu. Cả
bầy khỉ đềm làm theo y, con nào cũng tròng chu i trang sức vào cổ. Con khỉ của hoàng hậu
trông thấy liền bắt chước đi lấy xâu chu i ngọc quý nó đã ăn cắp ra đeo. Thế là nội vụ đã ra
manh mối.Khi nhà vua hỏi tại sao nó khơng lấy cắp mà chịu nhận tội, lại khai thêm những

người vơ tội khác. Nó trả lời, "Con chỉ là một tên bụi đời, dù con có nói mình khơng lấy cũng
chẳng ai tin. Con khơng có chứng cớ gì để minh oan nếu khơng nhận tội s bị vua trừng trị. Do
vậy con cứ nhận đại, rồi khai thêm mấy người mà con biết có bị tống vào ngục cũng khơng
sao. Họ là những người danh tiếng, có thể nhờ họ mà người ta s ra công điều tra vụ án này".
Vua công nhận thằng bé thông minh, và từ đấy càng thêm yêu mến, cho hầu cận ln bên
mình.Một hơm theo vua đi săn lạc giữa rừng sâu, cậu bé bây giờ tuổi đã thành niên, đang canh
cho vua ngủ. Thấy nhà vua ngủ say li bì, cậu tuốt gươm khỏi vỏ toan giết để báo thù cho cha,
nhưng b ng nhớ lời cha dặn: "Lấy oán báo oán, oán ấy chất chồng; lấy ân báo oán, oán ấy tiêu
tan" cậu tra gươm vào vỏ. Đúng lúc ấy, nhà vua trở dậy kể lại giấc chiêm bao: "Vừa rồi ta
mộng thấy con vua Trường Sinh đến báo mối thù giết cha ngày trước". Cậu bé liền thú thực với
vua tơng tích của mình, vốn là thái tử. Nhà vua cảm động, trả lại ngai vàng cho thái tử con
vua Trường Sinh, lại gả con gái cho chàng. Mối thù giữa hai nhà từ đấy chấm dứt, hai nước
láng giềng trở thành bạn hữu.
C.KẾT LUẬN CHUNG
Trong hàng ngủ những người xuất gia đôi khi phát sinh những sự xung đột đưa đến bất hòa
thường là do cá nhân tranh chấp với cá nhân, cá nhân tranh chấp với tập thể, tập thể tranh chấp
với tập thể. Căn nguyên của mọi sự tranh chấp là do tố giác về vấn đề pháp giới, phá kiến, phá
oai nghi. Nguyên nhân phát sinh của sự rắc rối ấy tuy rất phức tạp nhưng tựu trung có thể bao
gồm trong bốn nguyên nhân chính sau đây: ngơn tránh; mích tránh; phạm tránh; sự tránh.
Ngôn tránh: khi Tỳ-kheo tranh luận với Tỳ-kheo liên quan đến 18 vấn đề như : việc đó đúng
pháp hay phi pháp, đúng luật hay phi luật, do Phật chế hay không do Phật chế v…v.. rồi gây
nên xung đột bất hịa giữa đơi bên đó gọi là ngơn tránh.Mích tránh: nếu Tỳ-kheo này cử tội Tỳkheo khác về 3 phương diện pháp giới, pháp kiến, pháp oai nghi, dựa trên ba yếu tố thấy, nghe
và nghi rồi gây ra tranh cãi thì gọi là Mích tránh.Phạm tránh: sự tranh cãi về vấn đề phạm tội.
Tội ở đây chỉ cho sự vi phạm về các học xứ của Tỳ-kheo liên quan đến năm Thiên, bảy Tụ.
Sự tránh: sự tranh cãi xảy ra từ những việc làm hằng ngày của chúng Tăng như Thọ giới, Tụng
giới, An cư, Tự tứ..v..v.. trong những việc làm này, nếu tăng thực hiện không đúng pháp thì s
gây ra tranh cãi. Đó gọi là Sự tránh Sinh mệnh của Phật giáo chính là Giới luật cịn yếu tính
của Tăng đồn là thanh tịnh và hịa hợp. Do vậy, một khi tăng chúng có sự tranh chấp đưa đến
bất hịa thì tăng phải vận dụng bảy phương pháp Diệt Tránh để xử lý, hầu duy trì một đời sống
thanh tịnh và thánh thiện trong nội bộ Tăng đoàn.

17


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.Đồn Trung Cơn –Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải, tăng đồ nhà phật
2.Thích Thiện Chơn,giới học.
3.Trương Đình Dũng Việt dịch, giới bổn Patimokkha của tỳ kheo ni.
4.Thích Thanh Kiểm,luật học đại cương, Sài Gịn, 1991.
5. Tỳ kheo Indacanda nguyệt Thiên dịch, tạng luật-bộ luật phân tích giới bổn .
6.Thích Trí Quang, "Tỷ Kheo Giới", Sài gịn, 1993.
7.Thích Hành Trụ, "Luật Tứ Phần Giới Bổn Như Thích", Sài Gịn, 1995.
8.Thích Thiện Siêu, "Cương ếu Giới Luật", Sài Gịn, 1996
9. Thích Quang Thạnh, tìm hiểu về giới luật trong phật giáo.
10.Thích Minh Thành, "Tỳ Kheo Giới Yếu Giải", Giáo trình Luật học Cơ bản - Tập IV, Sài
Gịn, 1993.
11.Thích Trí Thủ, "Luật Tỳ Kheo", Sài Gịn, 1991.

18



×