Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Giá trị và tầm quan trọng của giới luật đốivới nam nữ cư sĩ thông qua việc hành trì ngũ giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (242.22 KB, 30 trang )

GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI TP.HỒ CHÍ MINH

Phan Thị Thúy Diễm
Pháp danh: TN.Thể Minh

Giá Trị Và Tầm Quan Trọng Của Giới Luật Đối Với
Nam Nữ Cư Sĩ thơng qua việc
hành trì Ngũ giới
Tiểu Luận Môn Văn Học Pali

TP.HCM, ngày 17 tháng 04 năm 2021


GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM
HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI TP.HỒ CHÍ MINH

Phan Thị Thúy Diễm
Pháp danh: TN.Thể Minh

Giá Trị Và Tầm Quan Trọng Của Giới Luật Đối Với
Nam Nữ Cư Sĩ thơng qua việc
hành trì Ngũ giới
Tiểu Luận Môn Văn Học Pali
MSSV: TX6058

GSHD: TS.NS.TN.Hiếu Liên

TP.HCM, ngày 17 tháng 04 năm 2021



Nhận xét của GSHD
........................................................................................................................................
......................................................................................................................................
........................................................................................................................................
...................................................................................................................................... .
........................................................................................................................................
..................................................................................................................................... ..
........................................................................................................................................
.................................................................................................................................... ...
........................................................................................................................................
................................................................................................................................... ....
........................................................................................................................................
.................................................................................................................................. .....
........................................................................................................................................
................................................................................................................................. ......
........................................................................................................................................
................................................................................................................................ .......
........................................................................................................................................
............................................................................................................................... ........
........................................................................................................................................
.............................................................................................................................. .........
........................................................................................................................................
............................................................................................................................. ..........
........................................................................................................................................
............................................................................................................................ ...........
........................................................................................................................................
........................................................................................................................... ............
........................................................................................................................................
.......................................................................................................................... .............
..........................................................................................................................



Lời cám ơn


MỤC LỤC

A.

DẪN NHẬP....................................................................................................1

B.

NỘI DUNG.....................................................................................................3
I. Khái quát về Ngũ Giới..................................................................................3
1. Định Nghĩa Giới Luật............................................................................3
2. Giá Trị Và Tầm quan trọng của việc giữ giới.....................................4
3. Ngũ giới phẩm chất đạo đức thiết yếu của Phật tử tại gia..................6
II. Lợi ích của Ngũ giới Phật giáo .................................................................15
1. Lợi ích đối với tự thân.........................................................................15
2. Lợi ích đối với gia đình và xã hội.......................................................15

C.

KẾT LUẬN..................................................................................................18

THƯ MỤC THAM KHẢO……..…………………………...……………..19


A. DẪN NHẬP

Ngày nay, cuộc sống quá sôi động, con người phần nhiều chỉ quan tâm
đến tiền tài, danh vọng hay những thú vui khác mà dần dần quên đi lịng từ bi,
hướng thiện, và thậm chí vơ cảm trước những khổ đau đang diễn ra xung
quanh. Qua đó, chúng ta thấy rằng một xã hội phát triển không ngừng, nền văn
minh khoa học đang bước dần lên đỉnh cao. Những năm gần đây nhất, sự bùng
nổ công nghệ 4.0 của toàn cầu đã đem lại nhiều thuận lợi cho nền kinh tế của
thế giới nhưng bên cạnh đó xuất hiện khơng ít những tệ nạn trong xã hội của
các quốc gia. Chúng ta chạy theo công nghệ, kỹ thuật tiên tiến, đuổi bắt cho
kịp thời đại để được giàu sang và tri thức, đã khi nào chúng ta hỏi để có những
tiện nghi đầy đủ về vật chất này để làm gì khơng? Khơng gì bằng một cuộc
sống ấm no hạnh phúc. Ta có thể hiểu hạnh phúc thuộc tinh thần, ấm no thuộc
vật chất, chính vì nhầm lẫn rằng vật chất mới cho ta hạnh phúc, rồi cả một đời
cứ đuổi hình bắt bóng, vơ tình tách rời hạnh phúc ra khỏi chính mình.
Vào khoảng thế kỷ XXI trở về sau đạo đức con người dần dần đi xuống,
tệ nạn xuất hiện nhiều trong xã hội, với cách sống vô cảm và vị kỷ, con người
trở nên vô tình, những tệ nạn giết người, cướp của, hiếp dâm, bạo lực gia
đình, ly hơn, bạo lực học đường, ma tuý, hối lộ, tham nhũng…. Những hiện
trạng này không phải đợi đến thế kỷ XXI mới xuất hiện mà đã có trước đó.
Nhưng nó chỉ giới hạn trong một phạm vi nhất định, một môi trường, một số
người không hiểu biết, ý thức kém, sự nghèo khổ bần cùng đẩy họ vào con
đường trộm cướp, thật ra bản thân họ không muốn vậy. Đến ngày nay các tệ
nạn này hầu như có mặt khắp nơi trên các tỉnh, thành phố đất nước Việt Nam.
Cùng một hành vi giết người cướp của nhưng xưa và nay khác ở chỗ động cơ
để thực hiện hành vi không mang sự ác tâm và vô cảm khi thực hiện tội ác ấy.
Năm điều giới của người tại gia là hàng rào nhằm để ngăn chặn những ý nghĩ,
hành vi, lời nói mang đến khổ đau cho người và mình. Ngũ giới bao gồm:
“khơng sát sinh, khơng trộm cướp, khơng tà dâm, khơng nói dối, không uống
rượu”.



Ngũ giới của nhà Phật được coi là nguyên tắc cơ bản hình thành nền đạo
đức xã hội, đào tạo ra những con người mẫu mực vừa lành mạnh về thể xác
vừa trong sáng về tâm hồn, góp phần giữ gìn và cân bằng sinh thái. Đối với xã
hội xưa –nay việc giữ gìn giới cấm lúc nào cũng rất cần thiết. Vì giới đem lại
an lạc cho xã hội; an lạc cho bản thân; gia đình, những người Phật tử, xuất gia
hay tại gia, tu tập điều thiện, chính là giữ giới.
Trong cuộc sống, con người dễ bị lôi cuốn bởi tham-sân-si, cho nên cần
tự kiềm chế bản thân bằng cách trì giới. Có Giới thì tâm mới Định; có Định
thì Huệ mới nảy sinh. Làm việc lành, tránh điều ác, thì tâm mới thanh tịnh.
Năm giới căn bản của người Phật tử là những tánh giới, những giới "tự
nhiên", phổ biến, có giá trị trong mọi nền văn minh và mọi thời đại, khơng thể
nào thiếu sót được. Học viên xin lấy đề tài “Giá Trị Và Tầm Quan Trọng
Của Giới Luật Đối Với Nam Nữ Cư Sĩ thơng qua việc hành trì Ngũ giới”,
làm bài tiểu luận kỳ này.
Mục đích nghiên cứu bàn về năm điều giới cấm của người tại gia trong
Phật giáo, nêu lợi ích khi thực hành Ngũ giới, những phương pháp hành trì
đưa đến kết quả, mục đích làm sáng tỏ năm điều giới cấm của người tại gia
tạo nên một triết lý hệ tư tưởng tốt đẹp cho con người không mang tính tiêu
cực như giới cấm của các tơn giáo khác. Phạm vi nghiên cứu ngũ giới trong
Phật giáo, sơ lược một số vấn đề tệ nạn xã hội trong những năm gần đây.
Học viên xin giới hạn đề tài chỉ nghiên cứu trong năm giới của hàng cư
sĩ không đi quá rộng vào các giới khác như Bồ Tát giới và Bát Quan trai giới,
học viên xin làm theo tư tưởng Bắc Truyền Phật giáo, vì sở tu sở học còn
chưa thấu đáo hết giới luật Phật dạy, nên học viên xin giới hạn phạm vi
nghiên cứu “Giá trị và tầm quan trọng của giới luật đối với hàng cư sĩ thơng
qua việc hành trì Ngũ giới”.


Trong quá trình nghiên cứu học viên sử dụng các phương pháp chứng
minh, phân tích, bình luận, so sánh và giải thích các vấn đề liên quan đến đề

tài giá trị và tầm quan trọng của giới luận đối với người cư sĩ.


B. NỘI DUNG

I. Khái quát về ngũ giới
1. Định Nghĩa Giới Luật
Giới tiếng Pāli là Sila phiên âm là Thi-La, được hiểu là lời dạy, sự ngăn
cấm, quy luật do Đức Phật chế định nhằm khuyên con người về hai mặt:
Phương diện đạo đức: Sila là những lời dạy của Đức Phật nhằm hướng dẫn đệ
tử tránh làm những điều ác, nên làm những điều lành, tu tập thân-khẩuý thanh tịnh, diệt trừ tham sân si đưa đến sự an lạc giải thốt cho chính mình.
Về phương diện tu tập: Là phong cách cư xử đạo đức, không những
khuyên con người nên q mến, thơng cảm, hịa hợp, đồn kết, giúp đỡ
nhau... mà còn hướng dẫn cách tu tập giữ Sila để thích nghi với tình
trạng sống chung trong tập thể Tăng đồn, hầu mang lại lợi ích, an vui và
hạnh phúc thật sự cho chính mình, cho người xung quanh. Về phương
diện đạo đức: Theo ngài Phật Âm (Buddhaghosa) cho rằng Sila có nghĩa
là Giới hạnh. Giới hạnh là gì? Đó là một con người sống đạo đức với một tâm
thiện, xa lánh việc sát sanh, không trộm cướp, khơng có hành động phá
hoại đời sống hạnh phúc của người khác, khơng nói dối và khơng dùng những
chất say, chất kích thích làm cuồng tâm loạn trí. Có thể nói đó là một người tu
tập thực hành viên mãn các học giới do đức Phật chế định.“Giới là lộ trình
sống thật của chân lý, được kết tinh từ nhân cách đạo đức, nhằm nuôi dưỡng
công hạnh tự lợi, lợi tha, một yếu tố tác thành Phật quả. Giới cũng chính là
cơ năng nồng cốt để xây dựng trật tự kỷ cương, một con người toàn diện
trong sáng, nâng cao trí thức, phát triển trí tuệ”1.
Luật là hệ thống các điều khoản mà đức phật chế định cho hàng đệ tử
xuất gia và tại gia thọ trì, nhằm đem đến sự an lạc cho bản thân, cho tăng
đoàn và xã hội.


1

htt ps://Phật giáo.org.vn.


Vì vậy Giới có thể hiểu là: Năng lực kiềm chế, ngăn ngừa điều sai trái, chặn đứng
việc xấu ác, gia tăng những hành động thiện lành khiến cho cuộc sống của người trì
giới được giải thốt ra khỏi vơ minh phiền não. Hễ giữ được giới nào thì giải
thốt được giới đó. Cho nên càng giữ được nhiều giới bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu.
Như vậy , giữ giới là nâng cao phẩm chất, hoàn thiện tư cách của chính con
người mình. Đó chính là đạo đức, cái làm nên giá trị con người.

Giới tiếng Pàli là "Sila" phiên âm là Thi-La, được hiểu Là lời dạy, sự
ngăn cấm, quy luật do Đức Phật chế định nhằm khuyên con người về hai mặt:
- Phương diện đạo đức: "Sila" là những lời dạy của Đức Phật nhằm
hướng dẫn đệ tử tránh làm những điều ác, làm những điều lành, tu tập thânkhẩu-ý thanh tịnh, diệt trừ tham sân si đưa đến sự an lạc giải thốt cho chính
mình.
- Về phương diện tu tập: Là phong cách cư xử đạo đức, không những
khuyên con người nên quý mến, thông cảm, hài hịa, đồn kết, giúp đỡ nhau...
mà cịn hướng dẫn cách tu tập giữ "Sila" để thích nghi với tình trạng sống
chung trong tập thể Tăng đoàn, hầu mang lại lợi ích, an vui và hạnh phúcthật
sự cho chính mình và cho người xung quanh.
Về phương diện đạo đức, theo ngài Phật Âm (Buddhaghosa) cho
rằng: “Sila” có nghĩa là “Giới hạnh”. Giới hạnh là gì? Đó là một con
người sống đạo đức với một tâm sở thánh thiện, xa lánh việc sát sanh, khơng
trộm cướp, khơng có hành động phá hoại đời sống hạnh phúc của người khác
v.v.. Có thể nói đó là một người tu tập thực hành viên mãn các học
Giới do đức Phật chế định”2.
Giới luật là hệ thống các điều khoản mà đức phật chế định cho hàng đệ
tử xuất gia và tại gia thọ trì, nhằm đem đến sự an lạc cho bản thân, cho tăng

đoàn và xã hội.
Vì vậy Giới có thể hiểu là: Năng lực kiềm chế, ngăn ngừa điều sai trái,
chặn đứng việc xấu ác, gia tăng những hành động thiện lành khiến cho cuộc
2

PHẬT ÂM – WIKIPEDIA TIẾNG VIỆT


sống của người trì giới được giải thốt ra khỏi vơ minh phiền não. Hễ giữ
được giới nào thì giải thốt được giới đó. Cho nên càng giữ được nhiều giới
bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu. Như vậy tu tập Giới là nâng cao phẩm
chất, hoàn thiện tư cách của chính con người mình. Đó chính là đạo đức, cái
làm nên giá trị con người.

2. Giá trị và tầm quan trọng của việc giữ giới
Tất cả chúng sanh khi mới bắt đầu quy ngưỡng Tam Bảo thì phải dùng
lịng tin sâu dày, khi đã an trú trong nhà Phật thì dùng Giới Luật làm mực
thước cho đời sống tu tập. Lãnh thọ giới là khởi điểm để hàng Phật tử tại gia
và xuất gia bắt đầu hướng đến quả vị giải thốt, nghĩa là khi mới bước vào
cửa Phật thì cần phải lấy giới pháp làm thầy: “nhân giới sanh định, nhân định
phát huệ”3 nhờ sức duy trì giới mà từ đó phát khởi định tâm, do định tâm mà
trí tuệ được khai mở. Phật dạy rằng: “Giới là nền tảng căn bản của bốn niệm
xứ, bốn chánh cần, bốn như ý túc, năm căn, năm lực,bảy bồ đề phần, tám
thánh đạo phần. Ví như đất là nền tảng, khơng có nó thì các lồi động vật
khơng thể di chuyển, cũng thế,nếu khơng có giới thì ba mươi bảy phẩm trợ
đạo không thể tu tập được viên mãn.”4
Bởi thế, trong nhà Phật có giới luật, trong gia đình có gia quy, trong quốc
gia có quốc pháp để làm nền tảng phát triển đạo đức cho mỗi cá nhân, gia
đình và xã hội. Khi sống thành gia đình, đồn thể, cộng đồng, quốc gia hay
một tổ chức xã hội theo bất cứ mơ hình chính trị nào, tất nhiên phải có luật

lệ để giữ gìn an ninh trật tự cho đời sống an bình, hạnh phúc của mọi người.
Cho nên dù tự nguyện hay bị bắt buộc thì mọi người cũng phải tuân theo luật
định vì quyền lợi và bổn phận của mỗi thành viên trong cộng đồng xã hội.
Cũng giống như việc đi ra ngồi đường dù bạn có là ai đi nữa cũng phải đội
mũ bảo hiểm, chạy đúng tốc độ quy định.
3

HT. Thích Giác Tồn, (2006), Phật Học Cơ Bản-Chương Trình Phật Học Hàm Thụ Tập 1,
Nxb. Tơn Giáo, Tp. HCM, tr. 156-157.
4
Thích Chơn Thiện, (2009), Phật Học Khái Luận, Nxb. Phương Đông, Tp, HCM, tr.331.


Giới luật mà Đức Phật chế định được các học giả ngày nay đánh giá:
khoa học, công bằng, dân chủ và mang tính nhân bản rất cao. Khi đi sâu hơn
vào nội dung tinh yếu của một số giới luật, chúng ta còn nhận ra được ý
nghĩa thâm sâu hơn nữa, có thể gọi đó là tính siêu nhân bản hay siêu
phàm nhập thánh.
Giới là những lời dạy của Đức Phật, nhằm để sửa mình và giữ mình
khơng phạm những lỗi lầm “phòng phi chỉ ác”5 nghĩa là ngăn ngừa những
điều xấu ác, chấm dứt những việc ác,…qua những hành động, nói năng và
những hành vi thiện hay bất thiện của mình đối với người khác. Từ đó biết
cách ứng xử như thế nào cho đúng, không để cho hành vi rơi vào máy móc
hay qn tính mà vơ tình làm hại mình, hại người. Giới mà Đức Phật chế ra
khơng mang tính giáo điều, khơng bắt buộc ai phải theo, ai giữ và hành trì
được giới nào thì giải thốt được giới ấy, khơng bị khổ đau vì nhân quả tuần
hồn hay vướng vào vịng sanh tử ln hồi. Hàng Phật tử thường tự mình phát
nguyện gìn giữ, nhằm hồn thiện bản thân để trở thành một người có lối sống
đạo đức lành mạnh. Giới cũng là sự phòng hộ giống như áo giáp để phịng
thân, có thể ngăn ngừa những tai hại đến từ bên ngoài.

Lại nữa, giới là sự tự chủ vì những điều học nhắc nhở chúng ta biết dừng
lại đúng lúc, biết tự điều chỉnh hành vi của mình, và biết trường hợp nào cần
tự kiềm chế, tiết giảm hay điều độ. Nếu thái độ sống của chúng ta quá buông
thả, thiếu kỷ cương và kém hiểu biết, kết quả không những chuốc họa vào
thân mà còn vạ lây người khác. Sự chế ngự giác quan khi thấy, nghe, ngửi,
nếm, xúc chạm…cũng là một hình thức tự chủ của giới. Nói chung,
về phương diện tự chủ, giới giúp chúng ta khơng sống phóng túng, cẩu
thả theo bản năng thể xác, không hành động buông lung theo qn tính vơ
thức. Những người có thể chế ngự được thân, khẩu, ý thì giác quan của họ
cũng được thanh tịnh khi tiếp xúc với hoàn cảnh xung quanh. Đây là hệ quả
của sự tự chủ được gọi là giới thanh tịnh do chế ngự các giác quan.
5

HT.Thánh Nghiêm, Thích Nữ Tuệ Đăng dịch, (2007), Cương Yếu Giới Luật, Nxb. Phương
Đông, Tr.6.


Đức Phật biết rất rõ căn cơ của mỗi người nên Ngài đưa ra ngũ giới để
cho giúp hàng phật tử bớt khổ, an vui ngay hiện đời và vị lai được nhiều phúc
lạc, không bị những quả báo xấu làm đau khổ. Người Phật tử tại gia quý trọng
lối sống đạo đức này, tuy sống trong giới hạnh nhưng vẫn tự do, khơng có gì
là ràng buộc.
Tất cả chúng sanh khi mới bắt đầu quy ngưỡng ba ngôi Tam Bảo thì phải
dùng lịng tin sâu dày làm gốc, khi đã an trú trong nhà Phật thì dùng Giới Luật
làm cội gốc. Lãnh thọ giới là khởi điểm để hàng tỳ kheo bắt đầu hướng đến
quả vị giải thoát, nghĩa là khi mới bước vào trong Phật mơn thì cần phải lấy
giới pháp là thầy: “nhân giới sanh định, nhân định phát huệ” nhờ sức duy trì
giới mà từ đó phát khởi định tâm, do định tâm mà trí tuệ được khai mở. Phật
dạy: “ trì giới mới có thể thành đạo nghiệp” là như vậy. Kinh Đại Bát Niết
Bàn: “giới là nền tảng của tất cả các pháp lành, là cội gốc của tất cả thiện

pháp. giới là đấng đạo sư của các thiện căn. Giới có cơng năng đoạn trừ tất
cả ác nghiệp như dược thảo có cơng năng trị các thứ ác bệnh. Giới là từ
lương trên đường hiểm sanh tử”6.
Khi sống thành gia đình, đồn thể, cộng đồng, quốc gia hay một tổ
chức xã hội theo bất cứ mơ hình chính trị nào, tất nhiên phải có luật lệ để giữ
gìn an ninh trật tự cho đời sống an bình hạnh phúc của mọi người. Cho nên dù
tự nguyện hay bị bắt buộc thì mọi người cũng phải tuân theo luật định
vì quyền lợi và bổn phận của mỗi thành viên trong cộng đồng xã hội.
Tuy nhiên, khơng có luật lệ nào hồn hảo, vì bản chất của luật lệ thường
được quy định dưới hình thức cấm đoán, để ngăn ngừa hay chặn đứng
những hành

vi gây tổn

hại hoặc đối

phó với tình

trạng bất

ổn trong

đời sống cộng đồng mà thơi. Khơng chỉ những cấm đốn khắt khe của những
bạo chúa hay những kẻ độc tài, ngay cả những luật lệ tốt nhất cũng chỉ tốt đối
với người này mà không tốt cho người kia, hợp mỗi thời, không hợp mọi
lúc. Luật lệ có vẻ như để nhiếp phục người xấu, bảo vệ người tốt, nhưng
6

HT. Thích Trí Tịnh (Việt dịch), (2009), Kinh Đại Bát Niết Bàn quyển 3, Nxb. Tôn Giáo,
Hà Nội, tr. 207.



nhiều khi người xấu chưa chế ngự được mà người tốt đã bị thiệt thịi khơng
nhỏ.
Giới luật mà Đức Phật chế định được các nhà làm luật đánh giá là rất
khoa học, cơng bằng, dân chủ và mang tính nhân bản rất cao. Khi đi sâu hơn
vào nội dung tinh yếu nhất của một số giới luật, chúng ta còn nhận ra được ý
nghĩa thâm sâu hơn nữa, có thể gọi đó là tính siêu nhân bản hay siêu
phàm nhập thánh. Tuy nhiên trên phương diện tục đế, dù là giới luật nhà Phật
vẫn khơng tránh khỏi tính bất tồn như đã nói trên. Phần lớn những giới
luật loại này khơng mang tính cốt lõi, chỉ tùy dun ứng xử mà thơi.
Giới là điều học vì qua đó, nếu khéo quan sát, chúng ta học được tình
trạng, tính chất và động lực thúc đẩy đằng sau của mỗi hành vi đạo
đức hoặc phi đạo đức. Nghĩa là chúng ta có thể học ra từ những điều học
này nguyên nhân, điều kiện và hậu quả của những hành vi bên ngoài đang
biểu hiện qua hành động, nói năng. Nhờ những điều học đó mà sự tinh
tấn và chánh niệm được chính xác hơn. Đáp lại, chánh tinh tấn và chánh
niệm giúp chúng ta hiểu thấu ý nghĩa đích thực của giới, làm cho giới
được trong sạch và vô hạn, không để cho hành vi rơi vào máy móc hay qn
tính vơ thức.
Giới là hành vi đạo đức nhưng khơng có nghĩa là những mẫu mực cố
định mang tính giáo điều để quy định khuôn khổ một hành vi đạo đức phải
như thế nào, mà chỉ đưa ra những gợi ý nhằm gây ý thức cảnh giác để ngăn
ngừa, chế ngự hoặc từ bỏ hành vi phi đạo đức mà thôi. Quy định một hành
vi hiền thiện như thế nào khác hẳn với việc học hỏi có ý thức để từ
bỏ một hành vi xấu ác. Bởi vì, một khi hành vi tốt đã bị quy định trong khn
khổ thì khơng cịn là hành vi thật sự tốt nữa, nó chỉ cịn là một sự bắt buộc
hoặc bắt chước, không phát xuất từ ý thức tự do. Một hành vi đạo đức thật sự
thì tự do và vơ hạn.
Giới là sự phịng hộ giống như áo giáp để phịng thân có thể ngăn

ngừa những tai hại đến từ bên ngoài. Khi chúng ta khéo tránh những hành
vi bất thiện, không để cho thân buông theo khuynh hướng xấu của bản


năng hay tình cảm thì chắc chắn chúng ta tránh được vô số hiểm họa như
bệnh tật, tai ương, thù oán, nợ nần hay nghiện ngập…
Giới là sự thận trọng, vì hành động đạo đức chỉ được hồn hảo khi có
sự cẩn thận, khéo léo, kỹ lưỡng, nghiêm túc trong mọi hành vi. Những người
không buông lung hời hợt, tuy họ hành động tự nhiênnhưng rất có kỷ
cương, chính xác, chuẩn mực và đạo đức. Họ rất tinh tường trong giới
luật cho dù có thể họ khơng biết đến một hệ thống luật lệ nào. Họ có phong
thái rất chững chạc nhưng không hề cố ý tạo ra một mẫu phong cách riêng
nào cho mình cả. Chuẩn mực của họ khơng phải là khn mẫu cố định nào
mà chính là sự thận trọng, tinh tế, cẩn mật, chu toàn và luôn mới mẻ trong
từng hành động nhỏ nhặt nhất hàng ngày.
Giới là sự tự chủ vì những điều học nhắc nhở chúng ta biết dừng lại đúng
lúc, biết tự điều chỉnh hành vicủa mình, và biết trường hợp nào cần tự
chế, tiết giảm hay điều độ. Thái quá hay vượt qua giới hạn cho phép là thái
độ sống buông thả, thiếu kỷ cương và kém hiểu biết, kết quả không những
chuốc họa vào thân mà còn vạ lây người khác. Sự chế ngự giác quan khi thấy,
nghe, ngửi, nếm, xúc chạm…cũng là một hình thức tự chủ của giới. Nói
chung, về phương diện tự chủ, giới giúp chúng ta không sống phóng túng cẩu
thả theo bản năng thể xác, khơng hành động bng lung theo qn tính vơ
thức.
Giới là sự thanh tịnh vì nó làm lắng dịu những phiền não thơ thiển biểu
hiện qua hành động và lời nói. Những người có thể tự chế thân khẩu thì giác
quan của họ cũng được thanh tịnh khi tiếp xúc với hoàn cảnh xung quanh.
Đây là hệ quả của sự tự chủ, như đã nói trên, được gọi là giới thanh
tịnh do chế ngựcác giác quan.
Giới là sự giải thốt vì một khi tránh được điều sai xấu nào thì chúng

ta khơng bị sa lầy hay trói buộc trong diễn biến nhân quả của hành vi tai
hại đó. Nhờ giới, chúng ta khơng bị ray rứt, nóng nảy, giày vị của những mặc
cảm tội lỗi, mà cịn giúp chúng ta thốt được biết bao hậu quả thảm hại do
những hành động, nói năng sai trái gây nên.


Đức Phật biết rất rõ mức độ nhận thức của mỗi người nên để giúp họ có
thể tự giác Ngài đã không ngần ngại sử dụng cả hai phương tiện tục
đế lẫn chân đế. Giới hữu hạn dựa trên khái niệm đã được chế định sẵn,
trong lãnh vực tục đế; cịn giới vơ hạn dựa vào thực tánh của sự kiện đang
diễn ra, trong lãnh vựcchân đế. Trong giới hữu hạn, khái niệm sai đối
chiếu với khái niệm đúng đã được ấn định. Trong giới vơ hạn chỉ có thể thấy
đúng hoặc sai ngay nơi bản chất của sự việc chứ khơng có khái niệm nào
để so sánh. Vì vậy, tuy sống trong giới hạnh vẫn tự do khơng có gì ràng buộc.

3. Ngũ giới phẩm chất đạo đức thiết yếu của Phật tử tại gia
Đạo đức của một cá nhân được được quy định theo luật lệ của quốc gia,
nếu một người thực hành đúng theo quy luật của xã hội hay phong tục tập
quán của trú xứ ấy, của quốc gia ấy thì người đó được gọi là người có đạo
đức. Cũng vậy, trong nhà Phật thì đạo đức của con người được xây dựng và
phát triển trên nền tảng của giới. Nên hàng Phật tử tại gia phải chăm lo
nghiêm trì giới luật. Ngũ giới là căn bản của Phật tử tại gia, khi bắt đầu bước
chân trên con đường giác ngộ giải thoát. Đức phật dạy trong kinh pháp cú như
sau:
“Đừng làm các việc ác,
Tu tập các việc lành,
Giữ tâm ý trong sạch,
Đó là lời phật dạy”.7
Đức Phật dạy hàng Phật tử phải tinh cần làm việc thiện, không nên làm
những việc xấu ác, để thân khỏe mạnh, tâm được an. Vậy ngũ giới gồm

những gì? Đó là: Khơng sát sanh; Khơng trộm cắp; Khơng tà dâm; Không
nối dối và không uống rượu.

7

Tịnh Minh dịch, (2010), Thi Kệ Pháp Cú câu 183, Nxb. Phương Đông, Tp. HCM, tr.193.


*Giới thứ nhất là không sát sanh ( panatipata)8
Sở dĩ chúng ta thường thấy có nhiều người chết yểu, thọ mạng ngắn ngủi,
hay chết đi khi còn trong bụng mẹ, hay những người bệnh tật nhiều, đau ốm
quanh năm suốt tháng, dù có tiền chữa trị cũng vẫn khơng hết, có những
người hiếm muộn khơng có con hoặc tuổi già phải sống neo đơn không con
không cháu … Tất cả đều là sự hình thành của nghiệp báo sát sanh hại mang
lại. Khi sanh thời, con người không gặp được Phật pháp, không gặp thiện tri
thức nên những việc làm và lối sống theo thói quen của bản năng. Từ những
việc khơng tin nhân quả, sống vơ mình với cái nhìn thiển cận, nên tích tạo
những ác nghiệp. Như có người vì ganh ghét mà hại nhau làm cho gia đình
người khác chia ly, người sống kẻ chết đau khổ vơ cùng. Hoặc vì khối khẩu
mà giết chúng sanh để ăn cho thõa mãn, thấy người khác giết sanh tâm vui
mừng.
Ơi! Vì nhu cầu của bản thân mà con người giết hại sinh vật từ nhỏ bé cho
đến người lại giết người. Khi quả báo đến thì họ đau khổ,khơng chịu chấp
nhận, cứ than trời trách đất, mà họ không biết chính họ đã gieo nhân ấy từ vơ
lượng kiếp và ngay hiện tại họ cũng đang gieo nghiệp. Cho nên, “ những
người chết yểu là do sát sanh tàn nhẫn, tay lắm máu, khi thân hoại mệnh
chung thì sanh vào cõi dữ, đọa xuống địa ngục, nếu làm người thì chết yểu,
đoản mạng là do sát sanh tàn nhẫn, cịn người sống lâu là do từ bỏ sát sanh,
có lòng từ, khi thân hoại mệnh chung người này được sanh lên cõi trời hoặc
làm người thì được sống lâu. Con đường đưa đến trường thọ là từ bỏ sát

sanh và thương sót lồi hữu tình.”9
Vì vậy, chúng ta là những người con Phật, vâng giữ ngũ giới thọ trì lời
Phật dạy, nên tự thân giữ gìn giới khơng sát sanh mà nên phóng sanh. Người
Phật tử thuần thành phải biết tơn trong sự sống của mình và của người khác,
8

Ajahn Sumedho, Susanta Nguyễn dịch, (2005), Tâm Và Đạo Sự Quán Tưởng của Phật Giáo Về Cuộc Sống,
Nxb. Tôn Giáo, Tp. HCM, tr.231.
9
HT.Thích Minh Châu dịch, (2010), Tóm Tắt Kinh Trung Bộ- Phẩm Tiểu Kinh Phân Biệt Nghiệp, Nxb. Văn
Hóa Sài Gòn, Tp. HCM, tr.367.


biết u thương những lồi vật, dù lồi vật mình khơng thích cũng phải khởi
lịng từ mà bảo vệ mạng sống của chúng. Nếu được như vậy thì ngay đời này
tuổi thọ sẽ được lâu dài, thân khỏe mạnh, tâm an, gia đình hạnh phúc sum
vầy.
Giới thứ hai là khơng trộm cắp (Adinnadana)10
Nghĩa là tôn trọng tài sản của người, không lấy của không cho, từ ngọn
cỏ cây kim, đến tiền, vàng,… người ta khơng cho thì khơng được lấy, hễ lấy
là phạm tội ăn trộm.
Ngày nay, xã hội phát triển, vật chất cuống con người vào vịng xốy
kiếm tiền. Có người cho rằng “có tiền là có tất cả”, vì phần lớn tiền bạc của
cải làm cho con người ta khơng cịn làm chủ được bản thân, làm mất đi bản
chất lương thiện vốn có của mỗi người. Nhiều người đặt nhu cầu tiện nghi
cho cuộc sống là trên hết nên sinh tâm tham muốn, ganh ghét của cải của
người, sinh lòng trộm cắp từ vật nhỏ như cọng rau, trái ớt cho tới những tài
sản lớn như nhà cửa, ruộng vườn,…hay ăn hối lộ, tham nhũng vì lợi ích của
mình mà tổn hại đến nhân dân và đất nước. Trong tiền kiếp người nào tạo
nghiệp trộm cắp thì hiện đời chịu quả khổ đau.

“ Qủa xấu của ác nghiệp trộm cắp có mười một quả xấu như sau:1.
Là người khơng có những thứ của cải q giá; 2. Là người thiếu thốn những
nhu yếu phẩm như lúa gạo, tiền bạc, đồ dùng,v.v…; 3. Là người nghèo khổ
túng thiếu của cải; 4. Là người không phát triển được những thứ của cải; 5.
Là người làm ra của cải quý giá thì khơng giữ gìn được lâu dài; 6. Là người
khơng thể có được thứ của cải mà mình mong muốn;7. Là người khi có được
của cải, thì thường bị thiệt hại do lửa thêu cháy, do nước lũ cuốn trôi, do kẻ
trộm chiếm đoạt, do nhà nước tịch thu,v.v…; 8. Là người có được của cải thì
cũng liên quan đến nhiều người, khơng riêng cho mình được. 9. Là người khó
chứng đắc được chín pháp siêu tam giới( bốn thánh đạo, bốn thánh quả, niết
bàn); 10. Là người thường nghe đến danh từ “khơng có”; 12. Là người sống
khơng được an lạc”11.
10

Ajahn Sumedho, Susanta Nguyen dịch, (2005), Tâm Và Đạo Sự Quán Tưởng của Phật Giáo Về Cuộc
Sống, Nxb. Tôn Giáo,Tp. HCM, tr.231.
11
Tỳ kheo Hộ Pháp, (2017),Ngũ Giới Là Thường giới của Mọi Người, Nxb. Tôn Giáo, Tp. HCM, tr. 124.


Đó là mười một quả xấu của ác nghiệp trộm cắp mà kiếp trước người
ấy đã tạo trong kiếp quá khứ. Chúng ta thường hay ganh tị với mọi người
xung quanh hễ ai có cái gì đẹp, cái gì tốt như điện thoại hay loptop thì chúng
ta thường khởi tâm tham và ln muốn có cái gì đó tốt đẹp hơn. Đây không
phải là tâm thanh tịnh, không phải là cách sống thích hợp cho sự phát triển
tâm linh. Vì thế chúng ta nên tôn trọng tài sản và những gì thuộc về người
khác.
Cho nên muốn diệt trừ được tâm tham thì thì phải thực hành hạnh bố
thí vì chỉ có bố thí mới có cơng năng giúp cho tâm chúng ta được thanh tịnh,
và được phước báu vô lượng. Bố thí là đem của cải mình có đem ra để giúp

đỡ mọi người xung quanh như“nhường cơm sẻ áo”, “lá lành đùm lá rách”,..
Cho nên khơng phải giàu có mới giúp được, chỉ cần có tâm thì dù chỉ một ổ
bánh mì chia đơi, cũng ấm lịng người thọ nhận. Chúng ta thường thấy những
qúy Thầy, quý Sư là những bậc chơn tu thường xem tài sản tiền bạc không
quan trọng, chỉ sử dụng như một phương tiện thôi “có cũng được, khơng có
cũng khơng sao”, khi được thỉnh mời đến thuyết pháp, các vị ấy hoan hỷ đến
thuyết và khi thuyết giảng xong, chỉ cần cúng dường một bữa cơm thơi là thấy
ấm lịng, khơng chú trọng về tiền bạc. Bậc đạo sư chánh đẳng giác, bậc Thầy
mô phạm của nhân thiên, đã ban bố cho những thời pháp quý giá hơn tất cả
vật chất tiền tài trên cõi đời, đó chính là Pháp thí. Cịn một sự bố thí khơng
thể thiếu, đó là đem lại cho một người một chỗ dựa vững chắc giúp họ khơng
cịn khổ đau, khơng cịn sợ hãi, thương chúng sanh như chính bản thân mình,
đó chính là Vơ thí, hạnh này được Bồ tát Quán Thế Âm vì thương chúng
sanh nên hành trì, nơi nào có chúng sanh đau khổ, mà hay trì niệm danh hiệu
Ngài thì Ngài đến cứu khổ, nên mỗi khi đau khổ hay gặp chuyện nguy cấp thì
chúng ta thường niệm “Nam mơ Tầm Thinh Cứu Khổ Cứu Nạn Quan Thế Âm
Bồ Tát” là như vậy.
Thứ ba là giới Không tà dâm (Kamesu micchacara) 12
Trong kinh Pháp cú Đức Phật có dạy rằng:
“Dịng ái dục chảy khắp,
12

Ajahn Sumedho, Susanta Nguyen dịch, (2005), Tâm Và Đạo Sự Quán Tưởng của Phật Giáo Về Cuộc
Sống, Nxb. Tôn Giáo, Tp. HCM, Tr.231.


Như dây leo mọc tràng,
Thấy dây leo vừa sanh,
Với tuệ hãy đoạn gốc”.13
Phật khuyên các Phật tử tại gia nên thực hành đúng pháp để đoạn trừ

nghiệp ái, mở đường vượt ra sanh tử luân hồi, dứt được khổ đau. Người
khơng tà dâm, hiện đời có được một gia đình hạnh phúc, lịng khơng sợ hãi,
đêm ngủ được n giấc. Mỗi người Phật tử tại gia phải biết tôn trọng hơn
nhân trong gia đình của mình và gia đình người khác. Cuộc sống chỉ một vợ
một chồng là đủ, chồng thì khơng trăng hoa, vợ thì khơng ngoại tình, sống
phải thủy chung với nhau đến trọn đời, đó là nói gia đình có vợ có chồng.
Cịn xã hội ngày nay thì những người trẻ thường có quan niệm là sống
thử để thỏa mãn những thú vui nhất thời. Nhưng họ đâu biết đó cũng gọi là tà
dâm, chưa cưới mà sống như vợ chồng đối với người thọ trì ngũ giới thì đều
xem là phạm giới. Ở đây khơng chỉ phạm giới dâm mà có thể tạo thêm giới
sát nữa, vì khi hành dâm khơng đúng pháp thì sẽ có những đứa con không
được thừa nhận, rồi những người mẹ phải dùng những biện pháp để loại bỏ
những bào thai. Những hành động này vơ tình tước đi mạng sống của những
sinh linh vô tội, những em bé chưa kịp mở mắt chào đời thì những dao kéo cắt
em ra từng đoạn. Ơi! Đau đớn làm sao! Khi em cịn bé như thế mà phải chịu
cảnh sự ghẻ lạnh của cha và sự vô tâm của người mẹ. Bởi thế “hành dâm dục
sái quấy là tà dâm”14.
Phật có dạy rằng:
“Nếu sinh tưởng điên đảo,
Khởi niệm, tâm ân ái,
Hãy trừ tâm mê đắm,
Liền không cấu uế này.”15
Cho nên, Phật khuyên hàng đệ tử tại gia khi khởi tâm mê đắm sắc dục,
thích thú trong ân ái nên nhận biết sự hiện diện của tâm niệm ấy và trừ bỏ
chúng ngay. Khi khởi tâm ấy thì nên niệm câu như thế này: “ này hỡi các
dâm dục! hãy đi chỗ khác, chỗ này khơng có chỗ cho các ngươi, hãy đi đi”.
13

HT.Thích Minh Châu dịch, (2017), Kinh Pháp Cú, Nxb. Phương Đông, Tp. HCM, tr. 98.
Tỳ kheo Chánh Minh biên soạn, (2006), Luận GiảI Kinh Chánh Tri Kiến, Nxb Tôn Giáo, Tp. HCM, tr.116.

15
Thích Đức Thắng dịch, (2011), Tăng Nhất A-Hàm Tập 1, Nxb. Phương Đông, Tp. HCM, tr. 114.
14


Là một người con của Như Lai, chúng ta phải sống đúng chánh pháp, thực
hành tâm chân chánh. Ln phịng hộ khi tâm khởi lên muốn chiếm hữu thì
biết tâm đang tham ái thì ngay lúc đó lấy giới để ngăn chặn. Bản thân ln
tỉnh giác, nỗ lực hành trì giới pháp đã thọ, lấy giới làm hàng rào cản ngăn
dòng ái dục đang khởi trong tâm, ngăn ngừa tội lỗi. Người tu học thực hành
được như vậy, hiện đời tâm mình sẽ được nhẹ nhàng khơng vướng mắc, đi
đến đâu cũng được tự do tự tại, được sự tôn trọng của mọi người xung quanh,
gia đình hạnh phúc sung túc và vị lai sẽ nhận được quả lành là được thân
tướng đoan chánh, trang nghiêm bởi không làm hạnh tà dâm.
Thứ tư là Giới Khơng Nói Dối ( musavada)16
Lời nói của chúng ta vơ cùng quan trọng, nó ảnh hưởng tới sự tồn
vong của gia đình và xã hội.
“Vết dao đâm có thể lành thương tích,
Lời nói đâm nhau hận một đời.”17
Thế nên, Phật tử khơng nên nói những lời dối trá, nói thêu dệt, nói lưỡi
đơi chiều, nói lời độc ác, dù chỉ giỡn chơi thì cũng khơng được nói vì đó là
cái hạnh khơng tốt. Chúng ta đã khơng nói dối thì cũng khơng nên ươm mầm
nói dối mà ngược lại phải ln nói lời chân thật, để khơng hối hận trọn đời.
Trong Luật tạng có ghi rõ; nói dối có bốn loại:
Nói dối trá là chuyện khơng nói có, chuyện có nói khơng, thấy nói
khơng thấy khơng thấy nói thấy, làm nói khơng làm, khơng làm nói là làm,
chưa chứng mà nói là chứng,…
Nói thêu dệt là nói những lời hoa mỹ, nói trau chuốt phù phiếm, quanh
co êm dịu, dẫn dắt dục vọng, nói những lời ngọt ngào để lợi dụng tình cảm,
dụ dỗ người sa vào con đường phi pháp như: dâm ơ, xì ke, trộm cướp,…làm

lung lay tâm trí của người.
Nói lưỡi đơi chiều là đem chuyện của người này nói với người kia, đem
chuyện của người kia nói với người này, làm cho hai bên xung đột, mình
đứng ngồi nhìn thấy vui, thích thú, đó là chuyện nhỏ giữa hai người, lớn hơn
16

Ajahn Sumedho, Susanta Nguyen dịch, (2005), Tâm Và Đạo Sự Quán Tưởng của Phật Giáo Về Cuộc
Sống, Nxb. Tôn Giáo, Tp. HCM, Tr.231.
17

Thích Chân Quang, (2009), Tâm Lý Đạo Đức quyển 2, Nxb Tôn Giáo, Tp. HCM, tr. 282.


nữa là làm cho hai nước xung đột dẫn đến chiến tranh, đất nước phải chìm
trong cảnh binh đao, đầu rơi máu đỗ,…
Nói lời độc ác là nói những lời mắng nhiếc, nguyền rủa, chửi tục,…
làm cho người nghe phải đau khổ, buồn rầu sợ hãi.
Cho nên, Phật khuyên hàng Phật tử phải biết giữ gìn miệng lưỡi mình
khơng cho tạo nghiệp ác nữa, tác hại của việc nói dối, nói khơng đúng sự thật
sẽ làm cho chính mình phải chịu sự xa lánh, mất sự tin tưởng của mọi người.
Nếu trong quá khứ chúng ta không làm hạnh ác nghiệp nói dối thì hiện đời
chúng ta được mười bốn đều lợi ích như sau: “Kiếp hiện tại của người ấy:
1-Là người có ngũ quan (năm giác quan của con người) sáng suốt.
2- Là người có giọng nói ngọt ngào dễ nghe.
3- Là người có đơi hàm răng đều đặng, đẹp đẽ.
4-Là người có thân hình khơng mập q.
5- Là người có thân hình khơng ốm q.
6- Là người có thân hình khơng q thấp.
7- Là người có thân hình khơng q cao.
8-Là người có da thịt mịn màng, mềm mại.

9-Là người mà trong miệng thường có mùi thơm thốt ra dễ chịu như
mùi hoa sen.
10-Là người nói được nhiều người tin theo, khơng có ai ganh tỵ.
11-Là người nói được nhiều người muốn nghe.
12-Là người có cái lưỡi mềm mỏng, màu hồng như cánh hoa sen đỏ.
13-Là người có định tâm vững vàng.


14-Là người có lời nói rõ ràng, ý nghĩa sâu sắc, được nhiều người tin
tưởng và tơn trọng.
Đó là quả báu tốt của dục giới đại thiện nghiệp khơng nói dối mà tiền
khiếp người ấy đã tạo.”18
Cho nên khi tu tập chúng ta phải cẩn thận trong lời nói, phải có trách
nhiệm với lời nói của mình để tránh làm cho người khác đau khổ, sợ hãi, làm
cho người khác khơng nghi ngờ và sẽ trở thành người có uy tín được mọi
người tin tưởng kính trọng do thường nói lời chân thật, ái ngữ.
Giới thứ năm là không uống rượu (surameraya majjapamadatthana)19
“Giới này có nghĩa là tránh xa các chất say có thể khiến tâm mê muội
và thân điên đảo”20. Hằng ngày, chúng ta thường thấy các trang báo, đài
truyền hình hay mạng Internet đăng tin khơng biết bao nhiêu tệ nạn đã xảy ra,
mà phần lớn nguyên nhân dẫn đến đều là do dùng bia, rượu và các chất
nghiện gây ra. Các chất này rất đa dạng như: rượu, bia, ma túy dạng bột, ma
túy đá, thuốc lắc, cần sa,v.v…Các chất này nếu dùng vào cho con người thì sẽ
bị cuồng tâm loạn trí, khơng có khả năng làm chủ được lời nói và hành động
của mình. Vì thế khi phạm giới này thì dễ dẫn đến phạm các giới cịn lại, bởi
vì “khi rượu vào thì lời ra” hay các chất gây nghiện vào thì con người khơng
cịn sáng suốt, khơng phân biệt đúng sai nữa, làm gì mà tâm thấy vui, thỏa
mãn là được. Khi tâm trí mê mờ thì rất dễ gây ra ngộ sát hoặc cố sát, từ con
người cho đến các loài vật khác, từ đó tạo nên nghiệp sát. Kế đến là do ghiền
rượu mà khơng làm nên sự nghiệp gì, gia cảnh trở nên nghèo thiếu. Từ nghèo

đói sanh tâm tham muốn, khi thấy của cải của người liền sinh lòng trộm cướp
lấy tiền vật để đổi lấy rượu, đó là phạm giới trộm. .

18

Tỳ kheo Hộ Pháp, (2017), Ngũ Giới Là Thường Giới Của Mọi Người, Nxb. Tôn Giáo, Tp. HCM, tr. 131.
Ajahn Sumedho, Susanta Nguyen dịch, (2005), Tâm Và Đạo Sự Quán Tưởng của Phật Giáo Về Cuộc
Sống, Nxb. Tôn Giáo, Tp. HCM, tr. 233.
20
TS. Tỳ kheo Basnagoda Rahula, (2010), Lời Dạy Của Đức Phật, Nxb. Tôn Giáo, Tp. HCM, tr. 268.
19


Khơng dừng lại ở đây, con người khi say thì khơng thể điều khiển được
mình mà hành dâm dục hoặc như cưỡng ép, chiếm đoạt khiến người khác đau
khổ, nhục nhã, đó là phạm giới dâm. Kế đến, là vì tới cơn thèm rượu hay ma
túy mà khơng có tiền thì nói dối lừa gạt người để có tiền uống rượu, hút
chích. Đây chính là do phạm một giới mà liên đới phạm thêm bốn giới còn
lại, thật nguy hại cho chính bản thân người nghiện và cộng đồng xã hội.
“Theo thống kệ gần đây nhất: khi nồng độ rượu 0,05 người uống thấy bớt bị
ức chế và tăng khả năng giao tiếp, khi lên 0,1 người uống bắt đầu lè nhè,
nồng độ rượu lên tới 0,4 người uống bắt đầu lơ mơ, đến 0,5 người uống bắt
đầu rơi vào tình trạng hơn mê, nếu trên nữa sẽ bị liệt cơ quan hô hấp và dễ
dẫn đến tử vong”21.
Như trong giới luật Phật có khai giới cho rượu làm thuốc dẫn, khi
người đó bị bệnh nặng khơng thể trị khỏi, phải cần đến rượu để làm thuốc dẫn
thì mới được dùng, nhưng phải bạch cho chúng biết rồi mới được dùng, nếu
khơng thì một giọt cũng khơng được dính vào môi. Đức Phật khuyên hàng
Phật tử tại gia không nên lạm dụng việc uống rượu hay các chất say làm cho
tâm trí bấn loạn, vì nó sẽ làm mất giống trí tuệ, khơng thể chun tâm học

kinh điển, khơng thể tập trung ngồi thiền, niệm phật, hiện đời sẽ mắc vô
lượng tội lỗi và đời sau sẽ phải làm người ngu si, ám độn, bị mọi người xa
lánh. Là người con Phật phải dõng mãnh tinh tấn, thể hiện bản lĩnh vượt qua
những cám dỗ nhất thời để hoàn thiện bản thân trở thành một người mẫu mực,
người có đạo đức, góp phần làm cho xã hội ngày càng tiến bộ. Bản thân người
Phật tử không dùng những chất gây nghiện và khuyến khích người khác cùng
nhau khơng dùng để bảo vệ hạnh phúc gia đình và xã hội.

II.

21

Lợi ích của Ngũ giới Phật giáo

Quảng Huyền-Kim Chi, (2010), Ngũ Giới Nền Tảng Đạo Đức của con người, Nxb. Phương Đông, Tp.
HCM, tr. 38.


1. Lợi ích đối với tự thân
Trong kinh Phật Tự Thuyết, đức Thế Tơn có dạy rằng: “Này gia chủ, có
năm điều lợi ích này cho người giữ giới. Thế nào là năm? Ở đây này các gia
chủ, lợi ích thứ nhất là người giữ giới do nhân duyên không phóng dật nên
được tài sản lớn; lợi ích thứ hai là người giữ giới tiếng tốt được đồn xa; lợi
ích thứ ba là người giữ giới khi đi đến hội chúng nào đều với tâm trạng
khơng sợ hãi; lợi ích thứ tư là người giữ giới khi chết không bị si ám; lợi ích
thứ năm là người giữ giới khi mạng chung được sanh vào thiện thú, thiên
giới, cõi đời này”.22
Thật vậy, người Phật tử có nếp sống theo ngũ giới, nếu giữ được giới
khơng sát sanh thì bản thân không bị người khác giết, hoặc bị tù tội, cũng
không thù hận và gieo oan trái với nhau. Người giữ giới hưởng nhiều phước

báo, tuổi thọ được tăng trưởng, không tạo ác nghiệp đời này và đời sau. Lại
nữa, người giữ được giới khơng trộm cướp thì ở đâu cũng không sợ người
khác theo dõi nghi ngờ, đi đâu cũng tự do, tự tại thì hạnh phúc nào bằng. Nếu
người học Phật giữ giới khơng tà dâm thì bản thân không dè dặt khi giao
tiếp, không sợ người khác bàn tán, tự thân trinh bạch luôn được mọi người
tôn trọng và q mến. Nếu giữ được giới khơng nói dối thì chính ta khơng
phải hối hận, lời nói có giá trị, được niềm tin từ mọi người. Và giữ được giới
khơng uống rượu hay những chất say thì hiện đời sẽ được thân khỏe tâm an,
trí tuệ sáng suốt, khơng phạm phải những sai lầm đáng tiếc, có gia đình hạnh
phúc, bình an.
2. Lợi ích đối với gia đình và xã hội
Trong kinh Pháp Cú có câu:
Hương các loại hoa thơm,
Khơng ngược bay chiều gió,
22

HT.Thích Minh Châu dịch, (1999), Kinh Tiểu Bộ tập 1, Kinh Phật Tự Thuyết Chương 8-Phẩm
Pataligamiya, Nxb. Tôn Giáo, Tp. HCM, tr. 278.


×