HỌC VIỆN NGOẠI GIAO
KHOA CHÍNH TRỊ QUỐC TẾ VÀ NGOẠI GIAO
BÁO CÁO
Học phần: Lịch sử Văn minh Thế giới
Chủ đề:
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH NỀN VĂN MINH
AI CẬP VÀ LƯỠNG HÀ
Giáo viên hướng dẫn: GS.TS Nguyễn Thái Yên Hương
Sinh viên thực hiện:
Bùi Xuân Nhật, QHQT48C1-1069
Cao Lê Quỳnh Anh, QHQT48C1-0773
Chu Đức An, QHQT48C1-0763
Lớp: LSVMTG(2)
Ngày nộp: 13/12/2021
Số từ: 4248 từ
HÀ NỘI - 2021
Lời mở đầu
Tiểu luận cuối kỳ học phần Lịch sử Văn minh Thế giới trình bày về chủ đề: “Lịch sử hình
thành nền văn minh Ai Cập và Lưỡng Hà”. Tiểu luận bao gồm các phần nội dung như sau:
A. Lịch sử hình thành nền văn minh Ai Cập cổ đại……………………………………...…2
I. Đặc điểm Tự nhiên của Ai Cập cổ đại
II. Đặc điểm Kinh tế - Xã hội của Ai Cập cổ đại
III. Lịch sử Ai Cập cổ đại
1. Thời kỳ Tảo vương quốc (3150-2613 TCN)
2. Thời kỳ Cổ vương quốc (2613-2181 TCN)
3. Thời kỳ Trung vương quốc (2181-1570 TCN)
4. Thời kỳ Tân vương quốc (1570-1069 TCN)
5. Thời kỳ Hậu vương quốc (1069-30 TCN)
B. Lịch sử hình thành nền văn minh Lưỡng Hà cổ đại……………………..……………...6
I. Đặc điểm Tự nhiên của Lưỡng Hà cổ đại
II. Đặc điểm Kinh tế của Lưỡng Hà cổ đại
III. Lịch sử Lưỡng Hà cổ đại
1. Vương quốc Cổ Babylon (1894-1595 TCN)
2. Vương quốc Tân Babylon (626-538 TCN)
C. Tài liệu tham khảo……………………………………………………………………….10
1
A. Lịch sử hình thành nền văn minh Ai Cập cổ đại
I. Đặc điểm Tự nhiên
Khi viết về vị trí địa lý của Ai Cập, Nguyễn Văn Ánh đã đánh giá “Ai Cập vừa là một ốc đảo
khép kín, lại vừa là một ngã tư mở ra thế giới bên ngồi.”.1 Chính vì Ai Cập nằm ở vùng
Đơng Bắc của châu Phi, dọc theo vùng hạ lưu của lưu vực sông Nile đồng thời lại được bao
bọc bởi sa mạc nên miền đất này giống như một ốc đảo khép kín. Tuy nhiên, Ai Cập cũng như
một ngã tư mở ra thế giới bên ngồi khi phía Bắc là Địa Trung Hải có thể dẫn tới Tây Âu,
phía Đơng giáp Biển Đỏ xi xuống phía Nam thì qua vịnh Aden tới Tây Ấn, phía Tây giáp
sa mạc Sahara, phía Nam giáp Nubi và nối liền với bán đảo Ả Rập. Vị trí địa lý này tạo điều
kiện thuận lợi cho sự phát triển của một nền văn minh Ai Cập cổ đại với những đặc điểm
riêng biệt và độc đáo, nhưng vì thiếu đi thiên nhiên che chở, Ai Cập trong lịch sử cũng đã
nhiều lần bị xâm lược bởi các thế lực bên ngồi.
Về địa hình, Ai Cập được ghép lại bởi hai khu vực lớn là Thượng Ai Cập và Hạ Ai Cập.
Ở miền Nam, Thượng Ai Cập là khu vực có địa hình cao, nhiều núi non và cũng là thượng
nguồn của sông Nile, nên thuyền bè có thể đi lại từ Thượng Ai Cập xuống Hạ Ai Cập nhờ vào
dịng chảy của sơng Nile. Bao quanh Thượng Ai Cập là sa mạc, cùng với địa hình núi non
hiểm trở chắn gió đã tạo nên một khí hậu khắc nghiệt tại khu vực này. Ở miền Bắc, Hạ Ai Cập
lại là khu vực đồng bằng được bồi đắp phù sa từ sông Nile và những nháy nhỏ của nó nên khu
vực này đón nhận thời tiết dễ chịu hơn. Đặc biệt, vùng châu thổ sông Nile - nơi sông Nile mở
rộng thành những nhánh nhỏ đổ ra Địa Trung Hải có mưa nhiều hơn bởi vị trí gần biển của
nó. Nhà sử học Hy Lạp Hêrơđốt nói rằng: “Ai Cập là tặng phẩm của sông Nin” bởi hằng năm
từ tháng 7 đến tháng 11, nước sông Nin dâng cao đã bồi đắp một lượng phù sa phong phú cho
vùng đồng bằng hai bên giúp cho nền kinh tế Ai Cập cổ đại có thể phát triển sớm thông qua
nông nghiệp.
Về tài nguyên thiên nhiên, Ai Cập đã biết tận dụng loài cây papyrus thân xơ để sử dụng làm
giấy. Khác với Lưỡng Hà, Ai Cập có tương đối nhiều kim loại, đá, đồng, tạo điều kiện cho thủ
công nghiệp phát triển rực rỡ và các công cụ lao động cho nền kinh tế nơng nghiệp có thể
được tạo ra dễ dàng với số lượng lớn. Tuy nhiên, Ai Cập cổ đại phải đưa sắt từ bên ngoài vào
để sử dụng nên công cụ lao động phổ biến hơn cả tại đây được làm bằng đồng.
II. Đặc điểm Kinh tế - Xã hội
Chính vì sơng Nile chảy dọc theo lãnh thổ Ai Cập nên sơng Nile đóng vai trò là xương sống
của nền kinh tế tự nhiên, và là yếu tố tự nhiên to lớn tạo nên nền văn minh nông nghiệp rực
rỡ tại Ai Cập. Đồng thời, người dân cũng ý thức được giá trị to lớn của “tặng phẩm” sông
Nile nên đã thực hiện những cải cách mang tính bước ngoặt trong lĩnh vực trồng trọt chính là
sự ra đời của hệ thống thủy lợi, nhằm tạo ra những kênh đào dẫn nước vào khu vực gieo trồng
1
Nguyễn Văn Ánh, Lịch sử Văn minh Thế giới (Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam):7.
2
để điều tiết lượng nước dâng cao từ sông Nile. Sự dư thừa sản phẩm nông nghiệp cũng xuất
phát từ nền kinh tế phát triển này, cùng với sự chiếm hữu cá nhân đã khiến giai cấp xuất hiện
trong lòng xã hội Ai Cập. Sự phụ thuộc của giai cấp nghèo khó vào giai cấp quyền lực và giàu
có hơn đã phá vỡ chế độ thị tộc vốn công hữu về tài sản. Từ đây, xã hội cộng sản nguyên thủy
cùng làm cùng hưởng đã tan rã và được thay thế bởi cơng xã nơng thơn.
Ngồi sự phát triển rực rỡ của nông nghiệp, người Ai Cập cũng chú trọng vào việc chăn nuôi,
nghề thủ công, săn bắn để phục vụ cho nhu cầu đời sống. Với nhu cầu bổ sung thêm thức ăn
hàng ngày như thịt, cá, sữa, cũng như cung cấp sức lao động, người Ai Cập đã đẩy mạnh việc
chăn nuôi, đánh bắt và thuần dưỡng dã thú.
Dưới sự địi hỏi của các cơng trình thủy lợi, cải thiện sức sản xuất trong nông nghiệp, Ai Cập
đã hình thành các “nome”, được hiểu như liên minh các công xã nông thôn cùng hợp tác trong
nông nghiệp. Sự gắn liền về lợi ích kinh tế đã tạo ra các nome, và sau đó mỗi nome lại hình
thành những bộ máy chính quyền, quân đội và hệ thống tài chính riêng, mang một hình thái
nhà nước sơ khai tại Ai Cập. Sự lớn mạnh của các nome đề ra những yêu cầu về của cải và lợi
ích lớn hơn quy mơ cũ, từ đó những xung đột về lợi ích, phân chia lãnh thổ, sức ảnh hưởng
giữa các nome đã khơi mào chiến tranh trong lòng Ai Cập. Các “nome” ở miền Nam đã hợp
thành Thượng Ai Cập để cùng đấu tranh với liên minh các “nome” ở khu vực Hạ Ai Cập.
Chiến tranh diễn ra liên tục cho đến năm 3200 TCN, vua Menes - người lãnh đạo các nome ở
Thượng Ai Cập đã đánh bại Hạ Ai Cập và thành lập vương triều đầu tiên.
Ai Cập cổ đại đã phát triển trở thành một nhà nước quân chủ chuyên chế điển hình, nơi vua
hay Pharaoh nắm giữ quyền lực tối cao nhất. Tuy nhiên, nhà nước Ai Cập có vương quyền
gắn liền chặt chẽ với thần quyền bởi Ai Cập là nền văn minh phụ thuộc vào tự nhiên nên nhân
dân rất tôn thờ các vị thần tự nhiên. Trong số các vị thần đó, thần Ra (thần Mặt trời) là người
có quyền năng cao cả hơn sông Nile. “Sông Nile buộc con người phải chung sức đồng lịng.
Mặt trời cho họ biết chỉ có 1 thế lực duy nhất thống trị cả thế giới.”2 Pharaoh đã duy trì quyền
lực tột đỉnh của mình bằng cách tự cho mình là người khiến Mặt trời mọc mỗi ngày và là
người giải thích những ý nghĩa thần thánh của thiên nhiên. Bởi vậy, luật lệ đã không được
soạn thời trong suốt thời gian tồn tại của Ai Cập cổ đại và chỉ có những lời nói của Pharaoh
mới là kim chỉ nam cho công lý, được soạn thành thông lệ cho nhân dân.
III. Lịch sử Ai Cập cổ đại
1. Thời kỳ Tảo vương quốc (3150-2613 TCN)
Eugen Weber, “Văn minh phương Tây: Ai Cập cổ đại.”, biên tập bởi Lê Quỳnh Ba, Nghiên
cứu Lịch sử, ngày 27/03/2017,
/>6AsR01IQABHNGqzVFZUDqGDh0jed_sffaa_CsF8wCpmw
2
3
Sau một thời kỳ dài xảy ra những giao tranh giữa Thượng Ai Cập và Hạ Ai Cập, Menes đã
chinh phục Hạ Ai Cập và thống nhất dưới vương triều đầu tiên của lịch sử Ai Cập cổ đại. Tảo
kỳ đã mở ra một thời kỳ cai trị dưới 2 vương triều I và II.
Ban đầu, Menes đã chọn Thebes tại Thượng Ai Cập làm kinh đô của vương quốc nhưng sau
đó lại dời đơ về Memphis ở khu vực Hạ Ai Cập. Sự thống nhất hai khu vực luôn xung đột này
của Ai Cập đã tạo điều kiện để người dân chăm chú và nâng cao năng lực sản xuất trong nông
nghiệp và chăn nuôi. Tuy nhiên, sự đấu tranh của người dân Hạ Ai Cập vẫn còn và âm ỉ trong
suốt thời gian trị vì của các vị vua dưới thời kỳ Tảo Vương quốc, bởi vậy chiến tranh vẫn
thường xuyên xảy ra trong suốt sự tồn tại của vương quốc này.
2. Thời kỳ Cổ vương quốc (2613-2181 TCN)
Thời kỳ Cổ Vương quốc là một triều đại được hoàn thiện nhiều hơn so với Tảo kỳ bởi lúc này,
bộ máy nhà nước đã được xác lập rõ ràng hơn và Ai Cập hoàn thiện trở thành một quốc gia
quân chủ chuyên chế. Vương quốc trải qua 8 vương triều, từ vương triều III đến vương triều
X.
Mặc dù trong thời kỳ Tảo vương quốc, quyền lực của Pharaon là rất lớn nhưng đến giai đoạn
này, quyền lực của vua trong nhà nước chuyên chế đã được nâng lên vô hạn. Do nền văn minh
Ai Cập là nền văn minh phụ thuộc vào tự nhiên nên tất cả nhân dân đều tuyệt đối tôn thờ các
vị thần thiên nhiên và Pharaon chính là hiện thân của một người nửa vua nửa thần. Chính vì
vương quyền của Pharaon gắn kết chặt chẽ với thần quyền, luật lệ không tồn tại trong suốt
nền văn minh Ai Cập cổ đại mà những lời nói của vua trở thành thơng lệ trong đời sống của
nhân dân.
Thời kỳ này bắt đầu có bộ máy quan lại hoàn chỉnh hơn và lực lượng quân đội tự vệ để giúp
vua Ai Cập quản lý các công việc hành chính, cơng cộng, thủy lợi, xây dựng,... Nhờ năng lực
sản xuất nâng cao bởi sự cải tiến các công cụ lao động, nền nông nghiệp dưới thời kỳ này đã
phát triển thịnh đạt khiến các cơng trình thủy lợi được nhà vua đầu tư và chú ý. Chính bởi
những thành tựu ổn định và rực rỡ trong các khía cạnh kinh tế, xã hội, các Pharaon đã cho xây
dựng rất nhiều cơng trình xây dựng hồnh tráng, đánh dấu một bước tiến vượt bậc của nghệ
thuật Ai Cập cổ đại như Tượng Nhân sư lớn ở Giza, Kim tự tháp Khufu, Kim tự tháp
Khafre,...
Từ vương triều III, Ai Cập xuất hiện những nome, các khu vực địa phương trong lòng lãnh
thổ Ai Cập và đến vương triều VI, các nome dần trở thành khu vực tự trị dưới quyền các
nomarch hay còn là thống đốc khu vực. Quyền lực của Pharaoh lúc này suy yếu đã mở ra một
thời kỳ xã hội Ai Cập chia cắt, hỗn loạn bởi những xung đột giữa các thế lực địa phương.
3. Thời kỳ Trung vương quốc (2181-1570 TCN)
4
Sau khi vương triều X sụp đổ bởi sự xung đột giữa các thế lực địa phương, Ai Cập lúc này bị
chia cắt thành hai trung tâm quyền lực chính lần lượt nằm ở Hierakonpolis (Hạ Ai Cập) và
Thebes (Thượng Ai Cập). Hai bên tiếp tục đánh nhau liên miên để tranh giành sức ảnh hưởng
và khu vực lãnh thổ. Đến năm 2040 TCN, vua của Theban Mentuhotep II đã thành công chinh
phục được Hạ Ai Cập và một lần nữa thống nhất Ai Cập dưới chính quyền Thebes, mở ra một
thời kỳ mới là Trung vương quốc. Trung vương quốc bao gồm 7 vương triều, kéo dài từ
vương triều XI đến vương triều XVII.
Dưới sự cai trị mạnh mẽ của vương triều XII, nhà nước Ai Cập phát triển rực rỡ và thủ đô
Thebes trở thành một kinh đô trù phú và vơ cùng giàu có. Tuy nhiên, dưới vương triều XIII,
Ai Cập trở nên lục đục và yếu thế hơn đã là cơ hội tốt cho bộ tộc ngoại bang Hyksos tràn sang
chiếm lấy các khu vực Hạ Ai Cập. Đến năm 1782 TCN, Hyksos chính thức chiếm đóng Ai
Cập và mở ra thời kỳ chuyển giao giữa Trung vương quốc và Tân vương quốc.
4. Thời kỳ Tân vương quốc (1570-1069 TCN)
Sau khoảng một thế kỷ bị cai trị bởi ngoại bang Hyksos, vua Ahmose I đã thành công đẩy lùi
quân Hyksos ra khỏi lãnh thổ Ai Cập và thống nhất Ai Cập dưới triều đại mới mang tên Tân
vương quốc. Thời kỳ Tân vương quốc kéo dài qua 3 vương triều, từ vương triều XVIII đến
vương triều XX. Nhờ sự thống nhất của vua Ahmose, Ai Cập đã có một khoảng thời gian ổn
định để phát triển toàn diện và rực rỡ.
Thời kỳ này chứng kiến sự phát triển tột bậc của các giáo phái sùng bái các vị thần linh như
thần Amun, Osiris, Isis, và Hathor, trong đó giáo phái thờ thần Amun được coi là quyền lực
nhất. Nhận ra sự bành trướng quyền lực của các tăng lữ và thế lực tôn giáo, vua Amenhotep
IV đã ban ra hàng loạt cải cách để hạn chế quyền lực tăng lữ và bắt nhân dân Ai Cập quy
phụng một vị thần duy nhất nhà vua tôn sùng là thần Aten.
Tuy nhiên, con trai vua Amenhotep IV - Tutankhamun sau khi lên ngôi đã gỡ bỏ hàng loạt sự
cấm đốn của cha mình và đưa Ai Cập trở lại sự tự do tôn giáo như ngày trước. Ai Cập liên
tục phát triển và lên đến đỉnh cao của thời kỳ này dưới sự trị vì của vua Ramesses II, cũng là
vị vua trị vì dài nhất và sống thọ đến 96 tuổi. Dưới sự thịnh vượng của xã hội, thế lực tăng lữ,
đặc biệt là giáo phái Amun dần dần trở nên vơ cùng giàu có và chiếm được nhiều lãnh thổ Ai
Cập, đòi hỏi một quyền lực tương đương Pharaoh. Đến đời vua Ramesses XI (1107-1077
TCN) - vị vua cuối cùng của vương triều XX, nhà nước Ai Cập rệu rã và sụp đổ vì những bất
ổn nội bộ gây ra bởi thế lực tăng lữ. Một tăng lữ thuộc đền thờ Amun đã thành công lập nên
vương triều XXI, kết thúc thời kỳ Tân vương quốc.
5. Thời kỳ Hậu vương quốc (1069-30 TCN)
5
Hậu vương quốc bao gồm 11 vương triều, khởi đầu từ vương triều XXI đến vương triều
XXXI. Ai Cập của thời kỳ này suy yếu rõ rệt về quyền lực và sức mạnh nên đất nước bị phân
tán nhiều bởi các thế lực địa phương.
Lịch sử sau đó của Ai Cập là những triều đại liên tiếp thay thế nhau được cai trị bởi các thế
lực ngoại bang. Ai Cập nằm dưới sự cai trị của vương triều Libya suốt hơn 200 năm (thế kỉ Xthế kỉ VIII TCN), sau đó bị thống trị bởi vương triều Nubi (thế kỉ VIII- thế kỉ VII TCN). Sau
đó, Ai Cập lại tiếp tục bị đô hộ bởi hai đế quốc là Assyria và Achaemenes. Sự đơ hộ duy trì
đến năm 332 TCN thì chính thức chấm dứt bởi sự chinh phục của Đại đế Alexander. Sau cái
chết của Alexander, thuộc tướng của ông đã thành lập vương triều Ptolemaic (323-30 TCN) ở
Ai Cập. Năm 30 TCN, Ai Cập bị Đế quốc La Mã xâm lược và chính thức trở thành một phần
lãnh thổ của La Mã, đặt dấu chấm hết cho lịch sử Ai Cập cổ đại.
B. Lịch sử hình thành nền văn minh Lưỡng Hà cổ đại
I. Đặc điểm Tự nhiên
Lưỡng Hà, là một vùng đất bằng phẳng, nơi có 2 con sông Tigris và Euphrates cùng chảy qua
và bồi đắp phù sa. Sơng Tigris nằm ở phía Đơng Lưỡng Hà cịn sơng Euphrates nằm ở phía
Tây và cùng đổ ra vịnh Ba Tư. Bởi vậy, khu vực Lưỡng Hà trải dài từ vịnh Ba Tư đến bờ
đông Địa Trung Hải. Lưỡng Hà nằm ở Tây Á, là một vùng đất bằng phẳng, khơng có thiên
nhiên che trở, lại lọt thỏm giữa xung quanh là các cao nguyên, sơn nguyên, hoang mạc nên
thường xuyên bị ngoại tộc, du mục ở vùng cao xâm nhập, phá hoại và thơn tính đất đai.
Lưỡng Hà có ba khu vực lớn là miền Bắc, Trung và Nam. Miền Bắc có tên gọi là Assur, là
khu vực có diện tích được bao bọc bởi hai con sơng lớn nhất vì Tigris và Euphrates cách nhau
khoảng 300-400km. Miền Trung hay còn gọi là vùng Akkad là nơi hai con sơng gần nhau
nhất, cịn miền Nam Lưỡng Hà có tộc người Sumer khai phá và làm chủ đất đai nên được gọi
là vùng Sumer. Vì sự khác biệt về địa lý giữa các miền nên khí hậu ở các vùng của Lưỡng Hà
cổ đại cũng có sự khác nhau.
Hai con sông Tigris và Euphrates đều bắt nguồn từ các vùng núi ở phía Bắc Lưỡng Hà và
chảy theo dịng xuống phía Nam để đổ ra biển. Hằng năm, hai con sông dâng nước theo chu
kỳ từ tháng 3 đến tháng 9, đã bồi đắp lượng phù sa màu mỡ cho những vùng lưu vực. Lưỡng
Hà cổ đại đã dựa nhiều vào nước mưa và thủy lợi đến từ 2 con sông để sinh sống và phát triển
nền văn minh nơng nghiệp rực rỡ của mình.
Về tài ngun thiên nhiên, tuy Lưỡng Hà được hưởng một vùng đất đai phì nhiêu, trù phú cho
nơng nghiệp nhưng khơng phong phú tài ngun như đồng và đá. Chính vì khơng có nhiều
đồng, đá giống như Ai Cập, các công cụ lao động của Lưỡng Hà thô sơ hơn rất nhiều. Nguyên
liệu quan trọng nhất và phổ biến về số lượng của Lưỡng Hà là loại đất sét dính có thể tìm thấy
ở lưu vực nhiều phù sa. Loại đất sét này được người dân Lưỡng Hà tận dụng để làm đồ gốm
6
hoặc làm gạch, và nhanh chóng phát triển thành một loại nguyên liệu thay thế cho lượng
đồng, đá nghèo nàn.
II. Điều kiện Kinh tế
Trước khi tồn tại hình thức nhà nước tại Lưỡng Hà, trồng trọt, chăn nuôi cùng với săn bắt và
đánh cá là những hoạt động kinh tế mưu sinh của người dân thuộc vùng lưu vực. Sau đó, nhờ
những yếu tố thuận lợi của tự nhiên, nơng nghiệp và chăn nuôi đã được chú ý hơn cả và trở
thành yếu tố kinh tế mang tính quyết định tại Lưỡng Hà.
Dựa vào lượng phù sa lớn của 2 sông bồi đắp và lượng nước từ cả sông lẫn tuyết tan từ các
đỉnh núi cao, Lưỡng Hà cổ đại lấy sản xuất nông nghiệp như trồng trọt và chăn nuôi làm bộ
phận kinh tế căn bản của đất nước. Người Lưỡng Hà biết trồng các loại ngũ cốc, như đại
mạch, tiểu mạch và lúa dura cũng như biết phát triển thâm canh trong các nghề trồng vườn
cây, trồng rau. Vì Lưỡng Hà khơng có sẵn nguồn tài ngun lớn về đồng và đá nên công cụ
lao động trong nông nghiệp cịn khá thơ sơ, phải đến cuối thế kỉ IV TCN, người Lưỡng Hà
mới bắt đầu sử dụng các công cụ bằng đồng.
Thủ công nghiệp ở Lưỡng Hà cổ đại cũng khá phát triển, có nhiều ngành nghề như dệt, làm
gạch, chế tạo đồ da, rèn, chế tạo thuyền bè,... và nhiều sản phẩm của thời kỳ này thể hiện
được trình độ cao của các thợ thủ cơng như trang sức bằng vàng, ngà, các đồ bằng đá quý,
các ống chạm,... Do việc thiếu thốn nhiều nguyên liệu không sẵn có trong tự nhiên, người dân
Lưỡng Hà đã sử dụng các sản phẩm sản xuất được để trao đổi với các khu vực khác, ngoại
thương từ đó sớm phát triển. Hai trung tâm thương nghiệp ra đời sớm nhất và lớn mạnh nhất
từ thời cổ đại là thành Babylon và Xipparơ.
III. Lịch sử Lưỡng Hà cổ đại
Lịch sử Lưỡng Hà thực sự được chú ý nhiều nhất dưới triều vua nổi tiếng nhất của họ - vua
Hammurabi (1792-1750 TCN), người đã đưa vương quốc Cổ Babylon hùng mạnh. Tuy nhiên,
trước khi có vương quốc Cổ Babylon thì khu vực Lưỡng Hà gắn liền với những xung đột bạo
lực vì khu vực này lần lượt bị thống trị bởi các thế lực khác nhau như quốc gia Sumer, Akkad
và vương quốc Ur. Đến cuối thời kỳ cai trị của vương quốc Ur, tộc người ngoại bang Amorit
đã thành công chiếm đóng Lưỡng Hà và tạo nên vương quốc Cổ Babylon.
1. Lưỡng Hà thời Cổ Babylon (1894-1595 TCN)
Vương quốc Cổ Babylon nổi tiếng nhất với sự trị vì của vua Hammurabi, người con trai đã kế
vị cha mình là vua Sin-Muballit. Sau khi lên ngôi, ông thực hiện hàng loạt cải cách chính trị,
quân sự để mở rộng lãnh thổ đất nước và thống nhất Lưỡng Hà vào năm 1755 TCN. Để phát
triển kinh tế nước nhà, các cơng trình thủy lợi đặc biệt được chú ý khi vua Hammurabi đã
cho đào con sơng lớn mang chính tên ơng để phục vụ tưới tiêu cho vùng Nam và Trung
7
Lưỡng Hà. Và một thành tựu nổi bật nữa chính là bộ luật Hammurabi vô cùng tiến bộ đã giúp
cải cách xã hội và thiết lập trật tự ổn định cho Babylon.
Vương quốc Cổ Babylon trở nên rất vĩ đại dưới sự trị vì của ơng nhưng bắt đầu suy yếu sau
cái chết của Hammurabi. Các thế lực địa phương và thế lực ngoại bang đã tranh thủ cơ hội để
xâu xé Lưỡng Hà, bởi vậy Lưỡng Hà bị phân chia thành các khu vực tách biệt và đối kháng
lẫn nhau. Sau khi tộc người Kassites chính thức chiếm đóng thành Babylon, lịch sử của vương
quốc Cổ Babylon kết thúc và khởi đầu triều đại mới mang tên Tân Babylon.
2. Lưỡng Hà thời Tân Babylon (626-538 TCN)
Sau 500 năm tộc người Kassites đô hộ Lưỡng Hà, người Assyria dưới sự lãnh đạo của vua
Sennacherib đã thành công đánh đuổi và thiết lập sự thống trị tại Babylon. Vua Assyria đã phá
hoại nhiều cơng trình của Lưỡng Hà cũng như áp dụng những hình pháp cực đoan với dân
chúng như tịa án Sennacherib nên rất nhiều sự phản kháng từ dân chúng nổi lên dưới sự cai
trị của thế lực mới này. Nhân sự rệu rã của đế chế Assyria, năm 630 TCN, Nabopolassar đã
thành công tiêu diệt quân Assyria và chính thức khai lập vương quốc mới - Tân Babylon.
Vương quốc Tân Babylon đã mở ra một thời kỳ hoàng kim cho Lưỡng Hà phát triển rực rỡ về
kinh tế và văn hóa, thậm chí để lại nhiều di sản kiến trúc ấn tượng nhất trong lịch sử Lưỡng
Hà. Trong thời gian ngắn, Tân Babylon đã trở thành một đế quốc hùng cường ở khu vực Tây
Á và khởi xướng những cuộc xâm lược của mình dưới thời vua Nebuchadnezzar II. Sau cái
chết của vua Nebuchadnezzar II, nhà nước Babylon vẫn duy trì được vai trị của mình nhưng
đã xuất hiện những suy yếu đáng kể.
Năm 538 TCN, Tân Babylon chính thức bị chinh phục bởi Cyrus Đại đế và sáp nhập vào lãnh
thổ đế chế Achaemenes. Dưới thời kỳ cai trị của đế chế Achaemenes này, thành phố Babylon
vẫn vô cùng được coi trọng đầu tư bởi ý nghĩa kinh tế và văn hóa của nó. Giai đoạn này,
Babylon đã phát triển mạnh mẽ như một trung tâm nghệ thuật và giáo dục của Tây Á3. Sau
thời kỳ cai trị của Achaemenes , Babylon đã khơng cịn khơi phục được nền độc lập của mình
và liên tiếp bị rơi vào vịng đơ hộ của các đế quốc khác.
Joshua J.Mark, “Babylon”, World History Encyclopedia, ngày 28/04/2011,
/>
3
8
C. Tài liệu tham khảo
Eugen Weber. “Văn minh phương Tây: Ai Cập cổ đại.” Biên tập bởi Lê Quỳnh Ba. Nghiên
cứu Lịch sử, ngày 27/03/2017.
/>DK4t_P6AsR01IQABHNGqzVFZUDqGDh0jed_sffaa_CsF8wCpmw.
Nguyễn Văn Ánh. Lịch sử Văn minh Thế giới. Hà Nội: Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam,
2020.
Joshua J.Mark. “Babylon.” World History Encyclopedia, ngày 28/04/2011.
/>Joshua J.Mark. “Ancient Egypt.” World History Encyclopedia, ngày 02/09/2009.
/>
9