PHÂN TÍCH PHƯƠNG THỨC THỰC HIỆN DỰ ÁN
“THIẾT KẾ - XÂY DỰNG” TRONG ĐIỀU KIỆN VIỆT NAM
ThS. Phạm Quang Thanh,
TS. Nguyễn Thế Quân,
Khoa Kinh tế và Quản lý Xây dựng, Đại học Xây dựng
Bài đăng ở Tạp chí Kinh tế Xây dựng, Bộ Xây dựng số 4/2014 (tháng 12/2014).
TÓM TẮT
Trên thế giới, phương thức thực hiện dự án “Thiết kế - Xây dựng” được sử dụng rộng
rãi không kém phương thức truyền thống “Thiết kế - Đấu thầu – Xây dựng”. Tuy
nhiên, ở Việt Nam phương thức Thiết kế - Xây dựng cũng chưa được quan tâm nhiều
và chấp nhận bởi đông đảo những người người làm nghề xây dựng. Bài viết đánh giá
việc áp dụng phương thức này trong ngành xây dựng Việt Nam thơng qua hai hình
thức hợp đồng EPC và EC, làm rõ các điều kiện thuận lợi và khó khăn của việc áp
dụng phương thức, từ đó chỉ ra một số rào cản và định hướng giải quyết các rào cản
này để thúc đẩy hơn nữa việc áp dụng phương thức Thiết kế - Xây dựng trong các dự
án phù hợp ở Việt Nam.
Từ khóa: Thiết kế - Xây dựng, Phương thức thực hiện dự án, hợp đồng EPC, hợp đồng
thiết kế - thi công (EC)
ABSTRACT
The project delivery method of “Design – Build” has been widely applied as the
traditional method of “Design – Bid – Build”. However, this method has not been
considered and applied by most of the practitioners in the construction industry in
Vietnam. This paper has reviewed the use of the method in Vietnam under the two
types of contract: EPC contract and EC contract. It then clarifies the positive and
negative issues of its application and articulates a number of barriers and solutions in
order to promote the use of this project delivery method in appropriate projects in
Vietnam.
Keyword: Design – Build, project delivery method, EPC contract, EC contract
1. GIỚI THIỆU
Phương thức thực hiện dự án, như được sử dụng trong bài báo này, được hiểu là
cách thức chủ đầu tư tổ chức thực hiện các hoạt động của dự án, từ huy động vốn, thực
hiện các hoạt động xây dựng và các hoạt động khác, trong đó chủ yếu là các hoạt động
thiết kế và thi công xây dựng. Chủ đầu tư có thể tự mình thực hiện các hoạt động của
dự án, hoặc có được tổ chức khác thực hiện các hoạt động này cho mình thông qua
1
phân cấp, ủy quyền và hợp đồng v.v… Trên thế giới hiện nay các chủ đầu tư đã và
đang sử dụng rất nhiều phương thức thực hiện dự án khác nhau để tiến hành các dự án
đầu tư xây dựng của mình. Trong số đó, ngồi phương thức truyền thống “Thiết kế Đấu thầu – Xây dựng”, phương thức “Thiết kế - Xây dựng” cũng là một phương thức
thực hiện dự án xây dựng phổ biến. Tuy nhiên, dù có rất nhiều ưu điểm và được áp
dụng rộng rãi trên thế giới, ở Việt Nam phương thức Thiết kế - Xây dựng cũng chưa
được quan tâm nhiều và chấp nhận bởi đông đảo những người làm nghề xây dựng. Bài
viết này trước tiên tóm tắt những nội dung chính của phương thức trên, sau đó đánh
giá thực trạng việc áp dụng và các điều kiện liên quan đến việc áp dụng phương thức
này trên cơ sở phân tích thực trạng quản lý đầu tư xây dựng Việt Nam. Từ đó, bài báo
đưa ra các đề xuất nhằm thúc đẩy hơn nữa việc áp dụng phương thức Thiết kế - Xây
dựng trong các dự án phù hợp ở Việt Nam.
2. NỘI DUNG CỦA PHƯƠNG THỨC “THIẾT KẾ - XÂY DỰNG”
Trong phương thức này, chủ đầu tư sẽ làm rõ các yêu cầu đặt ra cho dự án và
lựa chọn một nhà thầu duy nhất để ký kết hợp đồng, giao cho họ chịu trách nhiệm toàn
bộ cả việc thiết kế và xây dựng dự án. Hợp đồng giao thầu thường dựa trên thiết kế cơ
sở của dự án, tuy nhiên đôi lúc thiết kế cơ sở cũng là một phần của nhiệm vụ của nhà
thầu. Hình 1 thể hiện các bên có liên quan chính trong việc thực hiện dự án theo
phương thức này [1]. Theo thông lệ, chủ đầu tư có thể thành lập ban quản lý dự án
hoặc thuê tư vấn quản lý dự án/tư vấn quản lý xây dựng để giúp họ quản lý các công
việc do nhà thầu thiết kế - xây dựng thực hiện. Nhà thầu thiết kế - xây dựng có thể
thuê thầu phụ tư vấn và/hoặc thầu phụ thi công để gánh bớt một phần khối lượng công
việc giúp họ, tuy nhiên, họ vẫn phải chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động thiết kế và
xây dựng của dự án, kể cả phần việc do các nhà thầu phụ thực hiện. (Hình 1)
Hình 1. Sơ đồ thể hiện phương thức thực hiện dự án “Thiết kế - Xây dựng”
Theo thông lệ, phương thức này thường được so sánh với phương thức thực
hiện dự án truyền thống là “Thiết kế - Đấu thầu – Xây dựng” trong đó chủ đầu tư thuê
2
hai đơn vị riêng biệt thực hiện hai hoạt động xây dựng thiết kế và xây dựng. So sánh
với phương thức truyền thống này, phương thức thực hiện dự án Thiết kế - Xây dựng
có khá nhiều ưu điểm, tuy nhiên vẫn có một số nhược điểm.
Về ưu điểm, phương thức này có năm ưu điểm chính. Thứ nhất, nó có được sự
tập trung trách nhiệm trong việc thực hiện hai hoạt động xây dựng quan trọng và có
mối liên hệ chặt chẽ của dự án là thiết kế và xây dựng. Do chỉ có một đơn vị thực hiện
cả hai hoạt động này, nên các nội dung quản lý dự án tập trung về một mối, hạn chế
được việc đổ trách nhiệm và khiếu nại lẫn nhau giữa các nhà thầu thiết kế và xây
dựng. Thứ hai, phương thức này giúp rút ngắn thời gian vì việc thiết kế và xây dựng có
thể gối đầu nhau, bớt được một số thời gian dành cho việc lựa chọn nhà thầu, do đó
thời gian của tồn dự án có thể rút ngắn lại. Thứ ba, nó giúp tăng khả năng giảm khối
lượng cơng việc hành chính cho chủ đầu tư liên quan đến việc điều phối và phân xử
giữa đơn vị thiết kế và thi cơng, vì họ là một đơn vị duy nhất trong phương thức này.
Thứ tư, nó giúp giảm rủi ro cho chủ đầu tư vì tổ chức thực hiện các công tác thiết kế xây dựng sẽ quản lý rất nhiều rủi ro mà đáng lẽ chủ đầu tư phải gánh chịu. Thứ năm,
do là cùng nằm trong một tổ chức, nên phần thiết kế và xây dựng có thể phối hợp tốt
hơn, việc thực hiện các thay đổi thiết kế dễ dàng hơn, ngay cả trong quá trình xây
dựng [1, 2].
Về nhược điểm, phương thức này tồn tại một số nhược điểm liên quan đến chi
phí và rủi ro. Chủ đầu tư thường gặp khó khăn trong việc tính dự tốn chi phí cho dự
án khi lựa chọn nhà thầu do chưa có tài liệu thiết kế chi tiết, bởi việc thiết kế là một
nhiệm vụ của nhà thầu thiết kế - xây dựng. Cũng vì lý do trên, nhà thầu thiết kế - xây
dựng sẽ gặp rủi ro lớn trong việc đáp ứng yêu cầu của chủ đầu tư, vì chưa ước tính
được chính xác khối lượng thi công cần thực hiện. Để chia sẻ rủi ro với nhà thầu, chủ
đầu tư thường phải chấp nhận các khoản chi phí dự phịng do nhà thầu đưa ra, từ đó
dẫn đến chi phí cho dự án cao hơn. Cũng do đơn vị thiết kế và thi công thực ra là một,
đơn vị thiết kế thường đứng về phía nhà thầu thi cơng để tự bảo vệ mình, vì thế, chủ
đầu tư có thể sẽ phải đối mặt với việc trong quá trình thực hiện, nhà thầu thiết kế - xây
dựng có thể tìm cách giảm chất lượng, cơng năng sản phẩm để tiết kiệm chi phí thi
cơng dự án. Ngồi ra, do giao tồn bộ cả hai hoạt động cho nhà thầu, khả năng kiểm
soát của chủ đầu tư đối với dự án sẽ kém hơn so với phương thức “Thiết kế - Đấu thầu
– Xây dựng” [1, 2].
Các chuyên gia ở một số nước phát triển khuyến cáo rằng phương thức này nên
được cân nhắc sử dụng khi nhà thầu có các bí quyết cơng nghệ nhất định có thể cung
cấp kèm hợp đồng hoặc việc thiết kế bị ảnh hưởng lớn bởi công nghệ xây dựng [2].
3. ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG VÀ CÁC ĐIỀU KIỆN ÁP DỤNG PHƯƠNG
THỨC THIẾT KẾ - XÂY DỰNG Ở VIỆT NAM
3
Phương thức Thiết kế - Xây dựng thực ra cũng không phải là mới ở Việt Nam.
Với thị trường nhà ở riêng lẻ của dân cư, phương thức này đã được cha ông ta sử dụng
từ lâu. Do thường không có chun mơn xây dựng, mặt khác các cơng trình nhà cửa
dạng này cũng không phức tạp, nên các chủ gia đình thường sẽ th ln chủ thầu xây
dựng làm cả công việc thi công và thiết kế theo các mô tả của chủ đầu tư về các thông
số kiến trúc của ngôi nhà.
Trong thời kỳ bao cấp, do việc thiết kế thường được thực hiện bởi các Viện
chuyên môn, việc thi cơng lại do các xí nghiệp xây lắp thực hiện, nên phương thức này
khơng có cơ hội được sử dụng. Khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, do
những e ngại về tiêu cực xảy ra trong dự án đầu tư xây dựng, phương thức này cũng
không được sử dụng trong các dự án sử dụng vốn nhà nước. Tuy nhiên, nó vẫn được
sử dụng trong các dự án sử dụng vốn khác như vốn tư nhân, hoặc các dự án có vốn đầu
tư trực tiếp nước ngồi, ví dụ như các dự án nằm trong các khu công nghiệp, khu chế
xuất của các chủ đầu t Nht Bn, Hn Quc, i Loan v.v
Tổng thầu
LILAMA
Thi công
Thiết kế
Xây dựng
Xây dựng
(Huyndai
Engineering)
Hệ thống bốc
dỡ thân
(FLSmidth)
Hệ thống lò hơi
(Babcok&Wilcox
Beijing)
Các hạng mục
chính phần công
nghệ
Tổng Công ty
Bạch Đằng
(BĐCC)
Hệ thống xử lý Hệ thống sàn
Hệ thống
Tuabin - Máy trong xi (Tecpro phân phối
(ABB)
phát (Toshiba) Ashtech Ltd)
Tổng Công ty
sông Hồng
Hệ thống
nước làm mát
(Torisshima)
Tổng công ty
xây lắp dầu khí
PVC
Công nghệ
(Nhà cung cấp
thiết bị thực
hiện giám sát
lắp đặt hạng
mục thiết bị)
Hệ thống xử lý
nước (Boustead
Salcon)
Hỡnh 2. Sơ đồ tổ chức thực hiện dự án của dự án Nhà máy Nhiệt điện Vũng Áng 1 theo
phương thức “Thiết kế - Xây dựng”. Nguồn: [3]
Phương thức thực hiện dự án này được chính thức cho phép sử dụng trong các
quy định pháp luật về đầu tư xây dựng ở Việt Nam với hình thức hợp đồng EPC (Thiết
kế - Mua sắm – Xây dựng). Hoạt động mua sắm trong hợp đồng này thường được định
nghĩa là “cung cấp thiết bị cơng nghệ”, tuy nhiên cũng có một số tác giả cho rằng bao
gồm cả việc cung cấp vật tư, thiết bị cho dự án. Từ năm 1996 – 1997, dự án Nhà máy
Nhiệt điện Phả Lại 2 được thực hiện thông qua hợp đồng loại này, sử dụng vốn vay
của Chính phủ Nhật Bản thơng qua Ngân hàng Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JBIC). Sau
đó, các dự án Nhà máy Nhiệt điện Ơ Mơn 1 (Tổ máy số 1), Thủy điện Na Hang, Nhiệt
điện ng Bí mở rộng 1 lần lượt triển khai từ năm 2000, 2002 cũng sử dụng hình thức
hợp đồng này [4], mới đây là Dự án Nhà máy Nhiệt điện Vũng Áng 1 (xem Hình 2). Ở
4
Việt Nam chưa có con số thống kê đầy đủ về việc áp dụng hình thức EPC nhưng theo
một số tác giả, đã có rất nhiều cơng trình áp dụng hình thức hợp đồng này, tức là sử
dụng phương thức thực hiện dự án “Thiết kế - Xây dựng” và chủ yếu tập trung ở các
dự án thượng nguồn thuộc các ngành điện, khai khống, dầu khí luyện kim, hóa chất
[4], với hình thức chỉ định thầu là chủ yếu. Có thể nói, các dự án áp dụng phương thức
thực hiện dự án này thông qua hợp đồng EPC đều có yếu tố nước ngồi, hoặc về vốn,
hoặc về cơng nghệ, hoặc trên nhiều khía cạnh. Thực tế ở Việt Nam cũng phù hợp với
thông lệ quốc tế, hợp đồng xây dựng EPC có xu hướng là hợp đồng trọn gói, tức là giá
trị thanh tốn khi kết thúc hợp đồng là không đổi so với khi ký kết hợp đồng, ngoại trừ
các phần việc phát sinh nằm ngoài phạm vi dự án đã thống nhất.
Khi lựa chọn nhà tổng thầu EPC trong các dự án có yếu tố tư vấn nước ngoài
như dự án Nhà máy Nhiệt điện Vũng Áng 1 nói trên, căn cứ để lựa chọn khơng phải là
thiết kế cơ sở, mà là thiết kế FEED (Front-End Engineering Design) – được mô tả là
thiết kế chi tiết hơn thiết kế cơ sở, nhưng lại chưa chi tiết bằng thiết kế kỹ thuật theo
cách hiểu của Việt Nam. Nhà tổng thầu khi ấy sẽ dựa trên thiết kế FEED này để thiết
kế triển khai chi tiết, và sẽ khơng có bước thiết kế kỹ thuật được thực hiện. Đó chính là
lý do nhiều người quan niệm rằng thiết kế FEED này thực ra chính là thiết kế kỹ thuật
[5]. Tuy nhiên, cách thực hiện dự án này lại tương tự như một biến thể của phương
thức thực hiện dự án phổ biến ở Canada và Mỹ, gọi là phương thức “Tài liệu và xây
dựng” (Documents and Construct) trong đó dự án cũng sử dụng một (hoặc hai) nhà
thầu tư vấn thiết kế để thực hiện hoạt động thiết kế trước và sau khi ký kết hợp đồng
với tổng thầu EPC [1] (xem Hình 3). Trong phương thức “Tài liệu và xây dựng” này,
chủ đầu tư thuê một đơn vị thiết kế chỉ để nhằm có được tài liệu lựa chọn tổng thầu
thiết kế - xây dựng và chấm dứt hợp đồng. Sau khi nhà tổng thầu được lựa chọn, lại có
hai cách tiếp cận khác nhau liên quan đến đơn vị tư vấn thiết kế. Ở Mỹ, một đơn vị
thiết kế khác sẽ được lựa chọn để ký kết hợp đồng với tổng thầu để triển khai tiếp hoạt
động thiết kế. Ở các nước khác như Canada, chính đơn vị thiết kế đã ký hợp đồng với
chủ đầu tư sẽ tiếp tục việc thiết kế, tuy nhiên, dưới một hợp đồng ký kết với tổng thầu.
(Hình 3)
5
Hình 3. Phương thức thực hiện dự án “Tài liệu và xây dựng”, một biến thể của phương
thức “Thiết kế - Xây dựng”. Nguồn: [1]
Luật Xây dựng 2003 và một số Nghị định giải thích như Nghị định
85/2009/NĐ-CP, Nghị định 48/2010/NĐ-CP đã đưa thêm một hình thức hợp đồng
khác tương ứng với phương thức thực hiện dự án “Thiết kế - Xây dựng”, đó là hợp
đồng tổng thầu thiết kế - thi công (EC). Trong hợp đồng này, việc cung cấp thiết bị
cơng nghệ có thể được chủ đầu tư tách ra thành một gói thầu riêng, cũng có thể coi là
đi kèm với hoạt động xây dựng, nhưng vì tính chất khơng quan trọng một cách tương
đối so với hoạt động thi công xây lắp nên người ta không coi là hợp đồng EPC. Tuy
nhiên, vì nhiều lý do, trong đó có lý do là chủ đầu tư khơng có căn cứ để xác định
được chi phí cho dự án khi lựa chọn nhà thầu cho cả hai phần việc thiết kế và xây
dựng, do khơng có các hướng dẫn cụ thể, nên việc áp dụng hình thức hợp đồng này
trong thực tế hầu như chỉ hạn chế trong các dự án sử dụng vốn nước ngoài hoặc vốn tư
nhân nhưng có quy mơ nhỏ, do các đơn vị thực hiện các dự án có nguồn vốn nhà nước
có tâm lý “sợ làm không đúng quy định pháp luật”. Đối với các dự án sử dụng vốn
nước ngoài, cũng thường có tình trạng là đơn vị tổng thầu thực chất không trực tiếp thi
công mà chỉ quản lý các nhà thầu phụ thi cơng xây lắp tồn bộ cơng trình. Ví dụ các
cơng ty xây dựng nước ngồi đến Việt Nam, được trúng thầu làm thầu chính nhiều dự
án lớn như Deawoo, Samsung (Korea) Transfield, Leighton (Australia) Taisei, Nippon
(Japan)… đều thuê thầu phụ Việt Nam thực hiện dự án, bản thân các cơng ty nước
ngồi đó chỉ thàn lập bộ máy làm công tác quản lý điều hành. Căn cứ hợp đồng ký kết
với chủ đầu tư, nhà thầu chính tổ chức thuê thiết kế, chọn các thầu phụ xây lắp và cung
cấp thiết bị cơng trình, sau đó họ điều hành các thầu phụ triển khai thực hiện dự án [4].
Ở một số dự án, lực lượng của tổng thầu/nhà thầu chính cịn có thể phải phụ trách cả
hoạt động vẽ triển khai (shop drawings) để chỉ dẫn nhà thầu phụ thực hiện hoạt động
xây lắp. Như vậy, tuy mang danh là nhà tổng thầu/thầu chính nhưng thực tế họ hoạt
động như một tư vấn quản lý dự án trong giai đoạn xây dựng [4]. Ở các dự án có
nguồn vốn nhà nước, việc tổng thầu/thầu chính giao tồn bộ cơng việc cho nhà thầu
6
phụ như vậy là không được phép do các quy định về quản lý dự án và cụ thể hơn là
quy định về quản lý chi phí và chất lượng cơng trình, do đó các đơn vị tổng thầu bắt
buộc phải có lực lượng thực hiện dự án mới được tham gia vào các dự án theo hình
thức hợp đồng này.
Tuy nhiên, môi trường ngành xây dựng ngày càng trở nên thuận lợi cho việc áp
dụng rộng rãi phương thức thực hiện dự án này ở Việt Nam. Thứ nhất là việc thừa
nhận một cách chính thức phương thức thực hiện dự án này thông qua việc giới thiệu
và áp dụng các loại hợp đồng tổng thầu EPC và EC như nói ở trên. Tiếp theo là các
quy định thơng thoáng của các pháp luật về doanh nghiệp, cho phép các doanh nghiệp
được thực hiện nhiều hơn một hoạt động kinh doanh. Trước kia, ở Việt Nam, các Tổng
công ty xây dựng lớn thường có quy hoạch về hoạt động cho các đơn vị thành viên,
phân công mỗi đơn vị thành viên tập trung vào một mảng hoạt động, vì thế các đơn vị
có cả hai chun mơn về thiết kế và xây dựng đồng thời khơng có nhiều. Trong cơ chế
thị trường hiện nay, xu thế phụ thuộc vào các tổng công ty của các công ty thành viên
giảm dần, vì thế họ cũng phát triển thêm nhiều hoạt động chun mơn, từ đó có rất
nhiều cơng ty thi cơng xây lắp, vốn đã có năng lực thực hiện hoạt động xây dựng, mở
rộng thêm hoạt động thiết kế. Xu thế này tạo ra một nguồn doanh nghiệp phù hợp với
phương thức thực hiện dự án “Thiết kế - Xây dựng”, vốn yêu cầu nhà tổng thầu phải
có đủ năng lực thực hiện cả hai hoạt động xây dựng trên.
Cấu trúc thị trường xây dựng thay đổi cũng tạo ra cơ hội cho việc sử dụng
phương thức thực hiện dự án “Thiết kế - Xây dựng”. Ngoài các dự án sử dụng vốn nhà
nước, vốn dĩ phải tuân thủ rất nhiều quy định chặt chẽ để đảm bảo quản lý nguồn vốn
một cách đúng đắn và hiệu quả, hiện trên thị trường có rất nhiều dự án xây dựng có
nguồn vốn nước ngồi, hoặc nguồn gốc nước ngồi cũng như các dự án lớn có nguồn
vốn tư nhân. Các chủ đầu tư loại này có thể khơng có năng lực xây dựng, vì thế, họ
thường tránh sử dụng phương thức truyền thống, với khối lượng công tác quản lý thực
hiện dự án rất lớn và tiềm ẩn nhiều bất định, rủi ro. Thay vào đó, họ tìm kiếm các đơn
vị họ có thể tin tưởng được để giúp họ thực hiện cả hai hoạt động thiết kế - xây dựng,
họ chỉ lo vấn đề cấp vốn cho dự án. Đó là mảnh đất màu mỡ cho các doanh nghiệp xây
dựng định hướng vào thị trường này phát triển.
Việc giới thiệu và quy định hợp đồng trọn gói là hợp đồng cơ bản trong các dự
án đầu tư xây dựng cơng trình, theo Luật Đấu thầu (2013) cũng có thể coi là một cơ
hội cho việc áp dụng phương thức thực hiện dự án “Thiết kế - Xây dựng”. Quy định
này địi hỏi phải có các hướng dẫn cụ thể hơn trong việc tính tốn giá hợp đồng trọn
gói khi lựa chọn nhà thầu, kể cả khi chưa có được thiết kế chi tiết. Các hướng dẫn này
sẽ giúp các đơn vị thực hiện dự án vượt qua được rào cản tâm lý “sợ làm không đúng
quy định pháp luật” để áp dụng phương thức thực hiện dự án này. Tuy nhiên, ngành
xây dựng Việt Nam hiện nay còn chưa có được các hướng dẫn đầy đủ và chi tiết cho
loại hợp đồng này để đưa vào thực hiện.
7
Việc cân nhắc phương thức thực hiện dự án “Thiết kế - Xây dựng” như là một
phương thức thay thế trong các dự án phù hợp cho phương thức “Thiết kế - Đấu thầu Xây dựng” là điều nên làm, kể cả trong các dự án sử dụng vốn nhà nước. Có rất nhiều
dự án sử dụng vốn nhà nước được giao cho các cơ quan cấp tỉnh, ủy ban nhân dân cấp
huyện hoặc các ban quản lý dự án do ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện thành lập
quản lý. Tuy nhiên, số dự án do ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện quản lý chỉ
chiếm khoảng 30% số dự án, 70% số dự án còn lại là giao cho ủy ban nhân dân cấp xã
và các đơn vị quản lý sử dụng cơng trình quản lý, ví dụ như trong các dự án trường
học, bệnh viện, cơ quan hành chính sự nghiệp… [6]. Đại đa số các đơn vị làm chủ đầu
tư thành lập các ban quản lý dự án, sử dụng bộ máy kiêm nhiệm để tổ chức quản lý dự
án, vì vậy tính chun môn của Ban Quản lý dự án thường không cao, thường phụ
thuộc vào nhà thầu tư vấn, dẫn đến cách làm không chuyên nghiệp và thiếu hiệu quả.
Kết quả là dễ làm nảy sinh tiêu cực, lãng phí, thất thốt về vốn, kiểm soát và quản lý
chất lượng xây dựng cơng trình lỏng lẻo... Việc giao cho một nhà thầu có đủ năng lực
thực hiện vừa thực hiện vừa quản lý thực hiện hai hoạt động quan trọng của quá trình
đầu tư xây dựng là thiết kế và thi cơng sẽ giúp khắc phục được những hạn chế này.
Mặt khác, việc áp dụng phương thức “Thiết kế - Xây dựng” có thể đem đến nhiều lợi
ích cho cả chủ đầu tư lẫn nhà thầu, nhà tư vấn; phát huy được đầy đủ vai trị, tính chủ
động và sáng tạo của các chủ thể tham gia quá trình thực hiện, nâng cao hiệu quả thực
hiện dự án. Với chủ đầu tư, việc áp dụng phương thức “Thiết kế - Xây dựng” cho phép
tận dụng được trình độ kỹ thuật và kinh nghiệm quản lý của nhà thầu khi thực hiện dự
án và trong q trình thực hiện, do chỉ có một đầu mối chịu trách nhiệm chính nên chủ
đầu tư cần đến ít nhân lực và chi phí cho cơng tác quản lý dự án hơn. Việc cung cấp tài
chính cho dự án cũng sẽ thuận lợi hơn do việc tạm ứng và thanh toán vốn chủ yếu theo
giai đoạn thực hiện hoặc theo cơng trình hoặc hạng mục cơng trình hoàn thành, tiến độ
thực hiện dự án cũng nhanh hơn. Một phần các rủi ro nếu xảy ra trong quá trình thiết
kế, cung ứng và xây dựng cơng trình cũng sẽ được phía nhà thầu chia sẻ. Đối với nhà
thầu, việc áp dụng phương thức “Thiết kế - Xây dựng” tạo điều kiện để nhà thầu chủ
động linh hoạt hơn trong việc điều phối, kiểm tra công việc trên hiện trường theo tiến
độ thực hiện hợp đồng mà không bị lệ thuộc nhiều vào sự kiểm tra giám sát thường
xuyên của chủ đầu tư cũng như thời gian tiến hành cơng tác nghiệm thu, qua đó giảm
được thời gian gián đoạn, tiết kiệm được một số khoản chi phí do việc kết hợp các
khâu cơng việc trong q trình thực hiện. Bên cạnh đó, phương thức nghiệm thu, thanh
tốn của hợp đồng EC hoặc EPC địi hỏi về phía nhà thầu phải tổ chức tốt hệ thống
quản lý chất lượng của mình để tự kiểm tra, giám sát và đánh giá chất lượng và tiến độ
thực hiện các công việc.
Tuy nhiên, việc áp dụng phương thức thực hiện dự án này vẫn còn nhiều rào
cản. Rào cản lớn nhất là về mặt tâm lý. Hiện nay các chủ đầu tư kể cả khu vực nhà
nước lẫn tư nhân đều đã quá quen thuộc sử dụng phương thức truyền thống là “Thiết
kế - Đấu thầu - Xây dựng”. Nên việc chuyển đổi sang một phương thức khác chưa
thực sự quen thuộc mang đến cho họ cảm giác rủi ro do chưa hiểu rõ bản chất của
8
phương thức. Mặt khác, nếu không sử dụng phương pháp chỉ định thầu mà phải đấu
thầu để lựa chọn nhà thầu, chủ đầu tư thường có tâm lý kém tin tưởng giao dự án cho
nhà thầu chưa quen thuộc, vì sợ họ chiếm được lợi thế nhiều hơn trong dự án, sợ nhà
thầu kém chất lượng sẽ gây rủi ro lớn cho dự án, cũng như sợ mất bớt quyền kiểm sốt
trong q trình thực hiện dự án so với phương thức “Thiết kế - Đấu thầu - Xây dựng”.
Tâm lý này cũng dễ hiểu, do thực tế ở Việt Nam việc chủ đầu tư chấm dứt hợp đồng
với các nhà thầu trong trường hợp không thực hiện đúng các nội dung trong hợp đồng
thường gặp nhiều khó khăn cả về khía cạnh pháp lý cũng như việc dứt điểm các hợp
đồng về khía cạnh thanh tốn các phần việc đã thực hiện. Nếu chọn nhiều nhà thầu
tham gia thực hiện, phần việc mỗi nhà thầu tham gia sẽ ít hơn, do đó, nếu có sự cố với
nhà thầu thì thiệt hại sẽ giảm hơn. Rào cản tiếp theo là về trình độ năng lực của các
nhà thầu. Trong thời gian qua, Chính phủ đã có nhiều chính sách ưu đãi nhằm tạo điều
kiện cho các nhà thầu trong nước tham gia làm tổng thầu EPC các dự án lớn, trọng
điểm, dần dần giúp các doanh nghiệp trong nước có thể tự mình đảm nhận các khâu từ
thiết kế, mua sắm, xây dựng, lắp đặt, hạn chế sự phụ thuộc vào các nhà thầu nước
ngoài, nâng cao nội lực. Tuy nhiên, đến nay các nhà thầu trong nước vẫn chưa xứng
tầm với tư cách là một nhà thầu EPC độc lập, có thể cạnh tranh với các nhà thầu nước
ngồi. Rào cản thứ ba liên quan đến các dự án đầu tư xây dựng sử dụng vốn nhà nước.
Các quy định và hướng dẫn hiện có chưa đủ độ chi tiết để đưa hình thức tổng thầu EC
vào áp dụng rộng rãi trong thực tế. Các rào cản này cần phải được khắc phục để
phương thức thực hiện dự án “Thiết kế - Xây dựng” có thể coi là một lựa chọn rộng rãi
cho các bên thực hiện dự án.
4. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Phương thức thực hiện dự án “Thiết kế - Xây dựng” được áp dụng phổ biến
ngang với phương thức truyền thống ở trên thế giới, tuy nhiên lại có phạm vi áp dụng
hạn chế ở Việt Nam. Dù có rất nhiều điều kiện thuận lợi, nhưng các điều kiện đó chưa
đủ để thúc đẩy việc áp dụng phương thức này một cách rộng rãi trong các dự án phù
hợp. Để phương thức này trở thành một trong những lựa chọn đầu tiên của các bên
thực hiện dự án, trước hết các nhà thầu trong nước có định hướng theo thị trường của
phương thức này cần chú trọng nâng cao năng lực thực hiện không chỉ về hai mảng
thiết kế và xây dựng, mà cả mảng điều phối, quản lý dự án vì đây là yếu tố quan trọng
nhất để đảm bảo các dự án được thực hiện thành cơng. Nhà nước cần có các chính
sách nhằm phổ biến rộng rãi hơn các phương thức thực hiện dự án tiên tiến như hình
thức này, để các bên thực hiện dự án trở nên quen thuộc hơn với chúng, để dễ dàng
vượt qua rào cản tâm lý khi lựa chọn một phương thức mới. Các hướng dẫn về các
hình thức tổng thầu như EPC, EC và các loại hợp đồng tương ứng với phương thức
như hợp đồng trọn gói cần được sốt xét và điều chỉnh, chi tiết hóa hơn cho phù hợp
hơn với tình hình thực tế. Ngồi ra, cũng có thể cân nhắc đến việc cho phép các tổng
thầu thiết kế - thi công tham gia dự án giống như thơng lệ quốc tế, có nghĩa là không
9
phải tự mình thực hiện một phần việc của dự án, mà có thể tồn tâm tồn ý tập trung
cho hoạt động quản lý dự án, thuê các nhà thầu phụ chuyên nghiệp thực hiện các phần
việc theo đúng chuyên môn của họ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Bennett, F.L., The management of construction: A project lifecycle approach.
2003: Routledge.
2.
Forbes, L.H. and S.M. Ahmed, Modern construction: lean project delivery and
integrated practices. 2010: CRC Press.
3.
Lê Quốc Hùng, Giải pháp hồn thiện cơng tác quản lý thông tin phục vụ thiết
kế dự án nhà máy Nhiệt điện Vũng Áng 1, in Khoa Kinh tế và Quản lý Xây
dựng. 2014, Đại học Xây dựng: Hà Nội.
4.
Nguyễn Anh Tuấn, Nghiên cứu tình hình thực hiện lựa chọn nhà thầu và hình
thức tổng thầu trong hoạt động xây dựng. 2011, Viện Kinh tế xây dựng - Bộ
Xây dựng: Hà Nội.
5.
Trương Văn Thiện, Cần hiểu và vận dụng đúng bản chất loại hợp đồng EPC.
Dầu khí, 2012. 09/2012.
6.
Bộ Xây dựng, Báo cáo tổng kết thi hành luật xây dựng từ năm 2003 đến năm
2012. 2012, Bộ Xây dựng: Hà Nội.
10