Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

Hướng dẫn đề tài định tội danh đối với tội lừa đảo tài sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.27 KB, 35 trang )

BÀI TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
MÔN: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC

ĐỀ SỐ 08: Chủ đề tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLHS:

Bộ luật hình sự

BLTTHS:

Bộ luật tố tụng

ĐTD:

Định tội danh

LĐCĐTS: Lừa đảo chiếm đoạt tài sản
PLHS:

Pháp luật hình sự

VAHS:

Vụ án hình sự

CQĐT:

Cơ quan điều tra



VKSND:

Viện kiểm sát nhân dân

TAND:

Tòa án nhân dân


MỤC LỤC
Trang


BÀI LÀM
I.

Lựa chọn tên đề tài
Từ các chủ đề giảng viên cho, học viên lựa chọn đề số 08, chủ đề: Tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản. Trên cơ sở chủ đề đã chọn, học viên xây dựng tên đề tài
như sau:
“Định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định của Bộ luật
hình sự năm 2015, một số vấn đề lý luận và thực tiễn thi hành ở Việt Nam hiện
nay”.

II.

Phần mở đầu đề tài
1. Lý do chọn đề tài
Định tội danh trong khoa học luật hình sự Việt Nam ln là một nhiệm vụ

quan trọng hàng đầu. Quá trình giải quyết vụ án một cách cơng minh, có căn cứ
và đúng pháp luật vấn đề trách nhiệm hình sự của người phạm tội phụ thuộc rất
nhiều vào việc cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền xác định tội danh đã được
thực hiện trong thực tế khách quan có chính xác hay khơng?
Thực tiễn quá trình điều tra, truy tố và xét xử cho thấy, trong một số trường
hợp các cơ quan tư pháp hình sự cũng có thể định tội danh khơng chính xác vì
các quy phạm của luật hình sự thường là các quy phạm dưới dạng trừu tượng
nhưng các tình huống diễn ra trong thực tế khách quan của đời sống xã hội thì lại
rất phong phú và đa dạng nên khơng phải lúc nào các nhà làm luật cũng có thể
lường trước được tất cả mọi tình huống có thể xảy ra. Chính vì vậy, những vấn
đề lý luận về định tội danh và thực tiễn áp dụng các quy phạm của Bộ luật hình
sự có liên quan đến việc định tội danh luôn được các nhà khoa học, các cán bộ
nghiên cứu và cán bộ thực tiễn của các cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát và Tòa
án… coi là những vấn đề đa dạng và phức tạp, đang được tranh luận với nhiều
quan điểm, ý kiến rất khác nhau, đặc biệt là với những tội phạm mà dấu hiệu cấu
thành tội phạm còn dễ gây nhầm lẫn với các tội phạm khác hoặc gặp nhiều khó
4


khăn trong việc xác định có hay khơng hành vi phạm tội xảy ra hay chỉ đơn thuần
là vi phạm dân sự, kinh tế như Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều
174 BLHS năm 2015. Để định tội danh đối với tội phạm này chính xác là vấn đề
không đơn giản bởi dễ nhầm lẫn với các tội phạm khác nhất là ở những địa
phương có tốc độ phát triển kinh tế cao.
Trong những năm gần đây, tình hình tội phạm lừa đả chiếm đoạt tài sản diễn
biến vơ cùng phức tạp về tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội với mức độ
hậu quả của hành vi gây ra lớn, tạo ra sự phẫn nộ và bất bình trong quần chúng
nhân dân. Thực tiễn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án lừa đảo chiếm đoạt
tài sản những năm vừa qua cho thấy về cơ bản việc định tội danh được thực hiện
tương đối đúng pháp luật. Tuy nhiên, vẫn có một số trường hợp giữa CQĐT,

VKSND, TAND trong quá trình giải quyết vụ án có nhiều quan điểm khác nhau
về vấn đề định tội danh dẫn đến có nhiều vụ án phải trả hồ sơ nhiều lần, kéo dài
thời gian giải quyết và ảnh hưởng đến nhiều đối tượng khác nhau. Có trường hợp
Tịa án quyết định tội danh đối với bị cáo khác với tội danh mà Viện kiểm sát đã
truy tố, cá biệt cịn có trường hợp Tịa án tuyên bị cáo không phạm tội. Thực trạng
này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng trước hết và quan trọng
nhất là một số trường hợp áp dụng không đúng, chưa xác định đầy đủ khách quan
hành vi phạm tội, nhận thức quy định của BLHS chưa đầy đủ nên dẫn đến việc
định tội danh cịn chưa chính xác, việc hủy án, sửa án vẫn còn tồn tại ở tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản hoặc cịn có sự nhầm lẫn giữa tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản làm giảm hiệu quả cơng tác đấu
tranh phịng, chống tội phạm nói chung, uy tín của các cơ quan tiến hành tố tụng
nói riêng. Chính vì vậy, học viên lựa chọn đề tài “Định tội danh tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015, một số vấn đề
lý luận và thực tiễn thi hành ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu của

5


mình góp phần làm rõ những cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn cho quá trình các cơ
quan tiến hành tố tụng định tội danh đối với tội phạm này trong thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Việc nghiên cứu về vấn đề định tội danh hay các tội xâm phạm sở hữu
trong những năm qua cũng được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, các đề tài, cơng
trình nghiên cứu có đề có đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp đến nội dung định tội
danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015.
Tiêu biểu có thể chỉ ra một số cơng trình nghiên cứu đã thu hút được sự quan tâm
của dư luận và nhiều nhà nghiên cứu được cơng bố như:
Sách chun khảo: Lí luận chung về định tội danh của tác giả Võ Khánh
Vinh năm 2013, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Định tội danh và quyết định hình

phạt trong Luật hình sự Việt Nam của tác giả Lê Văn Đệ năm 2004, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội. Định tội danh (Lý luận, lời giải mẫu và 500 bài tập) của tác
giả Lê Cảm – Trịnh Quốc Toản năm 2015, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
Phương pháp định tội danh với 538 tội danh trong Bộ luật hình sự sửa đổi năm
2017 của tác giả Đoàn Tấn Minh - Nguyễn Ngọc Điệp năm 2018, Nxb Lao động,
Hà Nội [13, 5, 6, 1]. Các sách chuyên khảo này, đều tập trung phân tích lý luận
chung về việc định tội danh nói chung, căn cứ, cơ sở của việc định tội danh; việc
phân tích định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản chỉ được đề cập khái
quát, chung chung, hoặc được phân tích trong một số ví dụ về việc khó định tội
danh.
Ở khía cạnh các cơng trình, đề tài nghiên cứu có: Đề tài luận văn thạc sỹ
Luật học, Định tội danh Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật
Việt Nam từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh của tác giả Hồng Thị Kim Chi
năm 2017, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội [9]. Trong đề tài này, tác giả nghiên
cứu, phân tích việc định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản thông qua
6


một số ví dụ khi so sánh phân biệt với việc định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản. Đối với đề tài luận văn thạc sỹ luật học, Định tội danh tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở thực tế số liệu
từ địa bàn tỉnh Đăk Lăk) của tác giả Trương Thị Đông, năm 2015, Đại học Quốc
gia Hà Nội [10]. Luận văn này, tác giả đã đi phân tích được các nội dung cơ bản cần
lưu ý đối với việc định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên, luận văn
lại phân tích theo các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 vì khi đó bộ luật hình
sự năm 2015 chưa được thông qua, mới dừng lại ở bản dự thảo. Bên cạnh đó, khi
đưa ra việc áp dụng các quy định này vào thực tiễn, tác giả chỉ tập trung việc định
tội danh đối với tội này ở địa bàn tỉnh Đắk Lắk, chưa có tính khái qt trên địa bàn
cả nước.
Ngoài ra, nội dung định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản còn được đề

cập ở các mức độ khác nhau trong các sách giáo trình, bài viết trên các tạp chí
khoa học như: Giáo trình luật hình sự Việt Nam phần các tội phạm - quyển 1 của
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh năm 2017, Nxb Hồng Đức, Thành
phố Hồ Chí Minh [2]. Giáo trình luật hình sự Việt Nam - Tập 2 của Trường Đại
học Luật Hà Nội năm 2007, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội [3]. Đoàn Ngọc Hải,
Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam – Lý luận và thực
tiễn, Tạp chí tịa án nhân dân điện tử, bài đăng ngày 01/03/2019 [4]. Các tác giả
chủ yếu đề cập tới trách nhiệm hình sự, tìm hiểu và bình luận về tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản trong Luật hình sự Việt Nam.
Như vậy, các cơng trình nghiên cứu khoa học nêu trên đều là những cơng
trình có giá trị về mặt lý luận khoa học và thực tiễn nhất định. Tuy nhiên, nội dung
các cơng trình trên mới chỉ hướng đến việc phân tích, nghiên cứu những vấn đề lý
luận chung về tội phạm nói chung, về vấn đề định tội danh nói riêng. Vấn đề định
tội danh tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015
chưa được nghiên cứu chuyên sâu và riêng lẻ, đặc biệt là nghiên cứu về vấn đề định
7


tội danh tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản gắn với thực tiễn áp dụng trên địa bàn cả
nước. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài “Định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015, một số vấn đề lý luận và thực
tiễn thi hành ở Việt Nam hiện nay” vẫn là nội dung mang tính mới và cấp thiết
trong cơng cuộc đấu tranh, phịng chống tội phạm hiện nay.
3. Mục đích nghiên cứu
Đề tài được tiến hành nghiên cứu nhằm dựa trên cơ sở nghiên cứu các vấn
đề lý luận chung về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản về việc định tội danh đối với
tội phạm này, cũng như phân tích thực tiễn định tội danh Tội lừa đảo chiếm đoạt
tài sản thông qua các số liệu thống kê cụ thể, thông qua các vụ án thực tiễn xảy ra
trên địa bàn cả nước để đưa ra một hệ thống tri thức, nhận thức thống nhất, toàn
diện về việc định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản; chỉ ra một số tồn

tại trong quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
và việc định tội danh đối với tội phạm này, trên cơ sở đó đưa ra một số kiến nghị
nhất định nhằm hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về xử
lý tội phạm này trong thời gian tới.
4. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Nghiên cứu các quy định của BLHS năm 2015 về tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản, các quy định về việc định tội danh. Nghiên cứu các vụ án,
vụ việc điển hình trong xử lý hình sự các tội phạm này.
Về địa bàn nghiên cứu: Trên phạm vi cả nước.
Về thời gian nghiên cứu: Từ năm 2018 (thời điểm BLHS năm 2015 có
hiệu lực thi hành) đến năm 2021.
5. Đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận về việc định tội
danh tội lừa đảo chiếm tài sản theo quy định của BLHS năm 2015 và thực tiễn áp
8


dụng các quy định này trong hoạt động đấu tranh, xử lý lừa đảo chiếm tài sản trên
địa bàn cả nước trong thời gian từ năm 2018 đến năm 2021.
5.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với mục đích nghiên cứu đã được xác định như trên, để thực hiện đề tài
cần thiết phải thực hiện những nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau:
- Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về định tội danh nói chung và định tội
danh tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
- Phân tích cơ sở pháp lý (quy định của BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm
2017) về Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản để làm rõ các dấu hiệu pháp lý đặc
trưng của tội phạm này và so sánh với một số tội phạm khác có tính chất tương
đồng được quy định trong Bộ luật hình sự.
- Khảo sát thực tiễn, đánh giá những ưu điểm, hạn chế và phân tích nguyên nhân

của những hạn chế trong hoạt động định tội danh Tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản
trên địa bàn cả nước giai đoạn 2018- 2021.
- Đưa ra yêu cầu và giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động định tội danh Tội
Lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong thời gian tới.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
6.1.

Phương pháp luận
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước
và pháp luật; các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về công tác cải cách tư
pháp; cơng tác đấu tranh phịng, chống tội phạm nói chung và phòssssng, chống
các tội xâm phạm quyền sở hữu của cơng dân nói riêng.

6.2.

Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Trên cơ sở phương pháp luận nêu trên, quá trình thực hiện đề tài luận án,
nghiên cứu sinh sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau đây:
9


- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Học viên tìm hiểu và tham khảo các cơng trình
nghiên cứu, các bài viết, bài phân tích có liên quan đến đề tài thể hiện dưới dạng
sách tham khảo, sách chuyên khảo, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, đề tài nghiên
cứu khoa học, các bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành; các loại báo cáo
định kỳ, báo cáo chuyên đề phân tích quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về
việc định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Qua các loại tài liệu liên quan đến đề tài cũng
như các báo cáo của Cơ quan Điều tra, VKSND, Tòa án nhân dân (TAND) các

cấp, báo cáo kết quả các vụ án...; Học viên đã tổng hợp tình hình xảy ra các tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tỷ lệ các vụ án về tội danh này bị hủy sửa, nguyên
nhân của việc hủy sửa. Trên cơ sở đó, đánh giá về tính phù hợp của các quy định
của Bộ luật hình sự năm 2015 trong việc định tội danh đối với tội này.
- Phương pháp thống kê, so sánh: Học viên tiến hành thống kê kết quả hoạt động
đấu tranh, xử lý hình sự đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Từ đó, đánh giá
được những kết quả, hạn chế trong việc áp dụng pháp luật hình sự đối với nhóm
tội phạm này trên thực tiễn. Đồng thời, so sánh các quy định của Bộ luật hình sự
Việt Nam hiện hành về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với các quy định về xử lý
các tội phạm này trong Bộ luật hình sự của một số quốc gia trên thế giới; từ đó,
rút ra kinh nghiệm vận dụng vào việc xây dựng pháp luật ở nước ta.
- Phương pháp nghiên cứu điển hình: Trong quá trình thực hiện đề tài của mình,
Học viên tập trung nghiên cứu và phân tích chuyên sâu một số vụ án điển hình về
việc định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, đặc biệt là các vụ án bị hủy, sửa,
rút kinh nghiệm; các vụ án khó khăn, phức tạp có nhiều quan điểm trong việc
định tội danh và xử lý hình sự xảy ra trên địa bàn cả nước từ năm 2018 đến năm
2021, qua đó chỉ ra một số bất cập trong quy định của pháp luật và một số hạn
chế trong nhận thức, áp dụng pháp luật trong việc xử lý hình sự đối với các tội
phạm này.
10


7. Tính mới của đề tài
Với các nội dung cơ bản về mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu đã nêu trên, đề
tài nghiên cứu khi hồn thiện sẽ có những điểm mới cơ bản như sau:
- Xây dựng khái niệm định tội danh và định tội danh đối với tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản;
- Phân loại và nêu ý nghĩa của việc định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản;
- Phân tích cơ sở pháp lý và cơ sở khoa học của việc định tội danh đối với

tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản; cũng như các giai đoạn định tội danh đối với tội
lừa đảo chiếm đoạt tài sản;
- Đánh giá, phân tích thực trạng định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản trên địa bàn cả nước, từ đó chỉ ra những tồn tại, hạn chế và một số
nguyên nhân cơ bản;
- Đề xuất các yêu cầu và những giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả
của việc định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản trong thời gian tới.
8. Dự kiến kết cấu của đề tài nghiên cứu
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
kết cấu như sau:
Chương 1. Lý luận về định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy
định của Bộ luật hình sự năm 2015
Chương 2. Thực tiễn định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản ở nước ta
hiện nay
Chương 3. Yêu cầu và các giải pháp nâng cao chất lượng định tội danh tội
lừa đảochiếm đoạt tài sản.
III.

Xây dựng cơ sở lý thuyết của đề tài (viết chương 1 của đề tài)
Chương 1

LÝ LUẬN VỀ ĐỊNH TỘI DANH TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
11


THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015
1.1. Khái niệm, ý nghĩa của định tội danh
1.1.1. Khái niệm định tội danh
Định tội danh là một vấn đề không phải là mới nhưng đối với những
người làm công tác điều tra, truy tố, xét xử trong hoạt động tố tụng hình sự thì

đây lại là vấn đề thời sự, có ý nghĩa vơ cùng quan trọng được quan tâm hàng đầu.
Bởi vì có xác định tội danh đúng mới áp dụng pháp luật hình sự đúng, ra bản án
mới đúng pháp luật, người phạm tội mới cúi đầu nhận tội và mới đạt được yêu
cầu của việc xét xử là xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Quá trình áp dụng các quy phạm của BLHS trên thực tế diễn ra phức tạp
và đa dạng, được thể hiện ở 3 giai đoạn như sau: Định tội danh, định khung hình
phạt, và quyết định hình phạt. Trong đó, định tội danh là một giai đoạn quan trọng
nhất trong ba giai đoạn trên bởi vì định tội danh được tiến hành và thực hiện ở tất
cả các giai đoạn của cả quá trình tố tụng hình sự từ giai đoạn khởi tố, điều tra,
truy tố, xét xử đến giai đoạn thi hành án.
Định tội danh là một trong những biện pháp đưa nội dung của Bộ luật
hình sự vào đời sống xã hội, góp phần vào việc nâng cao hiệu quả đấu tranh
phịng ngừa và chống tội phạm, qua đó góp phần thực hiện đường lối chính sách
hình sự của Đảng và Nhà nước ta. Định tội danh là sự xác nhận về mặt pháp lý sự
phù hợp giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện trong thực tế khách quan
với các dấu hiệu trong cấu thành tội phạm tương ứng được quy định trong Bộ luật
hình sự. Hay nói cách khác, định tội danh là việc xác định một hành vi cụ thể đã
thực hiện thoả mãn đầy đủ các dấu hiệu của cấu thành tội phạm của tội nào trong
số các tội phạm đã được quy định trong BLHS.

12


Do đó có thể đưa ra khái niệm định tội danh như sau: Định tội danh là
việc xác định và ghi nhận về mặt pháp lý sự phù hợp chính xác giữa các dấu hiệu
của hành vi phạm tội cụ thể đã thực hiện với dấu hiệu của cấu thành tội phạm đã
được quy định trong BLHS.
1.1.2. Ý nghĩa của hoạt động định tội danh
Định tội danh đúng có ý nghĩa rất to lớn về mặt chính trị- xã hội, đạo đức
và pháp luật. Định tội danh đúng là tiền đề cho việc phân hố TNHS và cá thể

hố hình phạt một cách cơng minh, có căn cứ pháp luật.
Định tội danh đúng sẽ đảm bảo cho việc thực hiện các nguyên tắc tiến bộ
được thừa nhận trong hệ thống pháp luật nói chung của Nhà nước pháp quyền
như: nguyên tắc pháp chế, trách nhiệm do lỗi cá nhân, bình đẳng trước pháp luật
hình sự, ngun tắc cơng bằng, ngun tắc nhân đạo.
Định tội danh đúng thể hiện hoạt động có hiệu quả ý thức tuân thủ pháp
luật triệt để cũng như ý thức trách nhiệm trong hoạt động của các cơ quan có
thẩm quyền, từ đó góp phần hiệu quả vào cơng cuộc đấu tranh phịng, chống tội
phạm từ đó nâng cao uy tín, chất lượng hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền
tiến hành tố tụng cũng như hỗ trợ cho việc củng cố và tăng cường pháp chế
XHCN.
Định tội danh đúng là một trong những cơ sở để áp dụng chính xác các
quy phạm pháp luật TTHS Việt Nam về tạm giam, về thẩm quyền điều tra, xét
xử cũng như một số hoạt động tố tụng khác qua đó góp phần hữu hiệu cho việc
đảm bảo, bảo vệ các quyền tự do dân chủ của công dân trong lĩnh vực tư pháp
hình sự.
Định tội danh đúng sẽ dẫn đến việc quyết định hình phạt đúng, là tiền đề
cho việc ban hành một bản án đúng, chính xác, phù hợp với mức độ nguy hiểm
cho xã hội của hành vi phạm tội, khiến bị cáo cũng như những người tham dự
13


phiên tịa nói riêng, xã hội và cơng luận nói chung nhận thức đầy đủ về tính
nghiêm minh, cơng bằng, khách quan của pháp luật từ đó nâng cao hiệu quả tuân
thủ, chấp hành pháp luật góp phần tăng cường hiệu quả công tác tuyên truyền
giáo dục pháp luật cho nhân dân.
Ngược lại, khi định tội danh sai sẽ dẫn đến một loạt các hậu quả tiêu cực
như: không đảm bảo được tính cơng minh có căn cứ của pháp luật, truy cứu
TNHS người vô tội, bỏ lọt người phạm tội, xâm phạm thô bạo danh dự nhân
phẩm cũng như các quyền tự do dân chủ của công dân - là giá trị xã hội cao quý

nhất được thừa nhận trong Nhà nước. Bên cạnh đó, định tội danh sai cịn làm
giảm uy tín của cơ quan tư pháp, vi phạm pháp chế XHCN, làm giảm lòng tin của
quần chúng nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, với pháp luật XHCN từ đó ảnh
hưởng đến hiệu quả của cơng cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm.
1.2. Lý luận về định tội danh Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của việc định tội danh tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản
- Khái niệm định tội danh Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản:
Định tội danh là một quá trình tư duy logic, là việc các chủ thể có thẩm
quyền xem xét, đánh giá sự phù hợp giữa hành vi phạm tội xảy ra trên thực tế với
các yếu tố cấu thành tội phạm được quy định trong BLHS nhằm quyết định hình
phạt tương xứng với mức độ của hành vi phạm tội. Do đó, định tội danh tội
LĐCĐTS là quá trình các chủ thể có thẩm quyền xem xét, đánh giá và sử dụng
các quy định của BLHS xác định hành vi của người phạm tội có thỏa mãn các yếu
tố cấu thành của Tội LĐCĐTS được quy định tại Điều 174 BLHS hay khơng, từ
đó quyết định mức hình phạt tương ứng phù hợp với mức độ, tính chất mức độ
nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội.
Như vậy, dựa trên cơ sở quy định tại Điều 8 BLHS, Điều 174 BLHS và
14


các quy định của BLTTHS có thể hiểu định tội danh Tội LĐCĐTS như sau:
Định tội danh đối với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là hoạt động thực
tiễn áp dụng pháp luật hình sự theo trình tự, thủ tục pháp luật tố tụng hình sự quy
định của các chủ thể có thẩm quyền được tiến hành trên cơ sở thu thập các tài
liệu, chứng cứ để xác định hành vi chiếm đoạt tài sản, có hay khơng có sự phù
hợp giữa hành vi đã xảy ra với các dấu hiệu cấu thành tội phạm của tội lừa đảo
chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều 174 Bộ luật Hình sự để phán quyết làm tiền
đề cho việc giải quyết các vấn đề liên quan đến hình phạt và các biện pháp
cưỡng chế hình sự khác.

- Đặc điểm của định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Từ định nghĩa trên có thể rút ra các đặc điểm của định tội danh Tội
LĐCĐTS như sau:
Thứ nhất, định tội danh tội LĐCĐTS là hoạt động có tính logic nhằm
xác định có hay khơng sự tương đồng giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được
thực hiện và các dấu hiệu của Tội LĐCĐTS được quy định tại Điều 174 BLHS.
Tính logic của q trình định tội danh Tội LĐCĐTS được thể hiện ở q trình các
cơ quan có thẩm quyền tiến hành các hoạt động cần thiết trước khi đưa ra kết luận
về tội danh của người thực hiện hành vi LĐCĐTS, đó là q trình so sánh, đối
chiếu sự phù hợp giữa hành vi với các yếu tố cấu thành tội phạm của Điều 174
BLHS để tìm ra điểm tương đồng. Từ đó kết luận hành vi đó có phải tội phạm
LĐCĐTS hay khơng?
Thứ hai, q trình hoạt động định tội danh Tội LĐCĐTS phải tuân thủ
nghiêm chỉnh các quy phạm pháp luật của BLHS cũng như các quy phạm pháp
luật của BLTTHS mà cụ thể là các cơ quan tiến hành tố tụng cụ thể hoá các quy
phạm của BLHS vào đời sống thực tế. Trên cơ sở xác định đúng đắn, đầy đủ các
chứng cứ, các tài liệu thu thập được và các tình tiết của hành vi phạm tội đã thực
hiện để xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội
15


đã thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm tương ứng quy định tại Điều
174 BLHS. Có thể nói đây là q trình rất phức tạp và dễ nhầm lẫn. Chính vì vậy,
để thực hiện được q trình này có hiệu quả các cơ quan tiến hành tố tụng phải
tuân thủ những quy định của BLHS và BLTTHS, bên cạnh đó các cơ quan này
cũng có thể sử dụng các biện pháp nghiệp vụ mà pháp luật cho phép để xác định
chính xác hành vi phạm tội LĐCĐTS. Đó là cơ sở để đưa ra mức hình phạt hợp lý
nhất đối với người phạm tội.
Thứ ba, với tư cách là một dạng của hoạt động áp dụng pháp luật hình sự
định tội danh Tội LĐCĐTS phải đảm bảo tính chính xác, khách quan tuyệt đối.

Mọi hành vi định tội danh sai sót dù là nhỏ nhất cũng có thể dẫn tới hậu quả lớn
cho cá nhân, gia đình và xã hội, do đó hoạt động này cần được tiến hành tuần tự
qua các bước là: Xác định hành vi nguy hiểm cho xã hội xảy ra trên thực tế. Tiếp
theo là lựa chọn đúng điều khoản tương ứng trong Phần các tội phạm của BLHS
quy định trách nhiệm đối với tội phạm LĐCĐTS để so sánh, đối chiếu và kiểm tra
các dấu hiệu của cấu thành tội phạm này với các tình tiết cụ thể của hành vi nguy
hiểm cho xã hội đã được thực hiện. Cuối cùng là ra văn bản áp dụng pháp luật,
trong đó đưa ra kết luận có căn cứ và đảm bảo sức thuyết phục về sự phù hợp
của hành vi gian dối và hành vi chiếm đoạt đã được thực hiện trong thực tế
khách quan với cấu thành tội phạm cụ thể tại Điều 174 BLHS.
Thứ tư, định tội danh đối với Tội LĐCĐTS là hoạt động của các cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền mang tính áp đặt một chiều đối với đối tượng bị áp dụng.
Hoạt động định tội danh chỉ có thể được tiến hành bởi các cơ quan tiến hành tố tụng
là cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tịa án mà khơng thể được tiến hành bởi bất kỳ
chủ thể nào khác. Đối tượng bị áp dụng cũng không thể lựa chọn tội danh cho mình
mà chỉ có thể chấp nhận tội danh mà các cơ quan tiến hành tố tụng đã áp đặt trên cơ
sở và theo quy định của pháp luật [9, tr 14 – 15].
- Ý nghĩa của hoạt động định tội danh Tội lừa đảo chiếm đoạt tài
16


sản
Hoạt động định tội danh tội LĐCĐTS được thực hiện trên thực tế một cách
chính xác sẽ mang lại nhiều ý nghĩa trên nhiều phương diện khác nhau, cụ thể:
Ý nghĩa về phương diện chính trị - xã hội: Định tội danh đối với tội
LĐCĐTS là một hoạt động mang tính chính trị - xã hội sâu sắc, thể hiện như sau:
Một là, việc quy định Tội LĐCĐTS trong BLHS có mục đích bảo vệ
quyền lợi về mặt kinh tế mà cụ thể là quyền sở hữu tài sản của công dân, đây là
quyền con người được pháp luật quốc gia và quốc tế ghi nhận. Định tội danh
đúng đối với tội LĐCĐTS góp phần vào việc cụ thể hóa các cam kết quốc tế của

nhà nước Việt Nam là thành viên, nhất là các cam kết liên quan đến quyền con
người mà Việt Nam đã tham gia ký kết.
Hai là, định tội danh đối với Tội LĐCĐTS góp phần thể chế hóa đường
lối lãnh đạo của Đảng, các quy định của Hiến pháp, các quy định của pháp luật,
nhất là quy định của BLHS, BLTTHS góp phần củng cố lòng tin của người dân
vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, vào cơng lý, sự chí cơng, vơ tư của các cơ
quan bảo vệ pháp luật; củng cố lòng tin của các nước trên thế giới, của các nhà
đầu tư nước ngồi về tính minh bạch và đúng đắn của hệ thống pháp luật Việt
Nam góp phần nâng cao vị trí vai trị của Việt Nam trên trường quốc tế và thu hút
đầu tư nước ngoài.
Ý nghĩa về phương diện pháp lý: Bên cạnh ý nghĩa chính trị - xã hội thì
hoạt động định tội danh Tội LĐCĐTS cịn có ý nghĩa pháp lý to lớn, thể hiện ở
các điểm sau:
Thứ nhất, việc xác định đúng hành vi của một người có phải là hành vi lừa
đảo nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản hay khơng? Có thỏa mãn các dấu hiệu quy
định tại Điều 174 BLHS hay không? Chính là cơ sở và là tiền đề để áp dụng một
loạt các quy định của PLHS và PLTTHS vào thực tiễn cuộc sống, thể hiện sự
17


đánh giá khách quan, công bằng của pháp luật đối với hành vi nguy hiểm cho xã
hội đã xảy ra trong thực tế.
Thứ hai, định tội danh nói chung là định tội danh đối với tội LĐCĐTS nói
riêng một cách chính xác là cơ sở để áp dụng đúng các thủ tục tố tụng như thẩm
quyền điều tra, truy tố, xét xử; áp dụng biện pháp tạm giam; thực hiện đúng các
loại thời hạn tố tụng; ra các quyết định tố tụng đúng, không bắt oan, bắt sai người
vô tội, không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, tránh tình trạng tội phạm bỏ trốn
hay tẩu tán tang vật… Định tội danh sai làm giảm hiệu quả của công tác đấu
tranh với loại tội phạm này, làm nảy sinh những quan niệm không đúng về
thực trạng và các biện pháp đấu tranh với tội phạm, làm giảm uy tín của các cơ

quan tư pháp.
Thứ ba, định tội danh đúng với Tội LĐCĐTS là tiền đề cho việc quyết
định hình phạt đúng, là tiền đề cho việc ban hành một bản án đúng, chính xác,
phù hợp với mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, khiến bị cáo
cũng như những người tham dự phiên tòa và dư luận xã hội nhận thức đầy đủ tính
nghiêm minh, cơng bằng, khách quan của pháp luật. Từ đó nâng cao hiệu quả
tuân thủ, chấp hành pháp luật góp phần tăng cường hiệu quả tuyên truyền giáo
dục về Tội LĐCĐTS cho nhân dân. Trong chương các tội xâm phạm sở hữu thì
Tội LĐCĐTS rất dễ bị nhầm lẫn, tức là dễ bị định tội danh sai so với các loại tội
phạm khác. Do đó, định tội danh đúng với tội phạm này là cơ sở để Tòa án căn cứ
vào các yếu tố khác nhau để quyết định hình phạt một cách nghiêm minh và phù
hợp [8, tr. 11- 12].
- Nội dung của định tội danh Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Tội LĐCĐTS trên thực tế xảy ra ở tất cả các lĩnh vực với thủ đoạn vô
cùng đa dạng và tinh vi xảo quyệt. Do đó các cơ quan tiến hành tố tụng chứng
minh có hay khơng Tội LĐCĐTS xảy ra là không hề đơn giản. Hoạt động định tội
18


danh đối với Tội LĐCĐTS phải được tiến hành chính xác từng bước, thận trọng,
khách quan, khoa học với những nội dung cụ thể sau:
Bước thứ nhất là: Thu thập, kiểm tra, đánh giá toàn diện chứng cứ chứng
minh sự thật của vụ án LĐCĐTS đúng quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
Trong thực tế, nhiệm vụ này chỉ đặt ra đối với hoạt động định tội danh của các
chủ thể có thẩm quyền như Điều tra viên trực tiếp thụ lý điều tra vụ án, Kiểm sát
viên được phân công giám sát vụ án và Thẩm phán xét xử vụ án. Tiếp theo là trên
cơ sở các tình tiết vụ án đã được làm rõ, các chủ thể có thẩm quyền phải phân tích
một cách khách quan, tồn diện, đầy đủ các tình tiết đó để xác định những tình
tiết có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án cũng như đối với định tội danh Tội
LĐCĐTS.

Bước thứ hai là: Nghiên cứu, nhận thức đúng đắn các quy định của pháp
luật hình sự nói chung như hiệu lực áp dụng, cơ sở trách nhiệm hình sự, các khái
niệm về lỗi, các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự; quy định về tội
LĐCĐTS quy định tại Điều 174 BLHS nói riêng; phân biệt tội LĐCĐTS với các
tranh chấp dân sự, tranh chấp kinh tế với các tội phạm xâm phạm sở hữu có tính
chiếm đoạt khác gần giống với tội LĐCĐTS…
Bước thứ ba là: So sánh, đối chiếu các tình tiết của vụ án đã được làm rõ
với quy định của Điều 174 BLHS để xác định sự tương đồng. Các cơ quan tiến
hành tố tụng phải đối chiếu từng tình tiết của vụ án đã xảy ra với các dấu hiệu cấu
thành tội phạm tương ứng của Tội LĐCĐTS được quy định tại Điều 174 BLHS.
Sau đó, phải so sánh, đối chiếu tổng thể tất cả các tình tiết của vụ án với tổng thể
các dấu hiệu cấu thành tội phạm của tội phạm LĐCĐTS. Tiếp theo phải phát hiện,
tìm ra sự đồng nhất giữa các tình tiết điển hình của vụ án với các dấu hiệu pháp lý
được mô tả trong Điều 174 BLHS. Trường hợp có căn cứ khẳng định hành vi
khách quan của vụ án xảy ra phù hợp với những quy định tại Điều 174 BLHS là
người phạm tội có hành vi lừa dối nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản của người
19


khác… thì kết luận hành vi đó phạm tội LĐCĐTS. Trường hợp khơng có sự đồng
nhất thì phải kiểm tra, đối chiếu lại. Sau khi xác định chắc chắn không có sự đồng
nhất với cấu thành tội phạm Tội LĐCĐTS thì có thể chuyển sang kiểm tra các
quy phạm PLHS khác để kết luận có hay khơng có tội phạm xảy ra, nếu có tội
phạm xảy ra khơng thuộc trường hợp Tội LĐCĐTS thì cấu thành tội phạm nào
khác.
Bước thứ tư là: Đưa ra kết luận về tội danh và ra quyết định áp dụng pháp
luật đối với người đã thực hiện hành vi quy định tại Điều 174 Bộ luật hình sự.
Lúc này việc so sánh hành vi phạm tội với quy định tại Điều 174 tiếp tục được
thực hiện để xác định cấu thành tội phạm là cơ bản hay cấu thành tội phạm tăng
nặng trách nhiệm hình sự.

Tóm lại, có thể nói rằng, việc phân chia các giai đoạn định tội danh nêu
trên chỉ mang tính chất tương đối. Các bước của quá trình định tội danh nhiều khi
cũng khơng rõ ràng mà có tính chất đan xen. Trong nhiều trường hợp các chủ thể
định tội danh có sự lồng ghép giai đoạn này vào giai đoạn khác. Cũng có những
trường hợp cá biệt như việc định tội danh đã được thực hiện xong nhưng lại phải
quay lại quy trình bắt đầu từ đầu để kiểm tra lại tính đúng đắn của kết quả định
tội danh hoặc để định tội danh được đúng đắn, phù hợp với sự thật khách quan
quy định của pháp luật nếu như chủ thể định tội danh có những sai lầm nào
đó trong quá trình định tội danh.
- Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng của hoạt động định tội danh Tội
LĐCĐTS
Để hoạt động định tội danh đối với các loại tội phạm nói chung và định tội
danh đối với Tội LĐCĐTS nói riêng đảm bảo được tính chính xác, có căn cứ, hợp
pháp địi hỏi quy trình tiến hành tố tụng phải được các chủ thể tiến hành tố tụng
thực hiện nghiêm túc, chính xác việc đánh giá phải khách quan, tồn diện với sự
kết hợp hài hịa giữa yếu tố khách quan và yếu tố chủ quan, cụ thể:
20


Các yếu tố khách quan: Yếu tố khách quan là những yếu tố bên ngoài ảnh
hưởng đến chất lượng của hoạt động định tội danh Tội LĐCĐTS. Sự hoàn thiện
của PLHS nói chung và BLHS nói riêng, là nền tảng pháp lý quan trọng để chủ
thể có thẩm quyền quyết định việc định tội danh đối với Tội LĐCĐTS được đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật, tránh trường hợp oan sai, sót lọt do việc áp dụng
pháp luật khơng chính xác.
Trước hết hoạt động định tội danh đối với Tội LĐCĐTS S phải căn cứ vào
những quy định của PLHS bởi vì tội phạm chỉ được quy định trong BLHS mà
định tội danh đối với Tội LĐCĐTS là quá trình xác định hành vi phạm tội của
một người có thỏa mãn các dấu hiệu quy định tại Điều 174 BLHS hay khơng?
Thuộc khoản nào? Điểm nào của điều luật. Ngồi ra, khi tiến hành định tội danh

đối với Tội LĐCĐTS cũng phải căn cứ vào những quy định trong phần chung của
BLHS như: những quy định về năng lực trách nhiệm hình sự, các quy định về lỗi,
về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự hay các giai đoạn thực hiện tội phạm… Đây
là những quy định chung do đó các chủ thể tiến hành hoạt động định tội danh
phải tuân thủ và áp dụng để đảm bảo nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa với
hoạt động này và cũng là cơ sở để quyết định hình phạt một cách chính xác.
Thực tiễn đấu tranh phịng chống Tội LĐCĐTS cho thấy có trường hợp
hành vi lừa đảo kết thúc ở giai đoạn tội phạm chưa đạt, không phải tội phạm hồn
thành. Do đó, khi tiến hành định tội danh đối với Tội LĐCĐTS ở giai đoạn tội
phạm chưa đạt cần nắm chắc chắn kiến thức lý luận về trường hợp phạm tội chưa
đạt quy định tại Điều 15 BLHS để áp dụng PLHS một cách chính xác. Hay
trường hợp vụ án LĐCĐTS xảy ra có nhiều đối tượng tham gia tức là vụ án lừa
đảo có đồng phạm thì các chủ thể có thẩm quyền phải xem xét vai trò của từng
đối tượng khác nhau trên cơ sở quy định tại Điều 16 BLHS để xác định trách
nhiệm của mỗi người từ đó đưa ra mức hình phạt tương ứng với mức độ thực hiện
hành vi phạm tội.
21


Bên cạnh các quy định của PLHS thì các quy định của pháp luật TTHS
cũng đóng vai trị quan trọng trong việc thu thập, đánh giá, bảo quản chứng cứ
trong các vụ án LĐCĐTS của các cơ quan tiến hành tố tụng trong các giai đoạn
của quá trình tố tụng cũng ảnh hưởng đến chất lượng của hoạt động định tội danh
Tội LĐCĐTS.
Ngoài ra hệ thống các văn bản hướng dẫn thi hành BLHS mà cụ thể là
những nội dung liên quan đến việc áp dụng PLHS đối với Tội LĐCĐTS cũng ảnh
hưởng đến chất lượng của hoạt động định tội danh Tội LĐCĐTS.
Các yếu tố chủ quan: Yếu tố chủ quan là những nhân tố bên trong nhưng lại
là nhân tố vô cùng quan trọng quyết định việc định tội danh đúng hay sai. Yếu tố
chủ quan quan trọng nhất đó chính là năng lực của chủ thể có thẩm quyền trong

việc định tội danh. Hoạt động định tội danh đối với Tội LĐCĐTS chỉ có thể được
tiến hành bởi các chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Mà những người tiến
hành tố tụng bao gồm Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán và hội thẩm đó là
những người có trình độ, có kiến thức, kỹ năng nghiệp vụ phát hiện và xử lý tội
phạm nên năng lực của bản thân họ là vấn đề quan trọng nhất quyết định tính
chính xác của hoạt động định tội danh. Định tội danh Tội LĐCĐTS là hoạt động
tố tụng hình sự được tiến hành bởi các chủ thể có thẩm quyền khác nhau nên mỗi
chủ thể phải có nền tảng kiến thức pháp luật hình sự, tố tụng hình sự cũng như các
quy định khác của pháp luật nhất định, có đạo đức, có tinh thần trách nhiệm, am
hiểu và vận dụng tốt các quy định đó vào trong các vụ án thực tế cụ thể mới đảm
bảo cho việc định tội danh Tội LĐCĐTS được chính xác. Ngồi ra, Tội LĐCĐTS
là loại tội phạm có nhiều điểm tương đồng với pháp luật dân sự và bản thân tội
phạm này cũng bắt nguồn từ các giao dịch dân sự nên để tránh việc hình sự hóa
các quan hệ dân sự hay dân sự hóa các quan hệ hình sự thì các chủ thể có thẩm
quyền cần phải có vốn kiến thức hiểu biết nhất định về pháp luật dân sự, về các
giao dịch dân sự. Từ đó mới có thể kết luận đó là Tội LĐCĐTS hay là vi phạm
22


pháp luật dân sự, kinh tế, hành chính để có thể đưa ra kết luận chính xác về tội
danh của người phạm tội.
Bên cạnh đó hoạt động áp dụng pháp luật của các chủ thể tiến hành tố
tụng trong việc định tội danh đối với Tội LĐCĐTS cũng có thể bị tác động, bị
ảnh hưởng bởi các lợi ích khác nhau. Mỗi chủ thể có thẩm quyền cần có sự kiên
định, bản lĩnh vững vàng để vượt qua những cám dỗ về lợi ích vật chất, lợi ích
tinh thần cũng như những ảnh hưởng từ các chủ thể khác từ đó có sự chắc chắn
trong việc nhận định hành vi của người phạm Tội LĐCĐTS mới có thể đưa ra
quyết định đúng đắn. Chính vì vậy, chủ thể tiến hành tố tụng khi ĐTD ngoài việc
cần mạnh dạn đưa ra những quan điểm mang chính kiến cá nhân và tìm cách để
bảo vệ quan điểm đó thì cịn cần có bản lĩnh chính trị vững vàng, hiểu biết về các

quan điểm, đường lối, chính sách pháp luật của Đảng, của Nhà nước, chủ động
vận dụng sáng tạo, linh hoạt các quy định của pháp luật trong thực tiễn đối với
việc giải quyết từng vụ án, tuân thủ sự chỉ đạo của cấp trên đối với cấp dưới.
Để làm được điều này thì sự thay đổi trong cách thức tổ chức, quản lý là
điều rất cần thiết nhằm tạo ra sự độc lập giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong
q trình giải quyết VAHS trên cơ sở có sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ; sự kết hợp
và trao đổi ý kiến, quan điểm để đưa ra kết luận chính xác và thống nhất về hành
vi của người phạm tội, đồng thời cần có chính sách hậu cần, lương, thưởng hợp lý
để đảm bảo điều kiện sống, làm việc của các chủ thể tiến hành tố tụng để họ an
tâm cơng tác, làm việc và cống hiến, từ đó mới có cơ sở để nâng cao chất lượng
của hoạt động ĐTD.
1.2.2. Cơ sở pháp lý của định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
- Khái niệm Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Tổng kết từ thực tiễn công tác đấu tranh chống tội phạm của các cơ quan
chức năng cho thấy, tội LĐCĐTS là loại tội xảy ra khá phổ biến trong cơ cấu tội
23


phạm nói chung. Tội phạm LĐCĐTS đang có những diễn biến hết sức phức tạp,
không chỉ gây thiệt hại nặng nề tới tài sản của nhà nước, của công dân mà còn
làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển của xã hội, đe dọa đến sự ổn định
chính trị và công cuộc xây dựng đất nước. Nhằm nâng cao hiệu quả công tác đấu
tranh chống loại tội phạm này nhất thiết các cơ quan bảo vệ pháp luật phải nghiên
cứu và hiểu rõ khái niệm tội LĐCĐTS và các vấn đề có liên quan.
Tội phạm LĐCĐTS được quy định trong BLHS năm 2015 (Điều 174)
không định nghĩa rõ thế nào là tội phạm LĐCĐTS, do đó để hiểu rõ khái niệm về
tội phạm LĐCĐTS thì trước hết tác giả đề cập đến khái niệm tội phạm được quy
định trong BLHS.
Khoản 1, điều 8 BLHS năm 2015 quy định: “Tội phạm là hành vi nguy
hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS do người có năng lực TNHS hoặc

pháp nhân thương mại thực hiện một cách cố ý hoặc vơ ý, xâm phạm độc lập,
chủ quyền, thống nhất, tồn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị,
chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phịng, an ninh, trật tự, an tồn xã hội, quyền,
lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp
pháp của cơng dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật XHCN
mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự” [12, tr.4].
Về khái niệm tội phạm LĐCĐTS cũng đã được đề cập rất nhiều trong các
cơng trình nghiên cứu của nhiều tác giả với nhiều khái niệm khác nhau. Căn cứ
vào những quy định của BLHS có thể đưa ra khái niệm về tội LĐCĐTS như sau:
“Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là loại tội phạm xâm phạm sở hữu có tính
chất chiếm đoạt, do người có năng lực TNHS thực hiện một cách cố ý bằng các
thủ đoạn gian dối làm cho chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản tin nhầm nên
trao tài sản để người phạm tội chiếm đoạt”.
- Dấu hiệu pháp lý của Tội LĐCĐTS:
24


Tội LĐCĐTS được quy định tại Điều 174 BLHS 2015 như sau:
1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người
khác trị giá từ 2000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc
dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau
đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù
từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà
cịn vi phạm;
b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các
điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của BLHS 2015, chưa
được xóa án tích mà cịn vi phạm;
c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình

họ; tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh
thần đối với người bị hại.
2. Phạm tội thuộc 1 trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ
02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chun nghiệp;
c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000
đồng;
d) Tái phạm nguy hiểm;
đ) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ
chức;
e) Dùng thủ đoạn xảo quyệt;
25


×