Hội nhập kinh tế quốc tế cùng xu thế toàn cầu hóa mở ra nhiều cơ hội cho ngành
du lịch VN
Trong điều kiện quốc tế ngày nay khi quá trình hội nhập ngày càng được xúc tiến
nhanh, ngoại giao đa phương ngày càng giữ một vị trí quan trọng, góp phần nâng cao
vị thế quốc tế của đất nước trên thế giới, đồng thời mở ra nhiều cơ hội cho tất cả các
ngành kinh tế và dịch vụ.
Cho đến nay, Việt Nam là thành viên của 63 tổ chức quốc tế và có quan hệ với
hơn 500 tổ chức phi chính phủ trên thế giới. Việt Nam đã hoạt động tích cực với vai
trị ngày càng tăng tại Liên hợp quốc (ủy viên ECOSOC, ủy viên Hội đồng chấp hành
UNDP, UNFPA và UPU...), phát huy vai trị thành viên tích cực của phong trào Không
liên kết, Cộng đồng các nước có sử dụng tiếng Pháp, ASEAN, WTO,...
Việc tham gia các tổ chức quốc tế và phát triển các mối quan hệ đa phương đem
lại nhiều cơ hội phát triển cho ngành du lịch:
Thứ nhất, cơ hội quảng bá VN đến bạn bè quốc tế được mở rộng. Khi gia nhập
vào các tổ chức quốc tế, tạo dựng và phát triển các quan hệ quốc tế sẽ giúp bạn bè thế
giới biết đến VN. Nắm bắt tốt cơ hội này VN sẽ thuận lợi hơn trong việc quảng bá
hình ảnh về đất nước VN, con người VN, từ đó thu hút sự quan tâm của bạn bè quốc
tế để VN có cơ hội mở rộng thị trường du lịch quốc tế bằng hình ảnh một điểm đến an
tồn, hấp dẫn và cởi mở.
Thứ hai, các thủ tục xuất nhập cảnh đơn giản, nhanh chóng thu hút lượng lớn
khách du lịch ngồi nước.Ví dụ như sau khi gia nhập ASEAN, các thủ tục rào cản
trong việc đi lại giữa 10 nước ASEAN sẽ được gỡ bỏ giúp khách có thể tự do đi lại, vì
vậy, luồng khách từ các thị trường đi du lịch lẫn nhau sẽ gia tăng, đây là cơ hội cho
ngành du lịch phát triển. (Theo số liệu của Tổng Cục Du lịch, riêng năm 2015, cả
nước đã đón hơn 7.94 triệu lượt khách quốc tế)
Thứ ba, tăng sức cạnh tranh trong ngành du lịch, từ đó nâng cao chất lượng và
làm phong phú ngành du lịch cùng các ngành dịch vụ đi kèm. Hội nhập kinh tế quốc
tế chính là một trong những cơ hội đặc biệt để VN tăng sức thu hút nguồn vốn đầu tư
nước ngoài vào du lịch để phát triển hạ tầng, nâng cao năng lực phục vụ khách trong
và ngồi nước. Với tác động tích cực từ q trình hội nhập quốc tế, nhiều doanh
nghiệp nước ngồi sẽ đầu tư cho kinh tế VN nói chung và ngành du lịch nói riêng.
Đặc biệt, nền kinh tế VN là nền KTTT định hướng XHCN, với sự tham gia vào hoạt
động kinh doanh trong ngành du lịch của các chủ thể nước ngoài nhiều kinh nghiệm
và vượt trội hơn các chủ thể trong nước về nhiều mặt, cùng với quy luật cạnh tranh sẽ
thúc đẩy sự phát triển của ngành du lịch không chỉ nâng cao về chất lượng mà còn làm
phong phú các dịch vụ du lịch. Điều này đã tạo ra môi trường thúc đẩy các doanh
nghiệp vươn lên để tự hồn thiện mình, nâng cao tính hiệu quả và sức cạnh tranh nếu
muốn tồn tại trên thị trường. Với các doanh nghiệp nhỏ và vừa, cũng như các ngành
khác, hội nhập là đi cùng với sự thanh lọc những doanh nghiệp yếu kém về năng lực
cạnh tranh và chuyên môn nghiệp vụ, hạn chế tối đa được tình trạng “con sâu làm rầu
nồi canh” như trong thời gian qua. Nhưng đối với những doanh nghiệp đã khẳng định
được tên tuổi và thương hiệu thì đây chính là cơ hội tốt nhất để họ nâng cao vị thế của
mình.
Thứ tư, Đây cũng là điều kiện thuận lợi cho VN học hỏi kinh nghiệm từ các nước
phát triển. Thông qua các hiệp định quốc tế, VN buộc phải tuân thủ các quy định của
hiệp định. Các nguyên tắc cũng như quy định trong các hiệp định quốc tế đều mang
tính tích cực, đây là những bài học nền tảng, căn bản nhất đối với VN khi tham gia hội
nhập quốc tế. Đối với ngành du lịch cũng vậy, thông qua việc tuân thủ các hiệp định
đã ký kết, du lịch VN đã có những cơ sở để từ đó phát triển. Bên cạnh đó, với lợi thế
của một nước đi sau trong thời đại hưng thịnh của nền KT tri thức, hội nhập quốc tế
mở ra cho VN cơ hội học tập, tiếp cận dễ dàng với những sự tiến bộ (về khoa học
công nghệ, kỹ thuật,…), những kinh nghiệm về phát triển du lịch của các nước phát
triển thông qua các hiệp định về hợp tác, đầu tư, đào tạo nguồn nhân lực,…
Đặc điểm của thị trường du lịch khác với thị trường hàng hóa nên du lịch có tính
độc lập cao trong cạnh tranh tồn cầu, khơng bị phụ thuộc vào thị trường Mỹ cũng
như không bị ảnh hưởng bởi các hiệp định về thuế quan và thương mại quốc tế như
hàng hóa thơng thường. Dự báo, trong những năm tới, châu Á – Thái Bình Dương sẽ
là khu vực thu hút dòng khách du lịch nhiều nhất với mức tăng trưởng bình quân 7-
8%. Đây cũng chính là một điều kiện thuận lợi để Việt Nam xúc tiến các chương trình
quảng bá, thu hút du khách.
Nguồn nhân lực
VN có lợi thế về nguồn lao động dồi dào, năng động, nhạy bén trong tiếp thu
khoa học công nghệ tiến bộ. Ngành du lịch được xem là một ngành “khơng khói”,
đem lại lợi nhuận cao, đồng thời tạo nhiều cơ hội việc làm cho người lao động. Với
nguồn lao động dồi dào, đây là một trong những cơ hội mà không phải bất kỳ quốc gia
nào cũng có, chính vì vậy, VN cần tận dụng hiệu quả cơ hội này. Nguồn nhân lực VN
có khả năng nắm bắt nhanh những đòi hỏi của thị trường, thể hiện thông qua số lượng
và chất lượng nguồn nhân lực tham gia trong hoạt động du lịch và dịch vụ có liên
quan ngày càng tăng khi du lịch được định hướng sẽ trở thành nền KT mũi nhọn của
VN. Tuy số lượng đội ngũ lao động này đã qua đào tạo là còn khá thấp so với nhu cầu
của thị trường, tuy nhiên điểm tích cực là số lượng này vẫn đang có xu hướng tăng
nhanh khi ngành du lịch là một trong những ngành được cho là “hot” nhất trong hệ
thống các ngành tại các trường đại học, cao đẳng của VN.
Sự tham gia nhiệt tình vào ngành du lịch từ tư nhân, cá nhân
Chính vì bản chất đặc biệt của du lịch, đó là ngành cơng nghiệp “khơng khói”,
với nhiều hoạt động dịch vụ phong phú mà bất cứ chủ thể nào trong xã hội cũng có thể
tham gia vào. Ví dụ như đối với các khu du lịch, người dân bản địa cũng có thể tiến
hành các hoạt động cung ứng dịch vụ về du lịch (homestay, dịch vụ ăn uống, mua
sắm,…), điều này không chỉ tạo thu nhập hay việc làm cho người dân địa phương mà
cịn góp phần phát triển du lịch của đia phương đó. Điều này đã thu hút các doanh
nghiệp trong nước lẫn nước ngồi tham gia góp vốn hoặc trực tiếp đầu tư vào ngành
du lịch.
Ví dụ: Số lượng các cơ sở cung cấp dịch vụ nghỉ dưỡng, ăn uống ngày càng
tăng. Theo Tổng Cục Du lịch, đến cuối năm 2015, cả nước có 18800 cơ sở lưu trú với
355000 buồng; trong đó, số lượng khách sạn 3 – 5 sao đạt 747 khách sạn, tăng 16.7%
so với mức 640 khách sạn 3-5 sao của năm 2014. Cụ thể, cả nước có 441 khách sạn 3
sao với 30,734 buồng, 215 khách sạn 4 sao với 27,379 buồng và 91 khách sạn 5 sao
với 24,212 buồng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1) />2) />
2015-1888570143;
3)
1. Điểm mạnh
a) Về tài nguyên du lịch:
- Có thể nhận định, Việt Nam có hệ thống tài nguyên du lịch phong phú và khá
hấp dẫn. Với diện tích phần đất liền của Việt Nam trên 330.000 km2 trải dọc nhiều vĩ
tuyến bắc-nam với 3/4 đồi núi, địa hình, khí hậu đa dạng tạo nên diện mạo hệ sinh thái
vô cùng đa dạng và phong phú thể hiện qua những danh lam thắng cảnh như Hạ Long,
Sapa, Phong Nha-Kẻ Bàng, Vân phong.. là những kỳ quan của thời đại có sức hút du
lịch mạnh mẽ. Có thể nói, Việt nam được xếp vào danh mục các quốc gia có sự đa
dạng sinh học cao, giàu tài nguyên thiên nhiên là điều kiện tốt để phát triển du lịch.
-Với 3.200 km bờ biển và trên 4000 hịn đảo ven bờ và hệ thống quần đảo Hồng Sa
và Trường Sa; nhiều bãi biển như Sầm Sơn, Thiên Cầm, Non Nước, Mỹ Kê, Mũi Né,
Vũng Tàu.., vịnh đẹp và nổi tiếng như Hạ Long, Nha Trang, Xuân Đài, cùng với các
đảo gần bờ như Cát Bà, Cù Lao Chàm, Lý Sơn, Phú Quý, Côn Đảo, Phú Quốc... là thế
mạnh nổi trội của Việt Nam đối với phát triển du lịch biển đảo.
-Với trên 4000 năm lịch sử và bề dày truyền thống văn hóa của 54 dân tộc sinh sống
trải dài từ bắc chí nam; nền văn hóa lúa nước với bản sắc đậm đà thể hiện qua lối
sống, tơn giáo, văn hóa dân gian, lễ hội, ẩm thực Việt Nam và đặc biệt là các di sản
văn hóa như Cố Đơ Huế, Hội An, Hồng Thành Thăng Long, Cồng Chiêng Tây
Nguyên, Đề Tháp Mỹ Sơn... là những điểm sáng, điều kiện rất thuận lợi về tài nguyên
du lịch nhân văn.
- Những kỳ tích lịch sử qua các thời kỳ để lại những dấu ấn hiển hách gắn liền với
những danh nhân của lịch sử như Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Trần Hưng Đạo, Trần
Nhân Tông, Lê Lợi, Quang Trung, Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp... là những thiên
anh hùng ca có sức hấp dẫn cuốn hút du khách tìm hiểu và thưởng ngoạn.
b) Về nguồn lực cho phát triển du lịch
- Những tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn kể trên qua bàn tay và khối óc
của con người nhào nặn trở thành nguồn lực cơ bản hình thành các sản phẩm du lịch.
Về tiềm năng Việt Nam có thể phát triển một hệ thống sản phẩm du lịch vô cùng
phong phú và hấp dẫn.
- Nguồn lực quan trọng là điểm mạnh đáng quan tâm đó là nguồn nhân lực phục
vụ phát triển du lịch. Với dân số 88 triệu dân, phần đông ở độ tuổi lao động sung sức
và dân số trẻ chiếm đa số, Việt Nam có thế mạnh nổi trội về thị trường lao động nói
chung và đối với phát triển du lịch nói riêng. Người Việt Nam có truyền thống lao
động cần cù, chăm chỉ, khéo léo, nhanh nhạy tiếp thu yếu tố mới và đặc biệt có tinh
thần thân ái, nhiệt tình, mến khách và sẵn sàng làm việc mọi lúc mọi nơi với mức
lương so sánh tương đối thấp so với khu vực. Đây là thế mạnh đối với phát triển dịch
vụ du lịch.
c) Về chính sách phát triển du lịch
- Sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với phát triển du lịch thể hiện qua các
Nghị quyết các kỳ Đại hội đảng lần thứ VII, VIII, IX, X và XI, Chỉ thị của Ban Bí
Thư, Nghị quyết của Chính phủ. Qua đó du lịch được nhận thức đúng hơn với vai trò
là ngành kinh tế quan trọng của đất nước. Đặc biệt từ 1999 với sự ra đời của Pháp
Lệnh Du lịch và đến 2005 là Luật Du lịch đã đi vào cuộc sống.
- Sự ổn định chính trị và chính sách ngoại giao cởi mở làm bạn với các nước và
vùng lãnh thổ trên thế giới cùng với sự nhận thức đúng đắn, sự quan tâm của Đảng và
Nhà nước là những yếu tố rất thuận lợi mở đường cho du lịch phát triển.
d) Kinh nghiệm phát triển du lịch thời gian qua
- Với xuất phát điểm thấp, du lịch Việt Nam trong 2 thập kỷ qua đã vượt qua mọi khó
khăn về nguồn vốn, cơng nghệ để hội nhập và phát triển. Đây là những bài học tốt trở
thành nguồn lực mềm tạo đà phát triển du lịch cho giai đoạn tới. Tiếp tục phát huy xu
hướng thu hút lượng khách du lịch đến Việt Nam tăng trưởng nhanh và liên tục (5
triệu lượt khách quốc tế và 28 triệu lượt khách nội địa, thu nhập đạt trên 98 nghìn tỷ
đồng năm 2010). Đây là động lực quan trọng để du lịch Việt Nam tiếp tục tăng
trưởng.
- Những kinh nghiệm được đúc rút trong quản lý, vượt qua khó khăn, thách thức trong
điều kiện thiếu vốn, cơng nghệ, cạnh tranh gay gắt, bối cảnh hội nhập quốc tế có nhiều
biến động khó lường và q trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường trở thành bài
học sống cho giai đoạn phát triển mới.
- Những thành tựu phát triển du lịch giai đoạn trước về đầu tư cơ cở hạ tầng, cơ sở vật
chất kỹ thuật du lịch, nguồn nhân lực du lịch, hợp tác quốc tế và những ấn tượng, hình
ảnh về du lịch Việt Nam tích lũy qua cố gắng nhiều năm xúc tiến quảng bá du lịch
cũng như những cảm nhận của du khách khi đến du lịch Việt Nam đã và đang tạo sức
mạnh tăng trưởng cho giai đoạn tới.
- Đầu tư của giai đoạn trước đến nay đang được phát huy hiệu quả. Giai đoạn vừa qua
kết cấu hạ tầng du lịch được quan tâm hỗ trợ đầu tư của Nhà nước và thu hút được các
thành phần kinh tế tham gia đầu tư. Nhiều cơng trình giao thơng, sân bay được cải tạo
và đầu tư mới; cơ sở vật chất các khu du lịch được đầu tư, nâng cấp từng bước tạo
điều kiện mở đường cho hoạt động du lịch. Hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ sở lưu
trú và dịch vụ du lịch phát triển nhanh, chất lượng được nâng lên một bước; nhiều khu
du lịch, resorts, khu giải trí, khách sạn cao cấp đạt trình độ quốc tế đã hình thành.
Nguồn nhân lực du lịch cũng được đầu tư thích đáng, đến nay đã có 11 cao đẳng,
trung cấp chuyên nghiệp về du lịch do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch trực tiếp quản
lý và trên 60 trường đại học, cao đẳng, trung cấp có tham gia đào tạo du lịch. Hệ
thống chương trình, giáo trình đào tạo từng bước hoàn thiện nhờ sự đầu tư của nhà
nước và hỗ trợ của quốc tế thông qua dự án Luxemboug, dự án EU. Hoạt động thẩm
định và chứng nhận kỹ năng nghề đã hình thành thơng qua Hội đồng cấp chứng chỉ
VTCB nhờ vậy chất lượng nguồn nhân lực được đánh giá bài bản hơn.
2. Điểm yếu
a) Về quản lý khai thác tài nguyên du lịch
- Mặc dù Việt Nam sở hữu nguồn tài nguyên du lịch tự nhiên và nhân văn phong phú
và đa dạng nhưng cho tới nay chưa khai thác tương xứng với tiềm năng đó, thể hiện
hệ thống sản phẩm du lịch vẫn còn nghèo nàn, đơn điệu.
- Cho đến nay tài nguyên du lịch cả tự nhiên và nhân văn chưa được thống kê, đánh
giá, phân loại và xếp hạng để quản lý khai thác một cách bền vững, hiệu quả. Dẫn tới
tài nguyên du lịch thì nhiều nhưng khai thác bừa bãi, mới dừng ở bề nổi, khai thác cái
sẵn có chưa phát huy giá trị của tài nguyên.
- Sự khai thác bừa bãi, cạn kiệt tài nguyên du lịch gắn với quá trình cạnh tranh và
trách nhiệm của các bên không rõ ràng dẫn tới nguy cơ suy thoái nhanh giá trị của tài
nguyên. Sự xung đột về lợi ích kinh tế giữa các chủ thể kinh tế và các ngành, tầm nhìn
ngắn hạn và hạn chế về công nghệ dẫn tới một số tài nguyên du lịch bị tàn phá, sử
dụng sai mục đích...tác động tiêu cực tới phát triển du lịch bền vững
b) Về cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch
- Hệ thống cơ sở hạ tầng tiếp cận điểm đến còn nghèo nàn, thiếu đồng bộ. Hiện tại
trong số ít các sân bay quốc tế chỉ có Hà Nội và TP Hồ Chí Minh là 2 cửa ngõ chính
đón khách quốc tế bằng đường khơng; chưa có cảng biển đáp ứng yêu cầu đón tàu du
lịch; hệ thống đường bộ, đường sắt, đường sông đến các điểm du lịch chưa đồng bộ và
chất lượng thấp, chưa kết nối thành mạng lưới. Vì vậy những trở ngại về cơ sở hạ tầng
tiếp tục là điểm yếu cần đầu tư dài hơi.
- Hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ sở lưu trú và dịch vụ du lịch phát triển nhanh
nhưng nhìn chung tầm cỡ quy mơ, tính chất tiện nghi và phong cách sản phẩm du lịch
còn nhỏ lẻ, chưa đồng bộ, vận hành chưa chuyên nghiệp do vậy chưa hình thành được
hệ thống các khu du lịch quốc gia với thương hiệu nổi bật.
c) Về nguồn nhân lực du lịch
- Đây cũng vẫn là điểm yếu trường kỳ. Mặc dù có nhiều cố gắng trong cơng tác phát
triển nguồn nhân lực du lịch thời gian qua nhưng so với yêu cầu về tính chuyên
nghiệp của ngành dịch vụ hiện đại và hội nhập, tồn cầu hóa thì nhân lực du lịch chưa
đáp ứng kịp về kỹ năng chuyên nghiệp, hội nhập, liên kết toàn cầu.
- Lực lượng lao động du lịch tuy đông đảo nhưng tỷ lệ được đào tạo bài bản chuyên
nghiệp du lịch thấp, hơn nữa chất lượng đào tạo du lịch vẫn còn nhiều hạn chế, chưa
thích ứng kịp với xu hướng hội nhập, cạnh tranh toàn cầu.
- Đánh giá mặt bằng chung chất lượng nhân lực du lịch vẫn chưa đáp ứng yêu cầu địi
hỏi về tính chun nghiệp, kỹ năng quản lý, giao tiếp và chất lượng phục vụ. Ngành
du lịch thực sự thiếu đội ngũ lãnh đạo doanh nghiệp du lịch kiểu mẫu của thời đại với
yêu cầu cạnh tranh và hội nhập cao. Đội ngũ hướng dẫn viên chuyên nghiệp với nhiều
loại hình du lịch và ứng với các ngơn ngữ thuộc thị trường mục tiêu vẫn chưa sẵn sàng
đầy đủ.
d) Về phát triển sản phẩm và thị trường
- Sản phẩm du lịch chậm đổi mới; phần lớn các doanh nghiệp du lịch có quy mơ vừa
và nhỏ, thiếu vồn, cơng nghệ nên khai thác những tài ngun có sẵn hoặc sao chép để
hình thành sản phẩm du lịch. Vì vậy tính chất độc đáo, giá trị nguyên bản và ý tưởng
của sản phẩm du lịch rất nghèo nàn và trùng lắp giữa các vùng miền. Quá trình phát
triển sản phẩm chưa được nghiên cứu bài bản vì vậy chất lượng và giá trị hàm chứa
trong sản phẩm thấp. Sự nghèo nàn, ít sáng tạo, thiếu tính độc đáo, đặc sắc; thiếu đồng
bộ và thiếu liên kết là thuộc tính phổ biến của sản phẩm du lịch hiện nay và là điểm
yếu chính của du lịch Việt Nam. Kết quả là sản phẩm, dịch vụ du lịch có hàm lượng
giá trị gia tăng thấp, sản phẩm trùng lắp, suy thoái nhanh.
- Sự hạn chế, yếu kém trong nghiên cứu thị trường du lịch cả ở tầm vĩ mô và ở cấp
doanh nghiệp. Việc nghiên cứu phân đoạn thị trường để xác định thị trường mục tiêu
chưa thực sự đi trước một bước và thường thụ động. Kết quả nghiên cứu thị trường
chưa được ứng dụng, theo đuổi triệt để, dẫn tới các chính sách thị trường rất cảm tính,
thiếu cơ sở và bị nhiễu loạn thông tin, biểu hiện trong sự a rua, bày đàn trong đầu tư
và cạnh tranh trên thị trường.
- Xúc tiến quảng bá du lịch chưa chuyên nghiệp, chưa bài bản, chưa hiệu quả; mới
dừng ở quảng bá hình ảnh chung, chưa tạo được tiếng vang và sức hấp dẫn đặc thù
cho từng sản phẩm, thương hiệu du lịch. Một số địa danh du lịch được quốc tế biết
đến như Hạ Long, Sapa, Hà Nội, Huế, Hội An, Đà Lạt, Sài Gịn (Thành phố Hồ Chí
Minh) nhưng hình ảnh vẫn chưa đậm nét.
e) Về vốn và cơng nghệ
- Nhu cầu đầu tư vào du lịch là rất lớn trong khi đó nguồn lực về vốn và cơng nghệ
của du lịch Việt Nam còn rất hạn chế. Thị trường vốn của Việt Nam mới được hình
thành nhưng tiềm lực cịn yếu và vì vậy chưa ổn định và chưa phát huy được vai trò
điều tiết.
- Các dòng đầu tư FDI trong du lịch chiếm tỷ trọng lớn tuy vậy chỉ tập trung vào lĩnh
vực bất động sản du lịch; nhiều dự án FDI có tình trạng treo do thiếu điều kiện liên
quan như cơ sở hạ tầng, nguồn nhân lực và chính sách hỗ trợ.
- Sự tự lực khánh sinh về công nghệ, kỹ thuật và nguồn nhân lực bậc cao của Việt
Nam còn rất hạn chế và phụ thuộc vào phía đối tác liên doanh liên kết bên ngồi.
f) Về quản lý du lịch và vai trị của nhà nước
- Công tác quản lý nhà nước về du lịch chậm được đổi mới; Luật du lịch và các luật,
pháp lệnh liên quan, hệ thống văn bản pháp quy hướng dẫn thi hành còn thiếu đồng bộ
và chưa huy động được các nguồn lực cho phát triển du lịch. Nhiều chính sách cịn
chồng chéo, bó chân lẫn nhau. Hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật chuyên ngành
chưa được hình thành và hợp chuẩn khu vực và quốc tế; thủ tục hành chính cịn rườm
rà và chậm đặc biệt là thủ tục thị thực xuất nhập cảnh và quy trình quản lý chất lượng
dịch vụ cịn nhiều yếu kém;
- Tổ chức bộ máy của ngành có nhiều thay đổi, chưa thực sự ổn định để phát huy hiệu
lực, hiệu quả; quản lý liên ngành, liên vùng rất yếu. Công tác quản lý và thực hiện quy
hoạch du lịch còn nhiều bất cập, hiệu quả chưa được như mong muốn.
- Công tác quản lý đảm bảo phát triển bền vững, an ninh, an tồn, văn minh du lịch
cịn thiếu kinh nghiệm và chưa có tầm nhìn dài hạn nên kém hiệu quả và thiếu tính
bền vững; quản lý bảo tồn và phát huy giá trị di sản, bảo vệ môi trường chưa đáp ứng
yêu cầu.
- Nhận thức về du lịch cả ở cấp quản lý nhà nước, quản lý kinh doanh và trong nhân
dân cịn thấp, chưa đầy đủ và đồng bộ, tầm nhìn ngắn hạn trong tư duy chịu tác động
của nhóm lợi ích cục bộ do vậy vẫn còn khoảng cách xa so với yêu cầu phát triển.
3. Cơ hội
- Diễn biến kinh tế, chính trị, an ninh thế giới có tác động mạnh hơn khi Việt Nam hội
nhập ngày càng sâu và toàn diện. Việt Nam đã gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO). Tồn cầu hóa là một xu thế khách quan, lôi cuốn các nước, các vùng lãnh thổ
vừa thúc đẩy hợp tác, vừa tăng sức ép cạnh tranh và tính phụ thuộc lẫn nhau. Quan hệ
song phương, đa phương ngày càng được mở rộng trong các hoạt động kinh tế, văn
hóa, xã hội, mơi trường và những vấn đề chung hướng tới mục tiêu thiên niên kỷ. Các
mối quan hệ Á-Âu, Mỹ- Châu Á, Nhật Bản-ASEAN và các nền kinh tế trong APEC
ngày càng phát triển theo chiều hướng tích cực.
- Quan hệ ngoại giao tích cực của Việt Nam với thế giới đang mở ra cơ hội thu hút đầu
tư vốn và cộng nghệ vào Việt Nam nói chung và đầu tư du lịch nói riêng. Các nền
kinh tế lớn, các tổ chức quốc tế đang tích cực hỗ trợ Việt Nam trong q trình chuyển
đổi nền kinh tế sang cơ chế thị trường, trong đó dòng đầu tư FDI và ODA cho phát
triển du lịch ngày một tăng.
- Châu Á-Thái Bình Dương vẫn là khu vực phát triển năng động và thu hút du lịch.
Hợp tác trong khối ASEAN ngày càng tăng cường về chiều sâu. Hiệp hội du lịch Châu
Á-Thái Bình Dương (PATA) hoạt động ngày càng có tiêu điểm hơn. Việt Nam đang
trở quốc gia, điểm đến, thị trường mới nổi với những lợi thế nhất định trong hợp tác
song phương và đa phương. Các dòng di chuyển vốn đầu tư và luồng khách du lịch
đang có xu hướng dịch chuyển mạnh tới khu vực Châu Á-Thái Bình Dương trong đó
Việt Nam được hình tượng như “ngơi sao” đang lên.
- Xu hướng phát triển của nền kinh tế tri thức, khoa học công nghệ được ứng dụng
ngày càng có hiệu qua và có sức lan tỏa vô cùng nhanh và rộng. Kinh nghiệm quản lý
tiên tiến, công nghệ hiện đại, nguồn nhân lực chất lượng cao làm thay đổi căn bản
phương thức quan hệ kinh tế, đặc biệt công nghệ thông tin truyền thông được ứng
dụng mạnh trong hoạt động du lịch. Việt Nam có cơ hội đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng
khi bắt kịp xu hướng và nhanh chóng tiếp thu cơng nghệ mới ứng dụng trong phát
triển du lịch.
- Du lịch đã là một xu hướng phổ biến trên toàn cầu, du lịch quốc tế liên tục tăng
trưởng; du lịch nội khối chiếm tỷ trọng lớn; du lịch khoảng cách xa có xu hướng tăng
nhanh. Du lịch trở thành một trong những ngành kinh tế dịch vụ phát triển nhanh nhất
và lớn nhất trên bình diện thế giới, góp phần vào sự phát triển và thịnh vượng của các
quốc gia. Đặc biệt các nước đang phát triển, vùng sâu, vùng xa coi phát triển du lịch là
cơng cụ xố đói, giảm nghèo và tăng trưởng kinh tế. Đây là cơ hội to lớn về xu thế
thời đại mà Việt Nam có thể tận dụng để phát triển các loại hình du lịch mới, đa dạng
tận dụng lợi thế về tài nguyên du lịch để nhanh chóng đạt mục tiêu phát triển, đặc biệt
xu hướng du lịch cộng đồng đang nổi lên là cơ hội thúc đẩy phát triển kinh tế cho các
vùng nghèo và quốc gia đang phát triển như Việt Nam.
- Việt Nam về vị trí địa lý gần với thị trường khổng lồ Trung Quốc và các nước Đông
bắc Á (Nhật Bản, Hàn Quốc) với trên 1,5 tỷ người tiêu dùng du lịch có thu nhập cao
và đang tăng mạnh. Cơ hội thu hút một phần thị trường khách du lịch đến từ các quốc
gia này mở ra cho Du lịch Việt Nam một chân trời rộng lớn.
4. Thách thức
- Du lịch Việt Nam sẽ chịu tác động mạnh mẽ của những bất ổn chính trị, xung đột,
khủng bố, dịch bệnh, thiên tai, khủng khoảng kinh tế, tài chính tại ở các nước đối tác,
các thị trường truyền thống. Khi là thành viên của WTO những tác động tiêu cực này
sẽ diễn ra mạnh mẽ hơn, khó lường hơn trong khi năng lực thích ứng và ứng phó với
những biến động trên thị trường của Việt Nam còn hạn chế. Tranh chấp, bất đồng khu
vực, đặc biệt vấn đề gắn với biển đơng có tác động mạnh, trực tiếp và đột ngột đến
hoạt động du lịch của Việt Nam. Đây là thách thức bao trùm trong quá trình hội nhập
du lịch tồn cầu, ứng phó với khủng khoảng kinh tế, bất ổn an ninh, chính trị trên bình
diện quốc tế.
- Sức ép cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt, đặc biệt đối với Du lịch Việt Nam là
ngành còn non trẻ và còn nhiều điểm yếu. Cạnh tranh giữa các điểm đến trong khu
vực như Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Philiphines, Cămphuchia đang trở lên quyết
liệt hơn với quy mơ và tính chất mới do có yếu tố cơng nghệ mới và tồn cầu hóa. Sự
cạnh tranh này cả về dòng vốn đầu tư và thu hút khách, cả về chất lượng và hiệu quả
kinh doanh và xây dựng hình ảnh, thương hiệu quốc gia. Những yếu tố cạnh tranh
quốc tế đòi hỏi Việt Nam phải đầu tư nâng cao sức cạnh tranh cho sản phẩm du lịch
với lợi thế quốc gia và sự độc đáo của văn hóa dân tộc Việt Nam nếu khơng sẽ thua
thiệt trong cạnh tranh tồn cầu.
- Biến đổi khí hậu đang có tác động mạnh mẽ hơn so với dự báo. Du lịch Việt Nam
với thế mạnh tập trung vào biển đảo sẽ đứng trước thách thức vơ cùng lớn và khó
lường trước ảnh hưởng của triều cường, mực nước biển dâng ở các vùng duyên hải,
vùng châu thổ sông Hồng và sơng Cửu Long. Những dị thường của khí hậu tác động
trực tiếp gây khó khăn, trở ngại tới hoạt động du lịch. Trên bình diện thế giới, Việt
Nam được xác định là 1 trong các quốc gia chịu tác động mạnh nhất của biến đổi khí
hậu bởi mực nước biển dâng. Ngồi ra ơ nhiễm mơi trường cục bộ đang trở thành mối
đe dọa đối với điểm đến du lịch nếu chậm có giải pháp kiểm sốt thích đáng.
- Nhu cầu du lịch thế giới có nhiều thay đổi, hướng tới những giá trị mới được thiết
lập trên cơ sở giá trị văn hố truyền thống (tính độc đáo, ngun bản), giá trị tự nhiên
(tính nguyên sơ, hoang dã), giá trị sáng tạo và cơng nghệ cao (tính hiện đại, tiện nghi).
Du lịch bền vững, du lịch xanh, du lịch có trách nhiệm, du lịch cộng đồng gắn với xố
đói giảm nghèo, du lịch hướng về cội nguồn, hướng về thiên nhiên là những xu hướng
nổi trội. Chất lượng môi trường trở thành yếu tố quan trọng cấu thành giá trị thụ
hưởng du lịch. Đây là thách thức vô cùng lớn về quan điểm, nhật thức và chuyên môn
kỹ thuật. Du lịch Việt Nam nếu không nắm bắt kịp xu hướng này sẽ đứng trước nguy
cơ tụt hậu, mất thị phần và hiệu quả thấp. Sự quay lưng của du khách với điểm đến sẽ
là thảm họa.
Những nhận định mang tính tổng quát trên đây là tiền đề cơ sở cho các bên liên quan
xem xét và hóa giải bằng các chiến lược, chính sách, quy hoạch, kế hoạch, bước đi và
hành động cụ thể phù hợp với tình hình. Những quyết định khơn ngoan được lựa chọn
là dựa vào thế mạnh, quyết tâm khắc phục yếu kém, vượt lên thách thức và tranh thủ
được cơ hội để gặt hái thành công./.
Trong bối cảnh nền kinh tế Thế giới nói chung và kinh tế Việt Nam nói riêng vẫn đang
trong q trình khắc phục suy thối, tái cấu trúc và từng bước tìm kiếm động lực tăng
trưởng mới, mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn thách thức nhưng ngành Du lịch
Việt Nam đã nhanh chóng phục hồi và tăng trưởng khá. Kết thúc năm 2013, cả nước
đón 7,57 triệu lượt khách quốc tế, tăng 10,6%; 35 triệu lượt khách nội địa; tổng thu
trực tiếp từ khách du lịch đạt 200 ngàn tỷ đồng. Như vậy, chỉ 4 năm sau khi bị suy
giảm vào năm 2009, lượng khách quốc tế đến Việt Nam đã tăng gấp 2 lần; tổng thu du
lịch tăng 2,3 lần và đã hoàn thành mục tiêu 2015 của Chiến lược trước 2 năm. Có thể
khẳng định, giai đoạn vừa qua, ngành Du lịch đã trải qua một bước dài tăng trưởng
với sự mở rộng quy mô, lớn mạnh tiềm lực về cơ sở vật chất kỹ thuật dịch vụ du lịch;
hệ thống hạ tầng gắn với quy hoạch và đầu tư phát triển các khu, tuyến, điểm, đô thị
du lịch trên 7 vùng du lịch của cả nước; hệ thống doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực lữ
hành, lưu trú, vận chuyển, giải trí...với chuỗi các sản phẩm du lịch đa dạng hướng tới
nhiều thị trường mới, đồng thời với lực lượng lao động trực tiếp và gián tiếp được
tăng cường cả về số lượng và trình độ chuyên nghiệp... Những thành tựu đó đã đánh
dấu mốc quan trọng trong lịch sử phát triển ngành Du lịch trước thềm hội nhập và
phát triển của thời kỳ mới.
Tuy nhiên, nhìn nhận một cách khách quan có thể thấy thực trạng phát triển du lịch
Việt Nam những năm qua vẫn còn nhiều hạn chế và chưa phát huy đúng với tiềm năng
và nguồn lực vốn có, chưa thể hiện được đẳng cấp chất lượng, hiệu quả, tính bền
vững, thương hiệu và sức cạnh tranh. Trước yêu cầu phát triển và hội nhập, ngành Du
lịch đối diện với những cơ hội và những thách thức:
Về cơ hội:
Trước hết là cơ hội gia tăng tiếp cận nguồn khách quốc tế khi Viêt Nam hội nhập sâu
và toàn diện với khu vực và thế giới. Hợp tác trong khối ASEAN ngày càng tăng
cường về chiều sâu. Việt Nam đang trở thành điểm đến, thị trường mới nổi với những
lợi thế nhất định trong hợp tác song phương và đa phương. Các dòng khách du lịch
đang có xu hướng dịch chuyển mạnh tới khu vực Châu Á-Thái Bình Dương trong đó
Việt Nam ngày càng được thế giới biết đến với những giá trị về bản sắc văn hóa và
cảnh quan sinh thái đặc sắc của đất nước và con người Việt Nam và được ví như “ngôi
sao” đang lên. Đây là cơ hội vàng khi Châu Á-Thái Bình Dương nói chung và
ASEAN nói riêng đang trở thành khu vực năng động nhất tồn cầu, có sức hấp dẫn du
lịch mạnh mẽ. Theo Tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO), 9 tháng đầu năm 2013,
Châu Á-Thái Bình Dương tăng trưởng 6% và Đông Nam Á tăng trưởng 12% trên mức
trung bình tồn cầu 5%. Xu hướng này mang đến những dịng khách quốc tế tìm đến
Việt Nam là một điểm đến cần khám phá với những giá trị và trải nghiệm mới. Đặc
biệt, Việt Nam ở rất gần với thị trường khổng lồ Trung Quốc và các nước Đông Bắc Á
(Nhật Bản, Hàn Quốc) với trên 1,5 tỷ người tiêu dùng du lịch có thu nhập cao và đang
tăng mạnh. Cơ hội thu hút một phần thị trường khách du lịch đến từ các quốc gia này
mở ra cho du lịch Việt Nam một chân trời rộng lớn.
Tình hình chính trị xã hội của Việt Nam ổn định; kinh tế tiếp tục tăng trưởng dù tốc
độ có chậm lại, đất nước hội nhập với khu vực và thế giới ngày càng sâu và tồn diện
với chính sách ngoại giao rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa, Việt Nam là bạn và
đối tác tin cậy của các nước; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được cải thiện,
tiếp tục nhận được sự hợp tác, hỗ trợ tích cực của cộng đồng quốc tế, đặc biệt là hợp
tác trong khối ASEAN hướng tới cộng đồng ASEAN vào năm 2015, hợp tác GMS,
ACMECS, APEC, TPP... là những điều kiện thuận lợi mở đường cho du lịch phát
triển. Quan hệ ngoại giao tích cực của Việt Nam với thế giới đang mở ra cơ hội thu
hút đầu tư vốn và cơng nghệ vào Việt Nam nói chung và đầu tư du lịch nói riêng. Các
nền kinh tế lớn, các tổ chức quốc tế đang tích cực hỗ trợ Việt Nam trong quá trình
chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, trong đó dịng đầu tư FDI và ODA cho phát
triển du lịch ngày một tăng cùng với quá trình tiếp cận thị trường, tham gia vào chuỗi
giá trị toàn cầu và tiếp nhận chuyển giao công nghệ.
Đồng thời, kinh tế trong nước phát triển, thu nhập và đời sống của đại bộ phận tầng
lớp trung lưu trở lên ở nước ta ngày càng gia tăng tạo ra động lực kích cầu du lịch
mạnh mẽ. Số lượng khách du lịch nội địa đông đảo với trên 35 triệu lượt (2013) đã trở
thành động lực tạo cơ hội cho ngành Du lịch mở rộng quy mô và thúc đẩy tăng trưởng
các lĩnh vực dịch vụ về mọi phương diện và loại hình du lịch đa dạng.
Xu hướng phát triển của nền kinh tế tri thức, khoa học công nghệ được ứng dụng
ngày càng có hiệu quả và có sức lan tỏa vơ cùng nhanh và rộng. Kinh nghiệm quản lý
tiên tiến, công nghệ hiện đại, nguồn nhân lực chất lượng cao làm thay đổi căn bản
phương thức quan hệ kinh tế, đặc biệt công nghệ thông tin truyền thông được ứng
dụng mạnh trong hoạt động du lịch. Việt Nam có cơ hội đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng
khi bắt kịp xu hướng và nhanh chóng tiếp thu cơng nghệ mới ứng dụng trong phát
triển du lịch.
Du lịch đã là một xu hướng phổ biến trên toàn cầu, du lịch quốc tế liên tục tăng
trưởng; du lịch nội địa chiếm tỷ trọng lớn; du lịch khoảng cách xa có xu hướng tăng
nhanh. Du lịch trở thành một trong những ngành kinh tế dịch vụ phát triển nhanh nhất
và lớn nhất trên bình diện tồn cầu, góp phần vào sự phát triển và thịnh vượng của các
quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát triển, vùng sâu, vùng xa coi phát triển du lịch
là cơng cụ xố đói, giảm nghèo và tăng trưởng kinh tế. Đây là cơ hội to lớn có tính xu
thế và thời đại mà Việt Nam có thể tận dụng để phát triển các loại hình du lịch mới, đa
dạng tận dụng lợi thế về tài nguyên du lịch để nhanh chóng đạt mục tiêu phát triển,
đặc biệt xu hướng du lịch cộng đồng đang nổi lên là cơ hội thúc đẩy phát triển kinh tế
cho các vùng nghèo và quốc gia đang phát triển như Việt Nam.
Về thách thức:
Thị trường thế giới biến động khó lường; hậu quả của khủng hoảng kinh tế toàn cầu
tác động mạnh tới quy mơ, tính chất của thị trường gửi khách đến Việt Nam. Năng lực
cạnh tranh của ngành Du lịch còn non yếu, chất lượng, hiệu quả thấp, thiếu bền vững
trong khi môi trường cạnh tranh giữa các quốc gia, khu vực và giữa các ngành, các
vùng, sản phẩm ngày càng gay gắt khi hội nhập sâu và toàn diện vào khu vực và toàn
cầu.
Nhận thức, kiến thức quản lý và phát triển du lịch chưa đáp ứng yêu cầu; Cơ chế,
chính sách quản lý cịn bất cập chưa giải phóng mạnh năng lực kinh doanh; vai trị và
năng lực của khối tư nhân, hội nghề nghiệp chưa được phát huy đúng mức; hệ thống
văn bản quy phạm pháp luật chưa thống nhất và phát huy hiệu lực, hiệu quả tồn diện
vẫn là những khó khăn đối với phát triển du lịch theo hướng hiện đại, trình độ cao.
Du lịch tăng trưởng gia tăng sức ép lên môi trường; quy hoạch phát triển du lịch bị
tác động mạnh bởi xung đột về lợi ích và thiếu tầm nhìn trong đầu tư phát triển dẫn tới
không gian du lịch bị phá vỡ; tài nguyên có nguy cơ bị tàn phá, suy thối nhanh và
mơi trường du lịch bị xâm hại là những thách thức đối với phát triển bền vững. Kết
cấu hạ tầng yếu kém, thiếu đồng bộ làm cho khả năng tiếp cận điểm đến du lịch gặp
nhiều khó khăn, nhất là đối với các vùng núi cao, vùng sâu vùng xa. Sản phẩm, dịch
vụ du lịch chưa thật sự đặc sắc, còn trùng lặp và thiếu quy chuẩn; chất lượng chưa đáp
ứng dẫn tới sức cạnh tranh yếu, kém hấp dẫn; xúc tiến quảng bá thiếu chuyên nghiệp
và hiệu quả, đầu tư ít và manh mún, thiếu nhân lực chuyên nghiệp; thiếu đội ngũ
chuyên gia đầu ngành, quản lý tinh thơng và lao động trình độ cao; tính thời vụ, thời
tiết khắc nghiệt, đặc biệt ở miền Bắc và miền Bắc Trung bộ; tác động của biến đổi khí
hậu; mức sống trong dân cư phần đơng cịn thấp, nếp sống văn minh, ý thức pháp luật
không nghiêm và các vấn đề xã hội khác như an toàn giao thơng, vệ sinh an tồn thực
phẩm, chèo kéo, ép giá… Đây là những khó khăn thách thức vơ cùng lớn lớn để đạt
tới trình độ phát triển chuyên nghiệp với chất lượng, hiệu quả, giá trị gia tăng, thương
hiệu và sức cạnh tranh quốc gia.
Mặt khác du lịch Việt Nam sẽ chịu tác động mạnh mẽ của những bất ổn chính trị,
xung đột, khủng bố, dịch bệnh, thiên tai, khủng hoảng kinh tế, tài chính tại ở các nước
đối tác, các thị trường truyền thống. Khi đã là thành viên của WTO, những tác động
tiêu cực này sẽ diễn ra mạnh mẽ hơn, khó lường hơn trong khi năng lực thích ứng và
ứng phó với những biến động trên thị trường của Việt Nam còn hạn chế. Đây là thách
thức bao trùm trong q trình hội nhập du lịch tồn cầu, ứng phó với khủng khoảng
kinh tế, chính trị trên bình diện quốc tế. Sức ép cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt
khi du lịch Việt Nam vẫn là ngành kinh tế còn non trẻ và còn nhiều điểm yếu. Cạnh
tranh giữa các điểm đến trong khu vực đang trở lên quyết liệt hơn với quy mơ và tính
chất mới do có yếu tố cơng nghệ mới và tồn cầu hóa, bao gồm cạnh tranh cả về dịng
vốn đầu tư và thu hút khách, cả về chất lượng và hiệu quả kinh doanh và xây dựng
hình ảnh, thương hiệu quốc gia, đòi hỏi phải tập trung nguồn lực để đầu tư nâng cao
sức cạnh tranh cho sản phẩm du lịch.
Biến đổi khí hậu đang có tác động mạnh mẽ hơn so với dự báo. Du lịch biển đảo sẽ
đứng trước thách thức vơ cùng lớn và khó lường trước ảnh hưởng của triều cường,
mực nước biển dâng ở các vùng duyên hải, vùng châu thổ sông Hồng và sông Cửu
Long. Những dị thường của khí hậu tác động trực tiếp gây khó khăn, trở ngại tới hoạt
động du lịch. Trên bình diện thế giới, Việt Nam được xác định là một trong các quốc
gia chịu tác động mạnh nhất của biến đổi khí hậu bởi mực nước biển dâng.
Nhu cầu du lịch thế giới đang thay đổi, hướng tới những giá trị mới được thiết lập
trên cơ sở giá trị văn hố truyền thống (tính độc đáo, ngun bản), giá trị tự nhiên
(tính nguyên sơ, hoang dã), giá trị sáng tạo và cơng nghệ cao (tính hiện đại, tiện nghi).
Du lịch bền vững, du lịch xanh, du lịch có trách nhiệm, du lịch cộng đồng gắn với xố
đói giảm nghèo, du lịch hướng về cội nguồn, hướng về thiên nhiên là những xu hướng
nổi trội. Chất lượng môi trường trở thành yếu tố quan trọng cấu thành giá trị thụ
hưởng du lịch. Đây là thách thức vô cùng lớn về quan điểm, nhận thức và chuyên môn
kỹ thuật, nếu không nắm bắt kịp xu hướng này sẽ đứng trước nguy cơ tụt hậy, mất thị
phần và hiệu quả thấp.
Nắm bắt xu thế phát triển và hội nhập, tranh thủ những cơ hội và phát huy các
nguồn lực, bài học rút ra để xác định bước đột phá căn bản cho giai đoạn tới là: thứ
nhất, lấy hiệu quả về kinh tế, văn hóa, xã hội và mơi trường là mục tiêu tổng thể của
phát triển; thứ hai, lấy chất lượng và thương hiệu là yếu tố quyết định; thứ ba, doanh
nghiệp là động lực đòn bẩy cho phát triển và thứ tư, phân cấp mạnh và liên kết về
quản lý là phương châm.
Quan điểm trọng tâm có tính đột phá trong Chiến lược phát triển Du lịch Việt Nam
đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 đó là: Chuyển từ phát triển trên diện rộng
sang phát triển theo chiều sâu; phát triển du lịch theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại,
có trọng tâm, trọng điểm; đảm bảo chất lượng và hiệu quả, khẳng định thương hiệu
và khả năng cạnh tranh. Đây là quan điểm định hướng cho sự phát triển của du lịch
Việt Nam trong giai đoạn tới, trên cả bình diện quốc gia và từng vùng, từng địa
phương.
Về mục tiêu phát triển đến năm 2020, đưa du lịch cơ bản trở thành ngành kinh tế
mũi nhọn, có tính chun nghiệp, có hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật tương đối đồng
bộ, hiện đại; sản phẩm du lịch có chất lượng cao, đa dạng, có thương hiệu, mang đậm
bản sắc văn hoá dân tộc, cạnh tranh được với các nước trong khu vực và thế giới.
Phấn đấu đến năm 2030, Việt Nam trở thành quốc gia có ngành du lịch phát triển. Với
tốc độ tăng trưởng trung bình cả thời kỳ 2011-2020 đạt 11,5-12%/năm; đến năm 2020
sẽ đón 10-10,5 triệu lượt khách du lịch quốc tế và 47-48 triệu lượt khách du lịch nội
địa; tổng thu từ khách du lịch đạt 18-19 tỷ USD, đóng góp 6,5-7% GDP cả nước; có
tổng số 580.000 buồng lưu trú với 35-40% đạt chuẩn từ 3 đến 5 sao; tạo ra 3 triệu việc
làm trong đó có 870.000 lao động trực tiếp du lịch. Năm 2030: tổng thu từ khách du
lịch tăng gấp 2 lần năm 2020.
Để thực hiện quan điểm và mục tiêu trên, 7 nhóm giải pháp chủ yếu được xác
định là:
1) Phát triển sản phẩm du lịch gắn với không gian 7 vùng du lịch đặc trưng: Vùng
Miền núi và trung du Bắc Bộ; Vùng Đồng bằng sông Hồng và duyên hải Đông Bắc;
Vùng Bắc Trung Bộ; Vùng Duyên hải Nam Trung Bộ; Vùng Tây Nguyên; Vùng Đông
Nam Bộ và Vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Phát triển hệ thống sản phẩm du lịch
chất lượng, đặc sắc, đa dạng và đồng bộ, có giá trị gia tăng cao, đảm bảo đáp ứng nhu
cầu của khách du lịch nội địa và quốc tế; phát triển sản phẩm du lịch “xanh”, tôn trọng
yếu tố tự nhiên và văn hóa địa phương. Quy hoạch, đầu tư phát triển sản phẩm du lịch
dựa trên thế mạnh nổi trội và hấp dẫn về tài nguyên du lịch; tập trung ưu tiên phát
triển sản phẩm du lịch biển, đảo, du lịch văn hóa và du lịch sinh thái; từng bước hình
thành hệ thống khu, tuyến, điểm du lịch quốc gia; khu, tuyến, điểm du lịch địa phương
và đô thị du lịch.
2) Phát triển hệ thống hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch: Quy hoạch,
đầu tư phát triển hệ thống hạ tầng giao thơng, thơng tin, truyền thơng, năng lượng, cấp
thốt nước, môi trường và các lĩnh vực liên quan đảm bảo đồng bộ để phục vụ yêu cầu
phát triển du lịch. Đầu tư nâng cấp phát triển hệ thống hạ tầng xã hội về văn hóa, y tế,
giáo dục như hệ thống bảo tàng, nhà hát, cơ sở khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe
và cơ sở giáo dục, đào tạo đủ điều kiện, tiện nghi tham gia phục vụ khách du lịch;
Phát triển đồng bộ, đảm bảo chất lượng, hiện đại, tiện nghi hệ thống khu, điểm du
lịch, cơ sở lưu trú, ăn uống, giải trí, đi lại tham quan... đáp ứng nhu cầu ngày càng cao
của khách du lịch.
3) Đào tạo và phát triển nhân lực du lịch đảm bảo chất lượng, số lượng, cân đối về
cơ cấu ngành nghề và trình độ đào tạo đáp ứng yêu cầu phát triển du lịch và hội nhập
quốc tế. Phát triển mạng lưới cơ sở đào tạo về du lịch mạnh với cơ sở vật chất kỹ
thuật, thiết bị giảng dạy đồng bộ, hiện đại; chuẩn hóa chất lượng giảng viên và chương
trình đào tạo. Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát
triển nhân lực du lịch phù hợp với nhu cầu phát triển du lịch từng thời kỳ, từng vùng,
miền trong cả nước; từng bước thực hiện chuẩn hóa nhân lực du lịch hợp chuẩn với
khu vực và quốc tế, đặc biệt chú trọng nhân lực quản lý và lao động có tay nghề cao;
đa dạng hóa phương thức đào tạo; khuyến khích đào tạo tại chỗ, tự đào tạo theo nhu
cầu.
4) Phát triển thị trường, xúc tiến quảng bá và thương hiệu du lịch:
Tập trung thu hút có lựa chọn các phân đoạn thị trường khách du lịch có khả năng
chi trả cao và lưu trú dài ngày; Phát triển mạnh thị trường du lịch nội địa, chú trọng
phân đoạn khách nghỉ dưỡng, vui chơi giải trí, nghỉ cuối tuần và mua sắm; Đẩy mạnh
thu hút khách du lịch quốc tế đến từ Đông Bắc Á (Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc),
Đông Nam Á và Thái Bình Dương (Sing-ga-po, Ma-lai-xi-a, In-đơ-nê-xi-a, Thái Lan,
Úc); Tây Âu (Pháp, Đức, Anh, Hà Lan); Bắc Âu; Bắc Mỹ (Mỹ, Ca-na-đa) và Đông Âu
(Nga, Ukraina); mở rộng thu hút khách du lịch đến từ các thị trường mới: Trung
Đông, Ấn Độ...
Đẩy mạnh xúc tiến, quảng bá du lịch theo hướng chuyên nghiệp, nhằm vào thị
trường mục tiêu, lấy sản phẩm du lịch và thương hiệu du lịch là trọng tâm; quảng bá
du lịch gắn với quảng bá hình ảnh quốc gia, phù hợp với các mục tiêu đã xác định;
gắn xúc tiến du lịch với xúc tiến thương mại, xúc tiến đầu tư và ngoại giao, văn hóa.
Tập trung phát triển thương hiệu du lịch quốc gia trên cơ sở thương hiệu du lịch
vùng, địa phương, doanh nghiệp và thương hiệu sản phẩm; chú trọng phát triển những
thương hiệu có vị thế cạnh tranh cao trong khu vực và quốc tế. Tăng cường sự phối
hợp giữa các ngành, các cấp và địa phương để đảm bảo hiệu ứng thống nhất.
5) Đầu tư và chính sách phát triển du lịch: Nhà nước có chính sách ưu tiên hỗ trợ
đầu tư vào hạ tầng du lịch, đào tạo nhân lực và xúc tiến quảng bá, phát triển thương
hiệu du lịch; có chính sách liên kết, huy động nguồn lực để tập trung đầu tư nâng cao
năng lực và chất lượng cung ứng dịch vụ du lịch, hình thành một số trung tâm du lịch
có tầm cỡ khu vực và quốc tế. Ưu tiên tập trung đầu tư phát triển các khu du lịch quốc
gia, điểm du lịch quốc gia, đô thị du lịch. Thực hiện chính sách phát triển bền vững;
ưu đãi đối với du lịch sinh thái, du lịch “xanh”, du lịch cộng đồng, du lịch có trách
nhiệm; khuyến khích xã hội hóa, thu hút nguồn lực trong và ngồi nước đầu tư phát
triển du lịch.
6) Hợp tác quốc tế về du lịch: Tích cực triển khai hiệu quả các chương trình hợp tác
song phương và đa phương, gắn với thị trường trọng điểm của du lịch Việt Nam; Mở
rộng các quan hệ, tranh thủ sự hỗ trợ của các nước, các tổ chức quốc tế góp phần đẩy
nhanh sự phát triển và hội nhập của du lịch Việt Nam, nâng cao hình ảnh và vị thế du
lịch Việt Nam trên trường quốc tế.
7) Quản lý Nhà nước về du lịch: Hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách tạo mơi
trường pháp lý thuận lợi cho phát triển du lịch. Tăng cường năng lực quản lý nhà nước
về du lịch; đẩy mạnh liên kết hợp tác liên ngành, liên vùng; thực hiện tốt công tác
hoạch định chiến lược, quy hoạch phát triển du lịch đảm bảo chất lượng và tính khả
thi cao; thống kê, theo dõi, quản lý luồng khách và chi tiêu đối với du lịch ra nước
ngoài trong mối tương quan với việc không ngừng nâng cao chất lượng, sức cạnh
tranh của hoạt động du lịch trong nước. Đẩy mạnh áp dụng hệ thống tiêu chuẩn ngành;
tẳng cường kiểm tra, giám sát nhằm kiểm sốt, duy trì chất lượng dịch vụ; hình thành
hệ thống kiểm định, đánh giá và quản lý chất lượng, qua đó tạo mơi trường cạnh tranh
lành mạnh trong ngành du lịch. Tăng cường phân cấp trong quản lý, đảm bảo vai trị
quản lý vĩ mơ của Nhà nước, đồng thời tạo sự chủ động của doanh nghiệp và sự tham
gia tích cực của cộng đồng dân cư. Nâng cao vai trị và trách nhiệm của chính quyền
địa phương trong việc bảo đảm môi trường, văn minh du lịch, an ninh, trật tự, an toàn
xã hội tại các khu, điểm du lịch. Tiếp tục đổi mới doanh nghiệp nhà nước; khuyến
khích doanh nghiệp có tiềm lực và thương hiệu mạnh; chú trọng phát triển doanh
nghiệp vừa và nhỏ, đặc biệt là hộ gia đình gắn với phát triển du lịch cộng đồng, du
lịch nông thôn ở vùng sâu, vùng xa. Đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng khoa học,
công nghệ; nâng cao nhận thức về du lịch, đồng thời đề cao trách nhiệm xã hội và môi
trường trong mọi hoạt động du lịch.
Nguyễn Văn Tuấn - Tổng cục trưởng Tổng cục Du lịch
/>Thuận lợi nếu biết nắm bắt
Tại Hội nghị tổng kết cơng tác du lịch năm 2015 do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
tổ chức ngày 30-12, lãnh đạo Tổng cục Du lịch và Hiệp hội du lịch Việt Nam đã phân
tích những thuận lợi và thách thức của ngành Du lịch khi hội nhập vào AEC.
Ông Nguyễn Văn Tuấn- Tổng cục trưởng Tổng cục Du lịch, hội nhập AEC mang lại
những tác động tích cực với du lịch Việt Nam đồng thời tạo ra một môi trường cạnh
tranh lành mạnh giữa các quốc gia trong khu vực.
Sở dĩ như vậy là do hợp tác phát triển sản phẩm du lịch ASEAN sẽ góp phần đa dạng
hóa các sản phẩm du lịch Việt hiện nay. Đồng thời tranh đủ được các nguồn khách nối
tour trong khu vực để qua đó tăng thêm sức hấp dẫn của du lịch khu vực ASEAN nói
chung và khả năng kết nối khách giữa Việt Nam với các nước và ngược lại.
Đó cịn chưa kể, việc nới lỏng điều kiện tự do đầu tư và di chuyển lao động giữa 12
nước nội khối trong AEC sẽ giúp gia tăng nhu cầu đi lại tìm kiếm cơ hội đầu tư, việc
làm và kết hợp du lịch, tức gia tăng dòng khách quốc tế và tăng cường mật độ, quy mơ
các loại hình du lịch- kinh doanh, du lịch- hội họp ngay trong nội khối AEC mà Việt
Nam là một thành viên.
Cịn ơng Vũ Thế Bình- Phó Chủ tịch Hiệp Hội Du lịch Việt Nam cũng cho rằng, nhờ
AEC, hoạt động du lịch sẽ có thêm điều kiện thuận lợi để phát triển và du khách quốc
tế sẽ có cơ hội làm thủ tục thuận lợi, dịch chuyển nhanh và rẻ hơn nhờ những cam kết
theo chương trình nhập cảnh tạm thời của khách kinh doanh trong khuôn khổ AEC.
Về nguồn nhân lực, các chuyên gia cho rằng, cạnh tranh trong AEC sẽ tạo áp lực buộc
người lao động phải chủ động nâng cao năng lực làm việc đáp ứng yêu cầu cạnh tranh
gay gắt với lượng lớn lao động trong khu vực.
Ơng Bình cũng cho rằng, xu thế chuyển dịch lao động nội khối vừa tạo cơ hội tìm
kiếm việc làm mới vừa gia tăng áp lực cho lao động ngành Du lịch tìm kiếm và giữ cơ
hội việc làm nhất là lao động trẻ. Do vậy, phát triển thị trường lao động có tổ chức,
chất lượng cao đang và sẽ trở thành đòi hỏi bức xúc và công cụ đắc lực để hỗ trợ và
phát triển nguồn nhân lực Việt Nam nói chung và ngành Du lịch nói riêng.
Chưa hết khó khăn
Khơng ai có thể phủ nhận những thuận lợi lớn khi ngành Du lịch hội nhập cùng Cộng
đồng kinh tế ASEAN, song cũng cịn đó những khó khăn rất lớn mà ngành Du lịch và
doanh nghiệp du lịch sẽ gặp phải.
Ông Đinh Ngọc Đức- Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế- Tổng cục Du lịch thừa nhận,
hiện sức cạnh tranh của sản phẩm du lịch Việt Nam trong khu vực ASEAN không cao,
sản phẩm dịch vụ du lịch của Việt Nam chưa tạo được điểm nhấn trong khu vực và
thiếu sức hấp dẫn đặc biệt do còn đơn điệu và trùng lặp với các sản phẩm trong khu
vực.
Về việc tiến hành xúc tiến quảng bá, ông Nguyễn Văn Tuấn cho rằng, việc thiếu
nguồn lực và cơ chế tài chính cịn nhiều vướng mắc đã ảnh hưởng chung tới hiệu quả
của việc tổ chức triển khai các hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch trong khu vực.
Tổ chức bộ máy và lực lượng thực hiện hoạt động xúc tiến quảng bá du lịch còn nhiều
bất cập. Thương hiệu du lịch Việt Nam cịn đang trong q trình hình thành, chưa tận
dụng được hiệu quả của các cơ hội để xây dựng thương hiệu.
Ở một số khía cạnh về chất lượng nguồn nhân lực, ơng Vũ Thế Bình thơng tin: Nhân
lực Việt Nam chưa đáp ứng được nhu cầu của hội nhập AEC. Lao động du lịch Việt
Nam còn kém cạnh tranh so với các nước có ngành Du lịch phát triển trong khu vực.
Chất lượng du lịch toàn ngành chưa cao, việc triển khai thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau
về nghề du lịch ASEAN cịn nhiều khó khăn vướng mắc.
Với những bất cập, hạn chế nêu trên, để có thể tận dụng các cơ hội, giảm thiểu bớt rủi
ro, thách thức trong tiến trình hội nhập, nhiều chuyên gia du lịch cho rằng các doanh
nghiệp du lịch cần chuẩn bị các sản phẩm du lịch phù hợp, hướng tới dòng khách kết
hợp kinh doanh, tập trung chất lượng và hiệu quả khai thác khách du lịch hơn là số
lượng.
Với cương vị là cơ quan quản lý Nhà nước về du lịch, ông Nguyễn Văn Tuấn cho biết,
thời gian tới cơ quan này sẽ chú trọng xây dựng, định vị và quảng bá thương hiệu du
lịch quốc gia, nâng cao chất lượng và bảo đảm môi trường du lịch, quản lý điểm đến,
định hướng đầu tư, nâng cao chất lượng hình thành một số trung tâm du lịch, tạo môi
trường cạnh tranh lành mạnh, giải quyết triệt để tình trạng đeo bám khách, trộm cắp,
an tồn giao thơng, vệ sinh an toàn thực phẩm...
"Chủ động tăng cường liên kết kết nối các nước trong khu vực, đặc biệt là các nước
gần về khoảng cách địa lý, góp phần đa dạng hóa sản phẩm, chia sẻ kinh nghiệm,
quảng bá thu hút khách từ nước thứ ba, cũng như trao đổi giữa các nước", ơng Nguyễn
Văn Tuấn nói.
/>
Nhằm cụ thể hóa sự liên kết trong chuỗi giá trị giữa ngành du lịch với các ngành liên
quan để phát triển, sáng 6.10, Bộ KHCN phối hợp cùng Tổng cục Du lịch, Hiệp hội
Thương mại điện tử VN đã tổ chức Hội thảo “Du lịch thông minh- cơ hội và thách
thức đối với Việt Nam”.
Với mục tiêu là duy trì các nhóm hoạt động theo chủ đề, qua đó tiếp tục trao đổi và
chia sẻ kinh nghiệm cũng như giải pháp chuyển đổi công nghệ số thành công sang du
lịch thơng minh. Do đó, hội thảo đã tập trung thảo luận các vấn đề như: Đẩy mạnh số
hóa, xây dựng chính quyền điện tử lấy người dân là trung tâm; Tăng cường chất lượng
môi trường cạnh tranh, hợp tác theo chuối số hóa; Cải thiện điểm đến, yếu tố mơi
trường và hỗ trợ các DN sáng tạo... Qua đó, đưa ra cái nhìn thực tiễn dựa trên mơ hình
cụ thể để các DN nhận thức cơ hội và thách thức trong quá trình chuyển đổi xu hướng
phát triển mới.
Cuộc cánh mạng 4.0 đang tác động mạnh mẽ đến tất cả các khía cạnh của đời sống xã
hội và các ngành kinh tế, làm thay đổi mơ hình hoạt động của các Cty trong tất cả các
lĩnh vực. Cùng đó du lịch cũng không là ngoại lệ với sự phát triển mạnh mẽ của kinh
doanh du lịch trực tuyến như đặt vé máy bay, phòng khách sạn...
Tại Việt Nam, trong những năm qua du lịch đã phát triển và đã trở thành một trong
những ngành kinh tế mũi nhọn với sự tăng trưởng bứt phá của năm 2016 với việc đón
trên 10 triệu lượt du khách (tăng 26%), trong đó có sự đóng góp khơng nhỏ của du
lịch trực tuyến. Phấn đấu tới năm 2020 sẽ thu hút được từ 17 đến 20 triệu lượt du
khách quốc tế.
Thứ trưởng Bộ KHCN Phạm Đại Dương phát biểu tại hội thảo. Ảnh: Đ.T
Thứ trưởng Bộ KHCN Phạm Đại Dương phát biểu tại hội thảo. Ảnh: Đ.T
Theo Thứ trưởng Bộ KHCN Phạm Đại Dương hiện xu thế sử dụng điện thoại thông
minh như du lịch thông minh, nông nghiệp thông minh và thành phố thơng minh đang
ngày một phát triển. Trong đó, du lịch là một ngành có nhiều lợi thế, do vậy muốn
biến lợi thế thành giá trị thực thì các DN làm du lịch phải đổi mới, tăng cường đổi mới
công nghệ, phát triển cả chiều rộng và chiều sâu. “Đây là cơ hội lớn để các DN làm du
lịch kết nối với nhau khai thác các lợi thế của cuộc cách mạng 4.0 để cùng phát triển”,
ông Dương nhấn mạnh
/>
Xã hội hóa hoạt động văn hóa - Những thành tựu và giải pháp
21/4/2010 2:44'Gửi bài nàyIn bài này
TCCS - Thời gian qua, cơng tác xã hội hóa hoạt động văn hóa đã thu được những kết
quả quan trọng, tiềm năng về nguồn lực to lớn của xã hội bước đầu được phát huy; xã
hội hóa khu vực ngồi cơng lập phát triển với những loại hình và phương thức hoạt
động mới, đa dạng, phong phú; khu vực công lập đã có nhiều đổi mới trong cơ chế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, công tác xã hội hóa các hoạt động văn
hóa vẫn cịn khơng ít khó khăn, yếu kém. Trong thời gian tới, cần phải tìm ra nhiều giải
pháp hữu hiệu, tiếp tục đưa hoạt động xã hội hóa phát triển mạnh mẽ hơn nữa.
1 - Những thành tựu đáng ghi nhận
Triển khai thực hiện Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP ngày 18-4-2005 của Chính phủ về đẩy
mạnh xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa và thể dục thể thao; Nghị định số
69/2008/NĐ-CP ngày 30-5-2008 của Chính phủ về chính sách khuyến khích xã hội hóa đối
với các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, dạy nghề, y tế, văn hóa, thể thao, mơi trường, Bộ
Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã xây dựng, phê duyệt và triển khai Đề án quy hoạch phát
triển xã hội hóa hoạt động văn hóa đến năm 2010. Các đơn vị trung ương trực thuộc Bộ đều
triển khai xây dựng kế hoạch, lộ trình đẩy mạnh xã hội hóa đến năm 2010; tổ chức họp triển
khai đến tồn thể cán bộ cơng nhân viên và người lao động; tổ chức nhiều hoạt động xã hội
hóa trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn có hiệu quả xã hội cao với sự tham gia của các đơn vị
nghệ thuật xã hội hóa và đơn vị nghệ thuật công lập, tạo tiếng vang thông qua các hoạt động
ủng hộ đồng bào bị lũ lụt tại các tỉnh miền Trung, ủng hộ Quỹ bảo trợ bệnh nhân nghèo
Thành phố Hồ Chí Minh... Ở địa phương, ủy ban nhân dân các tỉnh/thành đã tổ chức quán
triệt, phổ biến Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP, Nghị định số 69/2008/NĐ-CP và Quyết định
số 1466/QĐ-TTg đến các cấp, các ngành; Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch các tỉnh, thành
phố tiếp tục tham mưu cho Ủy ban nhân dân tỉnh thành lập Ban Chỉ đạo đẩy mạnh cơng tác
xã hội hóa hoạt động văn hóa. Nhiều tỉnh/thành đã ban hành một số cơ chế, chính sách
khuyến khích về đất đai, hỗ trợ đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, huy động vốn, hỗ trợ lãi suất
kích cầu, chính sách thuế, chính sách cán bộ và chính sách phát triển các loại hình dịch vụ
ngồi cơng lập. Chính vì vậy, hoạt động văn hóa, dịch vụ văn hóa do các cá nhân tự tổ chức
và huy động kinh phí đã phát triển tương đối mạnh, nhất là lĩnh vực biểu diễn nghệ thuật,
điện ảnh, thư viện, bảo tàng, bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử - văn hóa của địa phương,
khơi phục, phát triển các lễ hội truyền thống v.v..
Công tác xã hội hóa đã và đang từng bước mang lại một luồng sinh khí mới trong tồn bộ các
lĩnh vực hoạt động của ngành văn hóa, thể thao và du lịch, phù hợp với xu thế phát triển, hội
nhập kinh tế khu vực và thế giới, bước đầu đã làm thay đổi nhận thức của các cấp lãnh đạo từ
ban, bộ, ngành trung ương đến địa phương, cơ sở; từng bước tạo ra sự cân bằng giữa các đơn
vị công lập và ngồi cơng lập để đẩy mạnh phát triển sự nghiệp văn hóa.
Cơng tác xã hội hóa hoạt động bảo tàng ngày càng thu hút được sự quan tâm của quần chúng
nhân dân. Đặc biệt, sau khi Quy chế tổ chức và hoạt động của các bảo tàng tư nhân được ban
hành, đến nay, đã có sáu bảo tàng tư nhân được thành lập, gồm: Bảo tàng Hoàng Gia (Quảng
Ninh), Bảo tàng Mỹ thuật của họa sĩ Sĩ Tốt và gia đình, Bảo tàng Mỹ thuật của họa sĩ Phan
Thị Ngọc Mỹ, Bảo tàng về Chiến sĩ cách mạng bị địch bắt tù đày (Hà Tây); Bảo tàng Cổ vật
Hoàng Long (Thanh Hóa); Bảo tàng Gốm sứ Chămpa của ơng Nguyễn Vĩnh Hảo, (Bình
Định). Sự ra đời của các bảo tàng tư nhân đã hạn chế và khắc phục dần tình trạng thất thốt
cổ vật ra nước ngồi và tạo cơ hội để công chúng tiếp cận với một bộ phận di sản văn hóa
quý giá của đất nước. Các câu lạc bộ và hội sưu tầm cổ vật cũng đã được thành lập ở một số
địa phương như: Hà Nội, Nam Định, Thanh Hóa, Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Tây (trước
đây), tạo điều kiện cho các nhà sưu tầm tư nhân có cơ hội chia sẻ, trao đổi cổ vật và các thông
tin liên quan đến việc bảo vệ và phát huy di sản văn hóa. Các bảo tàng trung ương và địa
phương cũng đã phối hợp với các nhà sưu tập tư nhân tổ chức các cuộc triển lãm, trưng bày
cổ vật nhân dịp các ngày lễ lớn của dân tộc; tổ chức phát động phong trào hiến tặng hiện vật
từ các nhà sưu tập tư nhân cho các bảo tàng, đến nay đã có hơn 800 hiện vật được tiếp nhận,
điển hình là Bảo tàng Hồ Chí Minh tiếp nhận bộ sưu tập ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhiều
hiện vật, tài liệu khác liên quan đến cuộc đời, sự nghiệp hoạt động của Người ; Bảo tàng Dân
tộc học Việt Nam tiếp nhận 29 hiện vật về các dân tộc Đơng Nam Á.
Việc triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa với mục tiêu chống xuống cấp di
tích đã đạt được những kết quả to lớn. Cơng tác xã hội hóa hoạt động bảo tồn di tích đã huy
động được nhiều nguồn lực xã hội, tương đương với nguồn ngân sách đầu tư của Nhà nước.
Theo báo cáo của các địa phương, ước tính số kinh phí do nhân dân đóng góp từ năm 2001 2005 khoảng trên 500 tỉ đồng; riêng thành phố Hà Nội, từ năm 2002 - 2008, hơn 900 di tích
đã nhận được 449 tỉ đồng từ sự đóng góp của cộng đồng. Hàng trăm di tích được chống
xuống cấp, tu bổ, tôn tạo từ các nguồn lực của xã hội đã trở thành những sản phẩm du lịch văn hóa đặc thù gắn kết với nhiều tuyến du lịch hấp dẫn, thúc đẩy sự phát triển của ngành
kinh tế du lịch. Mặt khác, mối quan hệ giữa di tích và lễ hội đã và đang từng bước làm thay
đổi cơ cấu kinh tế của cộng đồng cư dân nơi có di tích, mang lại cho người dân địa phương
nhiều lợi ích cả về mặt vật chất và đời sống tinh thần.
Việc thực hiện Công ước UNSECO được phê chuẩn năm 2003 về bảo vệ di sản văn hóa phi
vật thể đã tạo ra một bước chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và hoạt động thực tiễn bảo vệ
di sản văn hóa phi vật thể ở Việt Nam. Nhiều chương trình hành động, dự án liên quan đến di
sản văn hóa phi vật thể đã và đang được triển khai; cơng tác tư liệu hóa được thực hiện khá
bài bản nhằm thiết lập một ngân hàng dữ liệu về di sản văn hóa phi vật thể; những dự án
hướng tới mục tiêu phục hồi, làm sống lại di sản văn hóa phi vật thể trước tác động của q
trình hiện đại hóa, đơ thị hóa và tồn cầu hóa ngày càng tăng.
Trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn, đã có hơn 200 tổ chức, cá nhân hoạt động theo phương
thức xã hội hóa, trong đó gần 80 đơn vị có đăng ký hoạt động thường xuyên, ổn định, số cịn
lại hoạt động mang tính tự phát, chưa có hiệu quả; hơn 700 doanh nghiệp đăng ký chức năng
tổ chức biểu diễn và hoạt động biểu diễn nghệ thuật, trong đó có khoảng 150 đơn vị, doanh
nghiệp tham gia hoạt động thường xuyên ở loại hình ca múa nhạc, thời trang.
Đối với hoạt động lễ hội, Bộ Văn hóa - Thông tin đã ba lần ban hành Quy chế tổ chức lễ hội
năm 1989, 1994 và 2001 nhằm đưa hoạt động lễ hội vào nền nếp; tham mưu để Chính phủ ra
Nghị định số 11/2006/NĐ-CP ban hành Quy chế quản lý các hoạt động văn hóa và kinh
doanh dịch vụ văn hóa cơng cộng, trong đó điều chỉnh các hoạt động lễ hội; Nghị định số
103/2009/NĐ-CP ngày 6-11-2009 ban hành Quy chế hoạt động văn hóa và kinh doanh dịch
vụ văn hóa cơng cộng. Tiếp tục qn triệt vai trị và ý nghĩa to lớn của lễ hội trong đời sống
xã hội, chỉ đạo kiểm tra công tác quản lý, tổ chức lễ hội tại một số tỉnh, thành phố lớn như:
Hà Nội, Nam Định, Hải Dương, Phú Thọ... Kịp thời chấn chỉnh, hạn chế những tiêu cực trong
hoạt động dịch vụ phục vụ lễ hội. Nguồn thu tại các lễ hội do nhân dân đóng góp được chính
quyền địa phương quản lý, sử dụng đúng mục đích.
Hoạt động xã hội hóa lĩnh vực điện ảnh chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn như Hà Nội,
Thành phố Hồ Chí Minh, trên cả hai lĩnh vực sản xuất phim và phát hành phim; số lượng
phim do các hãng tư nhân sản xuất, mơ hình cụm rạp chiếu phim tư nhân tăng lên cả về số
lượng và chất lượng, khẳng định xu hướng xã hội hóa đang đạt được những kết quả đáng
khích lệ, nổi bật như Hãng phim Phước Sang sản xuất phim “áo lụa Hà Đông”; Hãng phim
Thiên Ngân liên kết với nước ngoài triển khai hệ thống rạp chiếu phim chất lượng cao
MegaStar tại một số thành phố lớn v.v..
Xuất phát từ nhu cầu thực tế, nhiều địa phương đã xuất hiện mơ hình thư viện, phịng đọc
sách, tủ sách tư nhân phục vụ cộng đồng. Theo báo cáo của các địa phương, trên cả nước hiện
có khoảng 40 thư viện, phịng đọc sách tư nhân có phục vụ cộng đồng rải đều ở cả ba miền
Bắc, Trung, Nam. Chủ nhân của các thư viện, phòng đọc sách báo đều là những nhà hảo tâm
có điều kiện kinh tế, các nhà giáo, cán bộ hưu trí địa phương v.v.. với lịng u q sách báo,
có bộ sưu tầm sách báo tương đối phong phú, tận dụng nhà riêng hoặc bỏ tiền ra xây dựng
nhà thư viện; trang bị máy tính và một số trang thiết bị khác như ở An Giang, Tây Ninh; trả
thù lao cho người trực tiếp làm thư viện (Thư viện gia đình ơng Trương Văn Huyên ở Tiền
Giang, Thư viện Đặng - Huỳnh ở Bến Tre, Thư viện Tâm Thành ở Hải Dương...). Trung bình
mỗi thư viện có 5.000 - 10.000 bản sách (tương đương với số lượng sách của một thư viện
công cộng nhà nước cấp huyện) và 3 - 4 tên báo được bổ sung thường xuyên; phần lớn các
thư viện đều có lịch mở cửa hằng ngày, phục vụ miễn phí dưới hai hình thức: Đọc tại chỗ và
mượn về nhà. Lượt bạn đọc đối với thư viện mở cửa thường xuyên trung bình từ 30 - 40 lượt
người/ngày. Việc ra đời mơ hình thư viện tư nhân phục vụ cộng đồng có ý nghĩa hết sức to
lớn, góp phần quan trọng và khích lệ, cổ vũ “văn hóa đọc” của người dân, cải thiện và nâng
cao dân trí, đời sống văn hóa tinh thần cho nhân dân, đặc biệt là người dân vùng nơng thơn.
Những thành tựu xã hội hóa hoạt động văn hóa là đáng ghi nhận, tuy nhiên, vẫn cịn khơng ít
những mặt yếu kém, khuyết điểm. Chúng ta chưa có những giải pháp hữu hiệu để rút ngắn
khoảng cách chênh lệch về đời sống văn hóa của đồng bào miền ngược với miền xuôi, nông
thôn và thành thị. Hoạt động xã hội hóa văn hóa khơng đồng đều giữa các vùng miền và các
lĩnh vực văn hóa. Một số lĩnh vực in, phát hành các hoạt động kinh doanh dịch vụ văn hóa,
cơng tác xã hội hóa phát triển mạnh, nhưng một số lĩnh vực khác phát triển khơng đều.
Những yếu kém này có nhiều ngun nhân, như chúng ta chưa thật sâu sát tình hình, chưa
thấy hết được tính tất yếu và lợi ích lâu dài của cơng tác xã hội hóa văn hóa...
2 - Tập trung giải quyết những vấn đề cơ bản
Để phong trào xã hội hóa hoạt động văn hóa tiếp tục phát triển rộng khắp, đi vào chiều sâu và
đạt hiệu quả cao, trong thời gian tới chúng ta cần tập trung thực hiện một số giải pháp cơ bản
sau:
Một là, cụ thể hóa các lĩnh vực ưu đãi đầu tư đối với văn hóa dân tộc; lĩnh vực sản xuất, dịch
vụ khác cần khuyến khích; lĩnh vực đào tạo, cơng tác sưu tầm nghiên cứu bảo tồn các di sản
văn hóa dân tộc; Có cơ chế hỗ trợ đối với các tư nhân đã tham gia xã hội hóa các hoạt động
văn hóa như các đồn nghệ thuật tư nhân, bảo tàng tư nhân; cơ chế thu hút sự đầu tư trong
việc xây dựng các cơng trình văn hóa, tu bổ, khai thác, sử dụng các di tích thắng cảnh... Có
cơ chế ưu đãi đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn; khu
kinh tế đặc thù; lĩnh vực đầu tư văn hóa có điều kiện.
Hai là, có chính sách thuế, phí, lệ phí khuyến khích đầu tư: Thuế thu nhập doanh nghiệp;
thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao; thuế nhập khẩu; phí, lệ phí của các cơ sở ngồi
cơng lập. Chính sách về vốn, tín dụng và bảo lãnh. Chính sách khuyến khích và ưu đãi cho
chuyên gia đầu ngành nước ngoài. Doanh nghiệp hỗ trợ cho văn hóa được tính vào chi phí
hợp lý của doanh nghiệp khi xác định thuế thu nhập.
Ba là, ưu đãi về sử dụng đất; giải quyết kịp thời những khó khăn, vướng mắc về đất đai, giải
phóng mặt bằng để đẩy nhanh tiến độ triển khai dự án; cho phép các tổ chức, cá nhân trong
nước đã được cấp quyền sử dụng đất lâu dài được cho nhà đầu tư nước ngoài thuê lại đất
trong thời hạn cấp quyền sử dụng đất và các ưu đãi khác về xuất nhập cảnh, cung cấp điện
nước, hoa hồng, chiết khấu.
Bốn là, đa dạng hóa các hình thức xã hội hóa đầu tư nước ngồi; thí điểm các hình thức xã
hội hóa đầu tư như cơng ty hợp danh, công ty quản lý vốn; cho phép nhà đầu tư nước ngồi
mua, nhận khốn kinh doanh, quản lý, th các doanh nghiệp trong nước; nghiên cứu mơ
hình khu kinh tế mở.
Năm là, mở rộng lĩnh vực thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài phù hợp với cam kết hội nhập
kinh tế quốc tế. Từng bước mở thị trường bất động sản cho người Việt Nam định cư ở nước
ngoài và các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài tham gia đầu tư tại Việt Nam; doanh nghiệp đầu
tư nước ngoài được xây dựng, kinh doanh trong lĩnh vực mà pháp luật khơng cấm./.
Hồng Tuấn Anh