TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM
V I E T N A M
U N I V E R S I T Y
O F
F I N E
A R T S
TRIểN lãM
NGHỆ THUẬT
ĐỐI THoẠI VớI ĐìNH lÀNG:
NHữNG CáCH NHìN
Về GIá TRị DI SẢN TRoNG
CUộC SỐNG ĐƯơNG ĐẠI
Bùi Thị Thanh Mai
ừ xa xưa, đình làng là một trong những trung tâm tín ngưỡng và
sinh hoạt văn hóa, là nơi quy tụ, gắn kết mọi thành phần trong
cộng đồng, là thiết chế văn hóa bền vững của làng xã, là biểu
tượng thể hiện hồn cốt của người Việt. Tuy nhiên, trong sự phát
triển của xã hội hiện đại, đình làng - ngơi nhà chung của làng xã
đang có nguy cơ mất dần vai trị với cộng đồng. Ở nhiều làng
quê, vị thế và diện mạo đình làng khơng cịn như trước. Trong đó, ngun nhân
chính là sự thiếu hiểu biết và thiếu ý thức trân trọng, giữ gìn của con người.
Điều đó cho thấy sự cần thiết, cũng như ý nghĩa của những triển lãm nghệ
thuật, các hoạt động nghiên cứu học thuật và giáo dục có mục đích hướng đến
đình làng, nơi bảo lưu các giá trị văn hóa truyền thống.
T
Đối thoại với đình làng là triển lãm nghệ thuật do Trường Đại học Mỹ thuật
Việt Nam tổ chức vào tháng 9 năm 20131. Triển lãm đã thu hút cơng chúng bởi
tính mới mẻ của chủ đề, sự độc đáo về ý tưởng và sự phong phú của những
hình thức biểu hiện. Các tác phẩm trong triển lãm gợi lên các câu hỏi, những
vấn đề để mỗi cá nhân cùng suy ngẫm về giá trị của di sản đình làng trong đời
sống đương đại. Trong bài viết này, từ góc độ là giám tuyển triển lãm tơi tập
trung trình bày ba vấn đề chính, đó là về cách đặt vấn đề của triển lãm, nghệ sĩ
khảo sát đình làng và những đối thoại của nghệ sĩ với di sản đình làng thể hiện
qua sáng tác nghệ thuật2. (ảnh số 6b)
172
KẾT NỐI NGHỆ THUẬT VÀ DI SẢN
Chủ đề hướng vê di sản
Trước hết, tơi muốn trình bày qua bối cảnh đi đến sự lựa chọn tên gọi Đối thoại
với đình làng. Thoạt tiên, tiêu đề triển lãm dự kiến được nêu lên dưới hình thức
câu hỏi Di sản là gì? Nếu được triển khai theo hướng như vậy thì triển lãm sẽ
là hoạt động sáng tác, nghiên cứu tiếp nối các dự án nghệ thuật Ai kiếm tiền?,
Giới có phải là vấn đề?, Bình đẳng là gì?, Bản sắc là gì? đã được thực hiện
trong chương trình trao đổi hợp tác giữa Đại học Mỹ thuật Việt Nam và Học
viện Mỹ thuật Umea từ năm 2006 đến 2009. Tuy nhiên, khi trao đổi với một vài
nghệ sĩ mà tôi dự định sẽ mời tham gia triển lãm thì nhận được lời phàn nàn là
“Tiêu đề triển lãm như vậy thì rất khó cho nghệ sĩ khi sáng tác!” v.v... Thực ra,
cụm từ Di sản là gì khơng hề khó hơn so với Giới có phải là vấn đề, Bình đẳng
là gì và Bản sắc là gì. Tuy nhiên, hiểu sự băn khoăn của nghệ sĩ khi phải lý giải,
cắt nghĩa, định nghĩa, làm rõ khái niệm Di sản thơng qua nghệ thuật, đồng thời,
vì đây sẽ là triển lãm nghệ thuật nằm trong khuôn khổ Dự án Nghiên cứu, sưu
tầm, quảng bá và phát huy những giá trị đặc sắc của di sản văn hóa đình làng
vùng châu thổ Bắc Bộ thì cụm từ Di sản là gì mới chỉ là sự lý giải của nghệ sĩ
bằng nghệ thuật về di sản, nhưng thiếu mất một đối tượng quan trọng của Dự
án là Đình làng. Do đấy, sau khi cân nhắc, suy nghĩ, cuối cùng tôi lựa chọn tiêu
CONNECTING ART AND HERITAGE
173
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM
V I E T N A M
U N I V E R S I T Y
O F
F I N E
A R T S
đề Đối thoại với đình làng. Đây là tiêu đề có cách đặt vấn đề mở, tạo cơ hội
cho các nghệ sĩ có thể phát huy khả năng của mỗi người trong tìm tịi, nghiên
cứu để đối thoại với di sản đình làng thông qua nghệ thuật.
Từ Đối thoại hàm ý về sự trao đổi, trị chuyện từ hai phía. Do đấy, khi sử dụng
chữ Đối thoại thì đình làng được xem như một bảo tàng sống, một di sản sống
trong xã hội đương đại và di sản này có thể lên tiếng, đối thoại. Với tâm thế
“Đối thoại”, triển lãm yêu cầu nghệ sĩ vừa phải chủ động trong xây dựng ý
tưởng tạo hình, vừa phải nghiên cứu thực tiễn để khơng bị lạc đề hoặc mang
tính minh họa, mơ phỏng hình ảnh gợi về đình làng. Đối thoại với đình làng
khơng có nghĩa là sự kể lại, hay minh họa, mơ phỏng, mà phải là sự trình bày
cách nhìn, quan điểm. Ví dụ như: Đối thoại với đình làng như thế nào? Đối
thoại với đình làng về điều gì? Đối thoại với đình làng để làm gì? Mỗi di tích
với bao hiện vật kể cho chúng ta nghe rất nhiều những câu chuyện về lịch sử,
văn hóa, phong tục tập qn, tín ngưỡng… của mỗi làng. Đối thoại khơng chỉ
giới hạn trong phạm vi triển lãm, hay giữa các nghệ sĩ, mà cịn mở rộng ra đối
với cơng chúng. Tổng thể triển lãm, có thể ví như một tác phẩm nghệ thuật về
di sản đình làng.
Triển lãm lơi cuốn các nghệ sĩ và hấp dẫn người thưởng thức bởi những lý do
sau. Thứ nhất, đây là lần đầu tiên đình làng trở thành một chủ đề trong sáng
tác mỹ thuật3, là đối tượng để các nghệ sĩ nghiên cứu, từ đó đặt ra các câu hỏi
về vai trị di sản đình làng trong dời sống xã hội, giáo dục nghệ thuật và giáo
dục di sản trong cộng đồng. Thứ hai, trong những năm gần đây các nghệ sĩ
thực hành nghệ thuật thể nghiệm ở Việt Nam thường dành mối quan tâm nhiều
Đặng Thị Khuê.
Ký tự. Lụa, giấy,
gỗ, sắt, ảnh và
chất liệu tổng hợp
1200 cm x 300
cm x 600cm, .Sắp
đặt. 2013. Ảnh
Phạm Duy.
Đặng Thị
Khuê. Characters.
Silk, paper, iron,
photo and mixed
medias 1200 cm x
300 cm x 600cm,
.Installation.
2013. Photo by
Phạm Duy.
174
KẾT NỐI NGHỆ THUẬT VÀ DI SẢN
hơn về các vấn đề nảy sinh trong xã hội hiện đại như sự biến đổi mơi trường,
bình đẳng, nữ quyền, những bất cập nảy sinh về hệ giá trị trong thời đại mới...
mà ít chú trọng đến các chủ đề, đề tài về văn hóa truyền thống. Trong khi đó,
triển lãm Đối thoại với đình làng lại hướng đến văn hóa truyền thống. Thứ
ba, tuy cùng một chủ đề, nhưng hình thức các tác phẩm tham gia triển lãm đa
dạng. Mỗi cá nhân nghệ sĩ đều có những tìm tòi riêng về ý tưởng và sáng tạo
nghê thuật, đồng thời không gian triển lãm được trưng bày hợp lý đã góp phần
chuyển tải mạnh mẽ thơng điệp nghệ thuật của triển lãm. (ảnh số 3a)
Nghệ sĩ khảo sát di sản đình làng
Xét về tính chất, q trình thực hiện dự án nghệ thuật Đối thoại với đình
làng vừa như một workshop, vừa như một dự án nghệ thuật thử nghiệm về sự
kết nối nghệ thuật với di sản, vừa là quá trình học hỏi của mỗi cá nhân về đình
làng, đồng thời là quá trình chia sẻ ý tưởng nghệ thuật để tạo nên một không
gian nghệ thuật thống nhất với chủ đề Đối thoại với đình làng. Tham gia Dự án
nghệ thuật Đối thoại với đình làng, nghệ sĩ có điều kiện tìm hiểu những kiến
trúc, điêu khắc, hội họa, được trải nghiệm trong khơng khí lễ hội truyền thống
và những sinh hoạt diễn ra hàng ngày bên ngồi và bên trong của những ngơi
đình.
Q trình thực hiện chuẩn bị triển lãm, các nghệ sĩ cùng giám tuyển đã tiến
hành nhiều trao đổi, thảo luận về khái niệm di sản, chủ đề đình làng và những
khía cạnh liên quan. Bài viết bàn tròn Nghệ thuật trong mối liên hệ với di
sản và Tọa đàm học thuật Nghệ thuật đương đại tiếp cận di sản là những
nghiên cứu, tìm hiểu của cả nhóm về sáng tác nghệ thuật trong sự liên hệ với di
sản dân tộc, về những giá trị cốt lõi của văn hóa truyền thống và sự kế thừa di
sản trong sáng tác nghệ thuật. Đó có thể xem là những nghiên cứu mang tính
lý thuyết của nghệ sĩ trước khi sáng tác tác phẩm cho triển lãm.
Các nghệ sĩ đã khảo sát, sưu tầm tư liệu và nghiên cứu bốn ngơi đình tiêu biểu
ở Bắc Bộ (đình Thổ Hà, đình Lỗ Hạnh thuộc tỉnh Bắc Giang, đình Tây Đằng
và đình Chu Quyến thuộc huyện Ba Vì, Hà Nội). Khơng gian các ngơi đình này
ngày nay đều thu hẹp bởi sự phát triển của nhà bê tông cao tầng, đơng đúc xe
cộ, máy móc trong xu hướng đơ thị hóa làng xã. Những ngơi đình vẫn là trung
tâm của các hoạt động văn hóa tín ngưỡng của làng, song các hoạt động tín
ngưỡng, sinh hoạt văn hóa truyền thống khơng cịn đậm đặc như trước. Tính
chất làng xã pha trộn với tính chất đơ thị. Yếu tố xưa cũ xen lẫn với yếu tố mới.
Chuyến đi khảo sát đình Thổ Hà cung cấp cho nghệ sĩ cơ hội tìm hiểu về một
ngơi làng cổ với phong cảnh hữu tình, cây đa, bến nước, sân đình và những
nếp nhà san sát trong các hẻm. Lịch sử, phong tục tập quán của làng… được kể
lại qua câu chuyện của các cụ cao tuổi. Dân Thổ Hà khơng có ruộng, nên bao
đời nay thu nhập chính từ nghề thủ cơng và buôn bán nhỏ. Xưa, làng nổi tiếng
về nghề gốm, còn ngày nay nổi tiếng về nghề làm bánh đa nem. Dấu tích nghề
gốm là những bức tường nhà, tường ngõ được xây bằng mảnh gốm vỡ hay
tiểu sành, mang đến vẻ đẹp độc đáo riêng của ngôi làng cổ kính. Nguyện vọng
của nhóm nghệ sĩ là được nghe chính người Thổ Hà hát quan họ Kinh Bắc đã
CONNECTING ART AND HERITAGE
175
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM
V I E T N A M
U N I V E R S I T Y
O F
F I N E
A R T S
được toại nguyện khi các cụ giới thiệu một cụ trong Ban Quản lý di tích chính
là cây hát quan họ của làng. Trong khơng gian ngơi đình cổ, cả người hát và
người nghe cùng say với giai điệu và những câu ca quan họ. Ở đình Lỗ Hạnh,
các nghệ sĩ có may mắn được chính cụ từ và cán bộ quản lý di tích giới thiệu
chi tiết về lịch sử đình và các mảng chạm khắc độc đáo. Ngơi đình này hiện
nay vẫn còn giữ được hai bức tranh sơn mài Bát tiên gắn ở gian giữa trước cửa
hậu cung. Chuyến đi khảo sát đình Tây Đằng và Chu Quyến mang đến cho các
nghệ sĩ cơ hội trải nghiệm trong không gian lễ hội truyền thống, nơi lưu giữ di
sản văn phi vật thể đặc sắc như các huyền thoại, thần tích, truyền thuyết, thần
phả về các vị thành hồng làng, những người có cơng mở đất dựng làng, anh
hùng chống giặc ngoại xâm, vị tổ nghề… Ý nghĩa của các chuyến đi khảo sát
đình làng là nghệ sĩ được cọ sát thực tiễn, được lắng nghe những đối thoại từ
di tích và chính người dân địa phương về đình làng. Sự quan sát, trao đổi, trải
nghiệm thực tế rõ ràng đã tác động tới nghệ sĩ, thôi thúc sự sáng tạo và thái độ
của mỗi cá nhân về di sản đình làng.
Mỗi nghệ sĩ tiếp cận với đình làng từ một góc độ riêng. Người quan tâm đến
âm thanh bên trong và ngồi đình, người chú ý đến hình ảnh thị giác, người bị
thu hút bởi tư liệu văn hóa, lịch sử của các ngơi đình… Trong khi nghệ sĩ Vũ
Nhật Tân mải mê thu âm tiếng động, nghệ sĩ Đặng Thị Khuê trao đổi với các
cụ trong làng, thì các nghệ sĩ Lê Trần Hậu Anh, Lưu Chí Hiếu quay video nhằm
lưu giữ cho được các hoạt động của dân làng xung quanh ngơi đình và các nghệ
sĩ Nguyễn Ngọc Lâm, Nguyễn Mỹ Ngọc, Khổng Đỗ Tuyền, Nguyễn Thế Sơn,
Phạm Duy, Vũ Đình Tuấn sử dụng máy ảnh để ghi lại những khung cảnh, hay
góc nhìn đẹp về thị giác. Đối với một số nghệ sĩ chưa có nhiều kiến thức và
trải nghiệm về di sản đình làng thì dự án là cơ hội tiếp xúc nghiên cứu lịch sử,
cảnh quan khơng gian và vị thế đình làng trong đời sống người dân hiện nay.
Còn đối với những người từng quan tâm nghiên cứu về di sản thì tham gia dự
án lại là cơ hội để có thể phát triển những ý tưởng tạo hình trước đó, hoặc có
cái nhìn sâu sắc hơn về chủ đề, đề tài này. Q trình làm việc với các nghệ sĩ,
có thể thấy những tác động tích cực của dự án đến từng nghệ sĩ. Ngược lại, sự
nỗ lực, tìm kiếm của mỗi cá nhân lại có những tác động tích cực trở lại đối với
dự án. Sự quan tâm của nghệ sĩ đối với đình làng nói riêng và di sản văn hóa
dân tộc nói chung góp phần làm tăng thêm ý nghĩa của Dự án Nghiên cứu, sưu
tầm, quảng bá và phát huy những giá trị đặc sắc của di sản văn hóa đình làng
vùng Châu thổ Bắc Bộ.
Nghệ sĩ đối thoại với đình làng
Khơng gian của triển lãm Đối thoại với đình làng được cấu thành bởi các tác
phẩm nghệ thuật sắp đặt, âm thanh, video art, sắp đặt ảnh. Không gian này đã
nuôi dưỡng những ý tưởng, những trải nghiệm cá nhân về đình làng, là cuộc
đối thoại giữa nghệ sĩ với đình làng, giữa nghệ sĩ với nghệ sĩ, giữa tác phẩm và
176
KẾT NỐI NGHỆ THUẬT VÀ DI SẢN
cơng chúng… Tính chất mới mẻ của chủ đề và những yêu cầu đặt ra của triển
lãm đã kích thích các nghệ sĩ tìm tịi những hình thức nghệ thuật phù hợp để
biểu hiện. Cả tác phẩm và các bài viết cùng đồng hành trong không gian triển
lãm kể cho người xem những câu chuyện khác nhau về đình làng. Tựu chung,
cuộc đối thoại về đình làng của các nghệ sĩ hướng đến ba nội dung chính, đó
là: phản ánh thực trạng của di sản đình làng, sự trân trọng tơn vinh di sản, sử
dụng nghệ thuật khơi gợi tình yêu và sự quan tâm của công chúng đối với di
sản đình làng.
Nguyễn Thế Sơn. Tơi đi tìm ngơi nhà chung. Sắp đặt ảnh. 2013. Ảnh Phạm Duy.
Nguyễn Thế Sơn. I am looking for the communal housse. Photo Installation. Photo by Phạm Duy.
Sự thu hẹp khơng gian đình làng trong q trình đơ thị hóa, sự xuống cấp của
di sản bởi cả nguyên nhân khách quan và chủ quan, và sự thiếu hiểu biết của
con người trong việc gìn giữ di sản đình làng đã được phản ánh trong những
tác phẩm của các nghệ sĩ Nguyễn Thế Sơn, Nguyễn Mỹ Ngọc, Nguyễn Ngọc
Lâm, Phạm Duy, và Khổng Đỗ Tuyền. Mỗi nghệ sĩ có những sáng tạo riêng và
phản ánh những khía cạnh khác nhau về thực trạng đình làng vùng châu thổ
Bắc Bộ hiện nay.
Nguyễn Thế Sơn và hành trình đi tìm ngơi nhà chung
(ảnh số 8b)
Sắp đặt ảnh Tơi đi tìm ngơi nhà chung của nghệ sĩ Nguyễn Thế Sơn, với 71
bức ảnh được trình bày trang trọng và qui mô trong không gian triển lãm. Là
nghệ sĩ quan tâm nghiên cứu về đô thị và sự biến đổi cảnh quan trong gần 10
năm nay, trong triển lãm này Thế Sơn đã tiếp tục cơng việc tìm hiểu, khảo sát
và nghiên cứu về Hà Nội của mình. Đối tượng mà nghệ sĩ nhắm đến là những
ngơi đình trong khu vực phố cổ của quận Hồn Kiếm. Q trình xây dựng tác
phẩm là quá trình học hỏi và nghiên cứu. Trong nhiều tháng, Nguyễn Thế Sơn
đã tìm đọc tài liệu sách, báo viết về đình để tra cứu lịch sử di tích, phỏng vấn,
trị chuyện với người dân, chụp ảnh di tích… Theo nghệ sĩ, một trong những vẻ
CONNECTING ART AND HERITAGE
177
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM
V I E T N A M
U N I V E R S I T Y
O F
F I N E
Nguyễn Thế Sơn.
Tơi đi tìm ngôi
nhà chung. Sắp
đặt ảnh. 2013.
Ảnh Phạm Duy.
Nguyễn Thế Sơn.
I am looking for
the communal
housse. Photo
Installation. Photo
by Phạm Duy.
178
KẾT NỐI NGHỆ THUẬT VÀ DI SẢN
A R T S
đẹp độc đáo của phố cổ là những di tích thờ tổ nghề, ngơi đình. 36 phố phường
xưa có hàng chục nghề, trong đó có hàng chục ngơi đình được lập ra để thờ tổ
nghề, gắn với các phố nghề truyền thống. Có những di tích ban đầu là đền sau
đó chuyển thành đình, hoặc là đình sau chuyển thành đền… Thời gian, chiến
tranh và sự xâm lấn trong quá trình đơ thị hóa khiến diện mạo nhiều ngơi đình
đã thay đổi, thậm chí biến mất. Nguyễn Thế Sơn chia sẻ: sự xác minh chính xác
là rất khó, nghệ sĩ chỉ chụp những gì mà anh cho là có thể xác tín nhất. Tài liệu
được cụ thủ từ đình Thanh Hà chia sẻ, là cơ sở để nghệ sĩ xây dựng tác phẩm
Tơi đi tìm ngơi nhà chung. (Ảnh số 8c)
71 bức ảnh được sắp đặt san sát gợi phố cổ ngày nay với những ngôi nhà
chen chúc trên các con phố. Cách trình bày này vừa tạo sự liên kết và thống
nhất cho các bức ảnh, đồng thời mô tả được sắc thái kiến trúc Hà Nội. Nếu
ở Nhà mặt phố nghệ sĩ thành công trong sử dụng nhiếp ảnh dưới dạng phù
điêu thì ở triển lãm Đối thoại với đình làng cách làm này khơng cịn phù hợp.
Những di tích này trải qua thời gian đã biến dạng, khơng cịn lưu giữ nhiều
vẻ đẹp tạo hình nên việc bóc tách các chi tiết, làm nổi khối trên mặt phẳng sẽ
khơng đem lại mỹ cảm tạo hình. Từng theo học Thạc sĩ chuyên ngành Nhiếp
ảnh mỹ thuật (FineArts Photography) tại Khoa Nhiếp ảnh của Học viện Mỹ
thuật Trung ương Bắc Kinh (CAFA), Nguyễn Thế Sơn cuối cùng đã lựa chọn
phương pháp ảnh ép nhiệt để thể hiện tác phẩm. Công nghệ in tráng ảnh hiện
đại cho phép việc sử dụng loại keo chuyên dụng (còn được gọi là keo tàng
hình) dán ảnh vào mika. Sau khi ép nhiệt, ảnh sẽ dính chặt vào bề mặt mika
tạo hiệu quả như in ảnh trên chất liệu mika. Kỹ thuật này phổ biến trên thế
giới, song ở Việt Nam thì vẫn cịn khá mới. (ảnh số 8e)
FineArts Photography, theo Thế Sơn có nghĩa là sử dụng nhiếp ảnh như một
chất liệu, công cụ và phương pháp của nghệ thuật thị giác để chuyển tải một
thông điệp. Với tác phẩm sắp đặt ảnh Tơi đi tìm ngơi nhà chung, nghệ sĩ mong
muốn cùng với người xem đi tìm lại các di tích đình xưa ở khu vực phố cổ. Ở
đây, nghệ sĩ đóng vai trò người gợi mở, đưa ra “Concept”4 và những chú thích,
nhận xét của người xem sẽ góp phần hồn thiện tác phẩm. Tơi đi tìm ngơi nhà
chung là một trong những tác phẩm được báo chí, truyền thơng nhắc đến nhiều,
thu hút sự chú ý của cộng đồng và tạo sự tranh cãi xung quanh các bức ảnh.
Một số người đã nhìn nhận tác phẩm của Thế Sơn như một phóng sự ảnh hay
một cơng trình nghiên cứu khoa học về thực trạng đình làng ở khu vực phố cổ
Hà Nội, do đấy đã băn khoăn về tính chính xác và độ tin cậy của hình ảnh và số
liệu. Song, phần đông đánh giá cao tâm huyết, sự nỗ lực và công phu của nghệ
sĩ khi dành hàng tháng để tìm hiểu, ghi chép, phỏng vấn, chụp ảnh những ngơi
đình trong khu phố cổ. Trong câu chuyện của Thế Sơn, có những ngơi đình vẫn
cịn lưu giữ được kiến trúc và chạm khắc đẹp, có những ngơi đình trải qua thời
gian và những biến động của chiến tranh, quá trình đơ thị hóa đã bị mai một,
thậm chí biến mất. Tác phẩm Tơi đi tìm ngơi nhà chung gợi ra nhiều vấn đề để
chúng ta cùng suy ngẫm về lịch sử, giá trị những ngơi đình trong khu phố cổ
và công việc bảo tồn và phát huy các giá trị di sản.
CONNECTING ART AND HERITAGE
179
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM
V I E T N A M
180
U N I V E R S I T Y
O F
F I N E
KẾT NỐI NGHỆ THUẬT VÀ DI SẢN
A R T S
Nguyễn Mỹ Ngọc, người nghệ sĩ làm thơ về đình
Nguyễn Mỹ Ngọc với tác phẩm sắp đặt Trong bóng tối thể hiện sự luyến tiếc,
hồi niệm về ngơi đình làng thân thuộc của người Việt. Khi xây dựng phác thảo,
nghệ sĩ dự định mượn hẳn chiếc cột cũ đã bị mục ruỗng dài khoảng hai mét rưỡi
của đình Tây Đằng để làm tác phẩm nghệ thuật. Sau đó, việc mượn hiện vật
gốc không khả thi nên Nguyễn Mỹ Ngọc đã phải chuyển sang cách làm khác.
Hiển nhiên, việc trưng bày chiếc cột đình thật sẽ đem lại hiệu quả thị giác từ
việc “mục sở thị” những dấu ấn của thời gian và sự tác động của con người lên
đình làng. Thế nhưng, “cái khó làm ló cái khơn”. Giải pháp rập lại hình chiếc
cột trên giấy dó thay thế cho chiếc cột thật là dịp để Nguyễn Mỹ Ngọc phát huy
sở trường đồ họa tạo hình. Trên nền giấy dó, hình cột đình hiện lên nguyên vẹn
từ những đường nứt, vết mục ruỗng, thớ vân của gỗ…, và đó chính là đối thoại
khơng lời về lịch sử ngơi đình. Người xem cảm nhận được tình cảm và sự kiên
nhẫn của nghệ sĩ khi rập lại toàn bộ chiếc cột mục ruỗng với tất cả các chi tiết
của nó. Tác phẩm đặt ra vấn đề về công việc trùng tu, tu bổ các di tích, cũng như
sự lắng nghe tiếng nói từ trong di sản của mỗi cá nhân. Nghệ sĩ chia sẻ mong
muốn của mình thơng qua tác phẩm nghệ thuật: “Để chúng ta tự thấy, tự thức
tỉnh sự bàng quan trong mỗi chúng ta, để ta biết quan tâm, xót xa cho những gì
cịn sót lại của cha ơng, những thứ có thể nói cho chúng ta biết chúng ta đã là ai
và chúng ta sẽ là ai trong tương lai”. (Ảnh số 5a)
Thưởng thức tác phẩm của Nguyễn Mỹ Ngọc sẽ là không đầy đủ nếu người
xem bỏ qua việc đọc “Statement” được viết theo dạng văn xuôi khơng dấu
chấm, dấu phẩy, có thể xem như thể thơ tự do. Người đọc có thể tự ngắt mạch,
ngắt ý trong khi đọc. “Ở đâu đó trong ta trong bóng tối hơi thở nóng ran lần sờ
mục ruỗng nhen nhóm tối tăm tìm lại tẳt dần ánh sáng cha ơng hơm qua hơm
kia hơm sau nữa cịn chút gì vụn vỡ tan hoang giọt thời gian tí tách lách len
lặng n xẻ dần dần dần bong chóc vơ tình chạm phải thân quen huyết quản
vạn người xa vạn người lạ lặng n uống chung nước dịng song chết chơn
chung nắm đất ngồi chung mảnh chiếu con che chung một mái cong cong bóng
đình lặng n vang vọng như xưa nằm chờ lặng yên trong bóng tối thẽ thọt kể
thẽ thọt hát thẽ thọt buông lời ru à ơi à à ơi chuyện kể con nghe con ve nó hát
con kiến nó chui con sâu nó đục cái lá khoai lang cái bè rau muống cái luống
mùng tơi trôi đâu mùa lũ thời gian lòng người bải hoải vàng thau hơi đâu mà
nhớ mà thương mà tìm mà vớt đau lịng con cò ăn đêm bay ngang qua cánh
đồng phiên chợ sớm lặng yên xa xa bến nước mái đình lãng quên….à ơi à à ơi
ta kể con nghe ở đâu đó trong bóng tối chúng ta.”5 Âm hưởng của ngơn từ, màu
sắc và hình cùng hịa trộn trong khơng gian trưng bày tác phẩm. Mỗi người
xem tùy theo những trải nghiệm, kiến thức, ký ức, tình cảm của mình đối với
đình làng mà có những liên tưởng khác nhau.
Hiệu quả thị giác qua tác phẩm Chen lấn của Nguyễn Ngọc Lâm
Tác phẩm sắp đặt Chen lấn của Nguyễn Ngọc Lâm đề cập đến tình trạng phát
triển khơng đồng bộ thiếu quy hoạch, thiếu thẩm mỹ, chồng chéo và chen lấn
giữa những giá trị hiện đại với những giá trị truyền thống. Đó là, sự ra đời và
phát triển của mơ hình nhà ống với việc quy hoạch vội vàng đã và đang làm
CONNECTING ART AND HERITAGE
181
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM
V I E T N A M
U N I V E R S I T Y
O F
F I N E
A R T S
mất đi những khơng gian sống mang tính văn hóa truyền thống của người Việt
chúng ta, trong đó có ngơi Đình. Vấn đề này đã được báo chí và nhiều kiến trúc
sư đề cập, nhưng đây là lần đầu tiên được biểu hiện thơng qua nghệ thuật thị
giác với hình thức nghệ thuật cơ đọng, giàu chất tạo hình và biểu cảm.
Chen lấn chỉ sự chen chúc và lấn át. Khái niệm Chen chúc thì chỉ hàm ý về sự
chật chội, nhưng Chen lấn còn bao hàm cả sự chen và lấn chiếm. Nguyễn Ngọc
Lâm đã sử dụng hiệu quả thị giác để miêu tả thực trạng những ngơi đình trong
khơng gian đô thị hiện nay. Bằng chất liệu gỗ, sơn thếp bạc, nghệ sĩ tạo nên một
bố cục hình trịn với tâm điểm là hình tượng ngơi đình dát vàng trang trọng,
xung quanh lan tỏa, dày đặc và chen chúc là những khối gỗ tượng trưng cho
những ngơi nhà ống. Tồn cảnh tác phẩm như một sơ đồ chụp từ trên cao, cung
cấp cho người xem cái nhìn sâu sắc về sự thu hẹp khơng gian đình làng, thơi
thúc mọi người phải có hành động cụ thể để gìn giữ di sản. Nghệ sĩ mong muốn
gửi gắm tình cảm của mình về thực trạng đáng buồn khi ngơi đình, biểu tượng
cho những giá trị truyền thống tốt đẹp đã và đang bị lấn át bởi những ngơi nhà
hình ống với cơng năng thực dụng, hào nhống và ít sự bền vững. (Ảnh số 6a)
Là giảng viên Khoa Điêu khắc của Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam, Nguyễn
Ngọc Lâm có cách biểu đạt giàu chất tạo hình, đạt hiệu quả thị giác cao. Những
miếng gỗ để mộc với khoảng 4,5 kích thước to nhỏ khác nhau, nhưng mỗi
loại được nhân lên khoảng một trăm miếng và sắp xếp xen kẽ tạo sự thay đổi
về hình, đồng thời gợi về những ngơi nhà hình ống rất phổ biến hiện nay. Sự
gia tăng dân số và nhu cầu của cuộc sống hiện đại đã dẫn đến kiến trúc truyền
thống bị biến đổi. Cả ở thành phố và nơng thơn, những ngơi nhà hình ống mọc
182
KẾT NỐI NGHỆ THUẬT VÀ DI SẢN
lên ngày càng nhiều. Tuy giải quyết được phần nào nhu cầu về nhà ở, song lại
có nhược điểm về thẩm mỹ do đặc thù của nhà ống có là diện tích hẹp nhỏ, hình
hộp ngột ngạt. Cùng với sự phát triển của kiến trúc nhà ống, không gian các di
tích bị thu hẹp dần. Trong khi đó, cơng việc bảo tồn, tơn tạo di tích đình làng lại
tiến hành chậm và chưa thật thỏa đáng. Sự tương phản về màu sắc và chất liệu
trong sắp đặt Chen lấn vừa gợi được ấn tượng thị giác, vừa gợi về giá trị thẩm
mỹ, cũng như giá trị tốt đẹp và vị thế của di sản đình làng trong văn hóa của
người Việt. Đối lập với chất mộc, giản dị của những miếng gỗ nhỏ, thì mơ hình
ngơi đình làng được dát vàng trang trọng, ở vị trí trung tâm của tác phẩm6. Chất
liệu sơn ta và vàng, son được sử dụng nhiều trong trang trí chùa và đình. Như
vậy, tác phẩm cùng lúc cịn chuyển tải thơng điệp về giá trị di sản đình làng, về
sự trân trọng của nghệ sĩ đối với văn hóa truyền thống của dân tộc. Ngắm nhìn
tác phẩm sắp đặt Chen lấn của Nguyễn Ngọc Lâm, tôi chợt nhớ đến câu hỏi của
một kiến trúc sư trên trang website: Kiến trúc sư Bình Định, sau khi đăng tải
bức ảnh chụp tác phẩm, “Các bạn kiến trúc sư thân mến, tôi thật sự xúc động
trước tác phẩm này. Các bạn thì sao? Khơng biết có đồng nghiệp nào của ta
tham gia thiết kế cho một cơng trình nào trong ảnh này?” Nghệ thuật đã tạo
nên hiệu ứng trong cộng đồng, để mỗi người trong chúng ta hãy học cách ứng
xử cho đúng với di sản.
Phạm Duy với cảm nhận về sự xa lạ trong ngơi đình làng hiện nay
Tác phẩm sắp đặt ảnh Mái đình xa lạ của Phạm Duy kể câu chuyện về những
đồ vật xa lạ trong khơng gian đình làng hơm nay. Những bức ảnh chụp các hiện
vật, chi tiết kiến trúc, hoạt động bên trong và ngồi đình làng được gài trong
tấm ni lông quấn bọc quanh một chiếc giàn giáo. Trên trần phịng triển lãm là
tấm ảnh chụp nóc đình Chu Quyến với chi tiết kết cấu vì kèo được in phóng to,
căng che phủ khoảng diện tích gần 2m2. Phía dưới, một chiếc hộp gỗ sơn đỏ có
ghi chữ “Hịm cơng đức”. Tổng thể tác phẩm mang một kết cấu chủ định gợi
về ngơi đình làng, nơi vẫn cịn lưu giữ những lớp trầm tích di sản nghệ thuật
quý giá nhưng bên cạnh đó lại có những thứ xa lạ do sự thiếu hiểu biết của con
người. (ảnh số 2a)
Bằng các yếu tố tạo hình, Phạm Duy gợi ra sự khơng ăn nhập của chiếc hịm
cơng đức trong khơng gian di tích đình làng truyền thống. Chuyện lịng thành
cơng đức là tùy tâm của mỗi người khi đi vãn cảnh các di tích tín ngưỡng, tơn
giáo.Tiền cơng đức nơi dùng vào việc tu bổ di tích, nơi dùng để làm từ thiện.
Đó là ý nghĩa tốt đẹp của cơng việc cơng đức. Thế nhưng, việc đặt hịm cơng
đức trong di tích nên như thế nào cho hợp lý, đồng thời việc cúng tiến, cơng
đức, lịng thiện tâm phải trong sáng minh bạch thì tâm can mới thảnh thơi.
Nhiếp ảnh là phương tiện, chất liệu yêu thích của Phạm Duy. Trong những
chuyến đi khảo sát, nghệ sĩ đã chụp lại các hiện vật bên trong và bên ngồi ngơi
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM
V I E T N A M
184
U N I V E R S I T Y
O F
F I N E
KẾT NỐI NGHỆ THUẬT VÀ DI SẢN
A R T S
đình để từ đó đặt ra câu hỏi về giá trị thật sự của ngơi đình hiện nay. Những đồ
vật như bóng đèn xanh đỏ, chiếu ni lơng, khay nhựa, đồng hồ... xuất xứ Trung
Quốc liệu có phù hợp với khơng gian bên trong của những ngơi đình làng? Sự
khơng ăn nhập về tính thẩm mỹ của các đồ vật đã khiến ngơi đình ngày nay
dường như có phần xa lạ. Với khoảng hơn một trăm bức ảnh chụp đen trắng,
tác phẩm Mái đình xa lạ gợi ra sự suy ngẫm trong mỗi người thưởng thức về
mục đích và giá trị thẩm mỹ của những đồ vật trong đình làng hiện nay. (Ảnh
số 2 e và số 2f)
Khổng Đỗ Tuyền và Vịng xốy đơ thị
Sắp đặt Vịng xốy đơ thị của Khổng Đỗ Tuyền bày tỏ cái nhìn của nghệ sĩ về
sự phát triển xây dựng trong q trình đơ thị hóa đã làm thay đổi cảnh quan
kiến trúc truyền thống. Sự phát triển không đồng bộ, thiếu quy hoạch đã và
đang làm mất đi những giá trị văn hóa, những đặc trưng vùng miền và làm biến
dạng những di tích độc đáo như đình làng. Ngơi đình trước kia là một khơng
gian mở, thì nay khơng gian đã bị thu nhỏ và chật lại bởi những cơng trình kiến
trúc, những ngôi nhà cao tầng, khu đô thị xung quanh làm cho ngơi đình khơng
cịn cảm giác mênh mơng như vốn có của nó nữa.
CONNECTING ART AND HERITAGE
185
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM
V I E T N A M
186
U N I V E R S I T Y
O F
F I N E
KẾT NỐI NGHỆ THUẬT VÀ DI SẢN
A R T S
Nghệ sĩ dựng một khối hình chữ nhật bằng những thanh tre trên diện tích
khoảng 4m2 cao sát lên tận trần phịng triển lãm. Bên trong khối hình được chia
ra nhiều tầng, nhiều ơ và trong khung hình là sự đan chéo chằng chịt của nhiều
thanh tre khác. Nhìn xuyên và sâu vào phía bên trong là một số mơ hình gợi về
ngơi đình làng. Thơng qua tác phẩm Vịng xốy đơ thị, nghệ sĩ mang đến triển
lãm câu chuyện về sự tác động của q trình “Đơ thị hóa” đến di sản đình làng.
(Ảnh số 4a và số 4d)
Lê Trần Hậu Anh - Nghiên cứu về thái độ đối với di sản đình làng
Tác phẩm video - sắp đặt Miền ký ức của Lê Trần Hậu Anh trình bày về ba thái
độ của con người khi tiếp cận di sản đình làng. Những đoạn video gợi về hình
ảnh đình làng trong ký ức mỗi người. Có người khi đến đình làng chỉ quan tâm
ở khía cạnh lễ hội. Có người lại chỉ chú ý đến vẻ đẹp của kiến trúc, hay những
mảng chạm khắc. Có người trong ký ức hình ảnh đình làng lại rất mờ nhạt,
thậm chí chập chờn khơng rõ nét như màn hình bị nhiễu sóng.
Khai thác đặc trưng của Video Art là nghệ thuật tạo nên những hình ảnh động,
đồng thời kết hợp với nghệ thuật sắp đặt, Miền ký ức trình bày về thái độ và sự
quan tâm của con người đến di sản đình làng. Việc phát đồng thời cả ba màn
hình với những hình ảnh khác nhau giúp người xem dễ liên tưởng và so sánh.
Mỗi màn hình được đặt trong mơ hình não bộ và tất cả được đặt trên cột trụ gợi
về hình ảnh cột đình. Trong khơng gian triển lãm, tiếng xướng của ban bồi tế
trong lễ hội kết hợp cùng với các hình ảnh trình chiếu gợi cảm giác hư thực về
di sản đình làng. Chọn lọc từ những tư liệu quay được trong các chuyến khảo
CONNECTING ART AND HERITAGE
187
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM
V I E T N A M
U N I V E R S I T Y
O F
F I N E
A R T S
sát, nghệ sĩ đã gợi lên vấn đề để chúng ta có thể cùng suy ngẫm. Mỗi người,
khi đứng trước tác phẩm có thể tự nhìn nhận lại chính thái độ và ứng xử của
mình, để từ đó có thể điều chỉnh thái độ mang ý nghĩa tích cực hơn đối với di
sản. Mong muốn của nghệ sĩ là thông qua tác phẩm, mọi người sẽ cùng nhau
chia sẻ thái độ của mình khi tiếp xúc với di sản văn hóa đình làng, cũng như di
sản của quá khứ. (ảnh số 1d và 1a)
Vũ Nhật Tân và tác phẩm âm thanh Ngôi đình nằm ở giữa làng
Là nghệ sĩ âm thanh duy nhất trong dự án, Vũ Nhật Tân mang đến triển lãm
một tác phẩm âm thanh độc đáo được xây dựng từ sự phối hợp, pha trộn, kết
hợp những tiếng động thu được từ bên trong và bên ngồi ngơi đình. Bằng âm
thanh, nghệ sĩ gợi cho chúng ta thấy được cả sự biến đổi của đình làng trong
q trình đơ thị hóa. Nếu ngơi đình xưa trong ký ức của nhiều người là tiếng
gió xào xạc, tiếng sáo diều vi vút, tiếng mõ trâu lộc cộc, tiếng người đi làm
đồng về, thì nay khi làng có xu hướng chuyển dịch về phía đơ thị là tiếng xe
máy đi lại, tiếng cịi xe inh ỏi, tiếng nhạc trẻ xập xình với âm thanh khá lớn.
Ngơi đình nằm ở giữa làng phản ánh sự tiếp nối, chuyển động và biến đổi theo
thời gian của di sản đình làng bằng yếu tố âm thanh. Âm nhạc chính là bản
thân cuộc sống. Nắm bắt được điều cốt lõi này, nên Vũ Nhật Tân hoàn toàn chủ
động trong sáng tạo tác phẩm. Chất liệu trong tác phẩm của Vũ Nhật Tân là
những âm thanh, tiếng ồn ào đủ loại xung quanh ngơi đình. Nghệ sĩ đã xử lý âm
thanh từ các bản ghi âm, phương tiện truyền thông âm thanh, sự ngẫu nhiên kết
hợp một cách sáng tạo để tạo nên tác phẩm. Ngơi đình nằm ở giữa làng là tác
phẩm thuộc thể loại Âm nhạc tiếng ồn hay còn được gọi là Noise Music (Thể
loại âm nhạc dựa trên thực hành sáng tạo khai thác các tiếng ồn, đặc trưng nổi
188
KẾT NỐI NGHỆ THUẬT VÀ DI SẢN
CONNECTING ART AND HERITAGE
189
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM
V I E T N A M
U N I V E R S I T Y
O F
F I N E
A R T S
bật bởi sự ngẫu hứng và yếu tố tạp âm.) Âm nhạc tiếng ồn mang đậm tính chất
của thời kỳ cơng nghiệp và chất hiện thực của cuộc sống. Những ngày diễn ra
triển lãm, nhiều người vừa ngồi nhâm nhi chén trà nóng, vừa trị chuyện với
nhau trong khơng gian tràn ngập âm thanh tiếng của lễ hội, tiếng họp chợ trước
cửa đình, tiếng xe máy, tiếng người đi lại trên con đường làng… và có người đã
thốt lên rằng “Đình là đây chứ ở đâu nữa!” Tóm lại, sự kết hợp giữa âm thanh
và sắp đặt khơng gian trong Ngơi đình nằm ở giữa làng đã mang đến những trải
nghiệm mới mẻ cho người thưởng thức. (Ảnh số 7b)
Vũ Đình Tuấn, người đưa di sản tục ngữ, ca dao về đình vào trong tác phẩm
nghệ thuật
Khơng gian văn hóa, đời sống tín ngưỡng tâm linh, truyền thuyết và sự kiện
lịch sử của đình làng khi được phản ánh, thể hiện bằng nghệ thuật sẽ tạo nên
những tác động tích cực trong cộng đồng. Đó là điểm chung của các nghệ sĩ
như Vũ Đình Tuấn và Lưu Chí Hiếu.
Sắp đặt của Vũ Đình Tuấn là cuộc đối thoại về chuyện xưa, chuyện nay của
làng. Theo nghệ sĩ, dường như trong xã hội đương đại, nhiều ngơi đình đã mang
mầu sắc khác và khơng cịn gần gũi nữa. Một số ngơi đình ngày nay được xây
tường bao quanh, ra khóa, vào mở, tổ chức nhiều lễ hội hơn xưa; có nhiều hịm
cơng đức đỏ chói màu son với những dịng chữ vàng được thể hiện bằng song
ngữ Việt - Anh. Tác phẩm Chuyện của đình thơng qua hình thức Book Arts,
sắp đặt trong khơng gian có sự hỗ trợ của ánh sáng nhằm kể lại cho người
xem những ký ức tốt đẹp của nghệ sĩ về đình làng. Tác phẩm bao gồm ba phần:
chính giữa trọng tâm là cánh diều, phía trên là hàng chục dải vải trắng có đi
ngũ sắc, phía dưới là vịng trịn vàng óng của thóc. Sự kết hợp giữa nghệ thuật
tạo hình và thơ ca đem đến chất thơ cho tác phẩm. (Ảnh số 9a)
Cánh diều được thể hiện theo hình thức cổ truyền với chiều dài 2m5, tượng
trưng cho sự bay bổng về hình sắc và âm thanh, và cả sự bay bổng trong tâm
hồn con người. Trên đó, những mơ típ chạm khắc dân gian trên đình làng được
nghệ sĩ chọn lọc và thể hiện lại bằng phương pháp vẽ tay. Xen kẽ giữa các
khoảng trống là những câu tục ngữ, ca dao, dân ca về đình như: Qua đình ngả
nón trơng đình, Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu; Tt mắt là tại
hướng đình, Cả làng cùng toét, riêng mình em đâu; Chiều nay có kẻ thất tình,
Tựa mai, mai ngả, tựa đình, đình xiêu; Trăng thanh nguyệt rạng mái đình,
Chén son chưa cạn sao tình đã quên, v.v… Hầu hết các chi tiết trong tác phẩm
được thể hiện thủ công như: khâu diều, vẽ, viết. Những dải vải với phần đuôi
ngũ sắc được viết câu tục ngữ, hoặc ca dao tiêu biểu về đình làng đã thu hút
người xem đọc, bình luận và suy ngẫm về chủ đề của tác phẩm.
Sự kết hợp các chất liệu dân gian với hình thức sắp đặt sách nghệ thuật (Book
Arts) mang đến cho người xem nhiều tầng lớp ý nghĩa về Chuyện của đình, đó
190
KẾT NỐI NGHỆ THUẬT VÀ DI SẢN
CONNECTING ART AND HERITAGE
191
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM
V I E T N A M
U N I V E R S I T Y
O F
F I N E
A R T S
là di sản tục ngữ, ca dao, dân ca về đình, là hình ảnh nên thơ của cánh diều vi
vút tiếng sáo nơi làng quê, là sân thóc phơi ngày mùa, là màu sắc của lễ hội qua
những lá cờ ngũ sắc, là những hình chạm khắc thân quen trên đình làng... Khơi
gợi sự rung động, tưởng tượng về không gian văn hóa đình làng hơm qua và
hơm nay, tác giả gửi gắm mong ước và kỳ vọng: rồi biết đâu, trong mỗi người
sẽ nảy sinh một sự giác ngộ đẹp đẽ nào đó (cho dù là rất nhỏ) bằng ý tưởng và
hành động để hướng tới việc lựa chọn giải pháp cho vấn đề di sản và văn hóa
truyền thống trong thời đại mới.
Lưu Chí Hiếu - Đối thoại với di sản
Trong không gian khoảng 15 mét vuông, một khay chứa đầy các quả trứng
thạch cao trắng. Ánh sáng và màu sắc của phim video phản chiếu lên những
quả trứng lấp lánh tạo nên hiệu quả thị giác hấp dẫn và siêu thực. Phía sau, trên
nền tường là màn hình chiếu phim video thời lượng 10 phút (loop). Các hình
ảnh về con người, cảnh vật, sự vật trong phim lúc như một cuốn phim quay
chậm, khi chuyển động với tiết tấu nhanh, khi hình ảnh kéo dài hoặc chập vào
nhau đậm chất siêu thực. Không gian hư ảo như kéo con người về với các ký
ức của di sản đình làng. Nếu như, người xem có thể chưa hiểu ngay ẩn ý của tác
giả về các hình ảnh trong phim video, thì họ lại dễ dàng tham gia thử nghiệm
vào việc tương tác với tác phẩm. Có những quả trứng được bọc dán các hình
chạm khắc đình làng. Có những quả lại được tơ màu và vẽ hình. Có những
quả lại được người xem viết lên đó suy nghĩ của mình. Lấy gợi ý từ huyền
192
KẾT NỐI NGHỆ THUẬT VÀ DI SẢN
thoại Trăm trứng biểu tượng cho cội nguồn dân tộc, là đại diện cho những giá
trị đã được sản sinh và cịn tiếp diễn, tác giả tạo nên khơng gian thử nghiệm
nhỏ thể hiện sự kết nối giữa tác phẩm và công chúng. Video - Sắp đặt Đối
thoại của Lưu Chí Hiếu đặt câu hỏi “Đối thoại với đình làng” phải chăng là
sự đối thoại với cá nhân mỗi chúng ta về di sản? Tác giả đặt tên cho tác phẩm
là Đối thoại nhằm mở ra một không gian trao đổi và đối thoại giữa tác phẩm
với công chúng.
CONNECTING ART AND HERITAGE
193
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM
V I E T N A M
U N I V E R S I T Y
O F
F I N E
A R T S
Đặng Thị Khuê - Từ không gian nghệ thuật đến không gian xã hội
Cuộc Đối thoại với đình làng của các nghệ sĩ trở nên trọn vẹn và ý nghĩa hơn
với tác phẩm nghệ thuật của nữ họa sĩ Đặng Thị Khuê. “Nếu phải hiểu để
mà có thể u, thì lại phải yêu để mà có thể hiểu”, tác phẩm sắp đặt Ký tự đã
được thực hiện trên tinh thần theo lời khuyên của học giả người Pháp Jacques
Dournes (1950). Đắm đuối và trân trọng những giá trị di sản, nghệ sĩ Đặng Thị
Khuê ôm ấp khát vọng thông qua nghệ thuật đánh thức sự quan tâm, thái độ
tích cực, tình u di sản trong mỗi cá nhân. Từ nhiều năm nay, nhu cầu trở về
cội nguồn thẩm mỹ, tìm về những giá trị tạo nên cốt cách và mỹ cảm Việt Nam
đã thơi thúc họa sĩ tìm hiểu, nghiên cứu về di sản đình làng. Chọn cách làm
gần với các nhà trưng bày bảo tàng, tác phẩm Ký tự dẫn dắt người xem vào bên
trong kiến trúc đình làng, khu vườn tri thức của người xưa.
Tổng thể tác phẩm sắp đặt Ký tự bao gồm hai phần: phần thứ nhất là giới
thiệu giá trị di sản đình làng trên phương diện nghệ thuật kiến trúc và điêu
khắc, phần thứ hai nhằm vào giáo dục nghệ thuật và di sản. Cả hai phần được
trình bày cơng phu nhằm khơi dậy nơi người xem tình yêu đối với di sản đình
làng. Chọn sự kết hợp giữa góc nhìn nội tâm và khoa học để biểu đạt, sắp đặt
Ký tự phô bày kết cấu kiến trúc bên trong đình Tây Đằng, một ngơi đình cổ ở
Bắc Bộ. Thông qua những nét vẽ trên nền lụa truyền thống mong manh trong
suốt, người xem có thể thấy các giải pháp kỹ thuật về không gian, cách xử lý
194
KẾT NỐI NGHỆ THUẬT VÀ DI SẢN
chất liệu, trang trí, tỉ lệ và thẩm mỹ của người xưa. Từ đó thấy được sự lựa
chọn thơng minh, tầm vóc tư duy và trí tuệ của cha ơng xưa trong xây dựng
ngơi nhà chung mang tính cộng đồng này. Sự cẩn trọng của người nghệ sĩ yêu
tha thiết và rất đỗi trân trọng di sản đã thôi thúc nghệ sĩ tìm tịi cách thức biểu
đạt, lựa chọn những chất liệu phù hợp để thể hiện cho được ý tưởng tạo hình.
Thoạt tiên, các mặt cắt dọc, cắt ngang của ngơi đình được thể hiện trên chất
liệu mika trong suốt, nhưng rồi nhận thấy chất liệu này không phù hợp trong
việc chuyển tải thơng điệp về di sản đình làng, nghệ sĩ Đặng Thị Khuê đã
chuyển sang chất liệu lụa và the đen. Bước qua không gian sắp đặt các bức vẽ
lụa là một bức ảnh chụp kiến trúc bên trong của đình Tây Đằng được in phóng
to. Phía dưới đât ngay trước hình ảnh kiến trúc đình làng là những đôi dép, giày
các loại khiến ta tưởng như đâu đây một nhóm người vừa bước khuất vào phía
bên trong ngơi đình. Thêm vào đó, tác phẩm Ký tự còn bao gồm cả những các
phiên bản, ảnh chụp và các bản rập chạm khắc đình làng.
Với tác phẩm Ký tự, trực giác và sự giao cảm đưa người xem bước vào một
thế giới tưởng tượng mà ở đó thực tại đan hịa, hốn vị với ký ức và tiềm thức
trong mối liên hệ với di sản. Nghệ sĩ quan niệm, đình làng là sản phẩm vật chất
của tinh thần, tựa tấm gương soi đa diện tâm hồn Việt Nam. Trong không gian
tâm linh và thế tục ấy, những giá trị của “truyền thống minh triết lâu đời” được
bộc lộ, mọi tinh túy của lý tưởng thẩm mỹ nhiều thế kỷ được quy tụ - đã khiến
ngơi Đình trở thành biểu tượng cho vẻ đẹp thuần khiết của thẩm mỹ Việt và ý
chí sinh tồn Việt Nam. Nhưng để thấu hiểu thành tựu trí tuệ người xưa, chúng
ta phải học cách tiếp cận về những chuẩn mực tạo nên giá trị đặc sắc ấy. Mong
muốn của nghệ sĩ là bằng con mắt thuần Việt: mỗi người soi mình trong văn
hóa - bằng con mắt nhân loại: ta nhận biết được mình trong thiên hạ. Góc trải
nghiệm nghệ thuật có mục đích để người xem thực hành in bản rập các chạm
khắc đình làng theo phương pháp truyền thống, đã thu hút cả người lớn và trẻ
em tham gia thể nghiệm. Cho đến ngày kết thúc triển lãm, theo thống kê của
nghệ sĩ Đặng Thị Khuê, đã có hơn sáu trăm bản rập những hình chạm khắc
đình làng đi vào các gia đình. Như vậy, từ khơng gian nghệ thuật, những giá
trị tốt đẹp của di sản đình làng đã bước vào không gian xã hội. Mỗi bản chạm
khắc sẽ là sự nhắc nhở, đồng thời mở ra những câu chuyện, những chủ đề đối
thoại về di sản và nghệ thuật.
Thay lời kết
Bằng các loại hình nghệ thuật khác nhau, triển lãm nghệ thuật Đối thoại với
đình làng đặt ra các câu hỏi mang tính phản biện về các vấn đề liên quan đến
sự xuống cấp của di sản, sự cần thiết trong việc bảo vệ các giá trị di sản, hay
tơn vinh những nét đẹp của di sản văn hóa dân tộc. Chắc chắn, người xem có
thể đặt ra nhiều câu hỏi, kể thêm nhiều câu chuyện về đình làng, và đây mới
là điều quan trọng. Một cuộc đối thoại thực sự bao giờ cũng cần có thời gian,
CONNECTING ART AND HERITAGE
195
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM
V I E T N A M
U N I V E R S I T Y
O F
F I N E
A R T S
sự tin cậy lẫn nhau và sự bình đẳng giữa những người trao đổi trong cuộc đối
thoại. Bản chất của đối thoại không phải là để khẳng định mà bao hàm một thái
độ trong nỗ lực tìm ra chân lý, đó là một trong những ý nghĩa tích cực của triển
lãm nghệ thuật này.
B.T.T.M. 2013.
Chú thích:
1. Triển lãm Đối thoại với đình làng được tổ chức tại Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam, từ
ngày 20 tháng 9 đến 4 tháng 10 năm 2013. Đây là hoạt động nằm trong khuôn khổ Dự
án Nghiên cứu, sưu tầm, quảng bá và phát huy những giá trị đặc sắc của di sản văn hóa
đình làng vùng châu thổ Bắc Bộ.
2. 10 nghệ sĩ tham gia triển lãm Đối thoại với đình làng, bao gồm: Lê Trần Hậu Anh, Phạm Duy,
Lưu Chí Hiếu, Đặng Thị Khuê, Nguyễn Ngọc Lâm, Nguyễn Mỹ Ngọc, Nguyễn Thế Sơn,
Vũ Nhật Tân, Vũ Đình Tuấn, Khổng Đỗ Tuyền.
Giám tuyển triển lãm: giảng viên Lý luận và lịch sử mỹ thuật, nhà nghiên cứu mỹ thuật Bùi
Thị Thanh Mai.
3. Nghệ thuật điêu khắc đình làng được quan tâm chú ý bắt đầu từ Triển lãm Điêu khắc dân gian
Việt Nam năm 1973, cuộc hội thảo sau đó và các cơng trình nghiên cứu về chủ đề này. Liên
quan đến điêu khắc đình làng, năm 2012, Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam đã tổ chức
Triển lãm Hình tượng Rồng Tiên trên chạm khắc đình làng và tọa đàm Hình tượng Rồng
trong mỹ thuật truyền thống. Nhưng tựu chung, các hoạt động và triển lãm nói trên mới là
sự quan tâm ở góc độ nghiên cứu.
4. Concept (Tiếng Anh): khái niệm, quan niệm.
5. Statement của nghệ sĩ Nguyễn Mỹ Ngọc.
6. Thực tế, nghệ sĩ dát bạc sau đó phủ màu để tạo hiệu quả như dát vàng.
Tài liệu tham khảo:
1. Đề cương dự án Nghiên cứu, sưu tầm quảng bá và phát huy những giá trị đặc sắc của di sản
văn hóa đình làng vùng châu thổ Bắc bộ - Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam.
2. Statement của các nghệ sĩ.
3. Hồ sơ di tích đình Thổ Hà. (Tài liệu do Ban quản lý di tích đình Thổ Hà cung cấp).
4. Hồ sơ di tích đình Lỗ Hạnh (Tài liệu do cụ thủ từ đình Lỗ Hạnh cung cấp).
5. Hồ sơ di tích đình Tây Đằng (Tài liệu do Ban Quản lý di tích đình Tây Đằng cung cấp).
PGS. TS. Bùi Thị Thanh Mai là giảng viên chính, nhà nghiên cứu về Lịch sử mỹ thuật - Trường Đại học
Mỹ thuật Việt Nam. Phụ trách biên tập chuyên mục Lý luận nghệ thuật trong Đặc san Nghiên cứu Mỹ
thuật. Nghiên cứu mỹ thuật Việt Nam, lý thuyết nghệ thuật, giáo dục nghệ thuật và di sản. Đã tham gia
các dự án nghệ thuật Ai kiếm tiền? (2006), Giới có phải là vấn đề?(2007), Bình đẳng là gì?(2008), Bản
sắc là gì?(2009) trong khn khổ hợp tác trao đổi văn hóa giữa Học viện Mỹ thuật Umeå và Trường Đại
học Mỹ thuật Việt Nam. Năm 2013, Giám tuyển Triển lãm nghệ thuật Đối thoại với đình làng tại Trường
Đại học Mỹ thuật Việt Nam.
196
KẾT NỐI NGHỆ THUẬT VÀ DI SẢN