Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

TÌM HIỂU môn võ TAEKWONDO của hàn QUỐC và SO SÁNH với môn võ VOVINAM của VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.28 MB, 90 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI NGỮ
KHOA NGƠN NGỮ VÀ VĂN HĨA HÀN QUỐC
----------

NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SINH VIÊN
NĂM HỌC 2019 - 2020
ĐỀ TÀI

TÌM HIỂU MƠN VÕ TAEKWONDO CỦA HÀN QUỐC VÀ
SO SÁNH VỚI MÔN VÕ VOVINAM CỦA VIỆT NAM
Giảng viên hƣớng dẫn: Ths. Nguyễn Thị Thanh Hoa
Sinh viên thực hiện

: Nguyễn Hải Vân Anh
Nguyễn Trang My
Đồng Thị Bích Ngọc

Khóa

: QH2017

Lớp

: 17K1

Hà Nội, 2/2020


LỜI CẢM ƠN
Nhờ có sự hướng dẫn tận tình của các thầy, cô giáo trong khoa, cũng như sự động


viên ủng hộ của gia đình, bạn bè trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu, chúng tơi đã
hồn thành bài nghiên cứu khoa học về so sánh môn võ Taekwondo của Hàn Quốc và
môn võ Vovinam của Việt Nam.
Xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn đến Thạc sĩ Nguyễn Thị Thanh Hoa – người đã
hết lòng giúp đỡ và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tôi thực hiện bài tiểu luận. Xin gửi lời
cảm ơn sâu sắc đến tồn thể q thầy cơ trong khoa Ngơn ngữ và văn hóa Hàn Quốc –
trường Đại học Ngoại ngữ - ĐHQGHN đã tận tình truyền đạt những kiến thức q báu
giúp chúng tơi trong suốt q trình học tập, nghiên cứu.
Cuối cùng, tơi xin cảm ơn gia đình, các anh chị và các bạn trong khoa đã hỗ trợ,
khích lệ cho chúng tơi rất nhiều trong suốt q trình học tập, nghiên cứu khoa học.
Tuy nhiên, vì kiến thức chun mơn cịn hạn chế và bản thân cịn thiếu nhiều kinh
nghiệm thực tiễn nên nội dung của bài nghiên cứu khoa học khơng tránh khỏi những thiếu
sót, chúng tơi rất mong nhận được sự góp ý, bổ sung thêm của q thầy cơ cùng tồn thể
các anh chị và bạn bè trong khoa Ngơn ngữ và văn hóa Hàn Quốc để bài báo cáo của
chúng tơi được hồn thiện hơn.
Một lần nữa xin được gửi đến thầy cô, bạn bè cùng các anh chị, các bạn lời cảm ơn
chân thành và tốt đẹp nhất!


MỤC LỤC
PHẦN I: MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 3
1.

Lý do chọn đề tài .................................................................................................... 3

2.

Đối tượng nghiên cứu ............................................................................................. 4

3.


Mục đích nghiên cứu .............................................................................................. 4

4.

Phương pháp nghiên cứu ........................................................................................ 5

5.

Lịch sử nghiên cứu ................................................................................................. 5

PHẦN II: NỘI DUNG ....................................................................................................... 7
CHƢƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ MÔN VÕ TAEKWONDO CỦA HÀN QUỐC. ......... 7
1. Taekwondo là gì? ................................................................................................... 7
2. Lịch sử phát triển .................................................................................................... 8
3. Đặc điểm của môn võ Taekwondo ........................................................................ 13
3.1. Các mơn phái chính ................................................................................................. 13
3.2. Võ phục .................................................................................................................... 16
3.3. Hệ thống đai đẳng ................................................................................................... 22
3.4. Hệ thống các bài quyền ........................................................................................... 32
4. Nguyên nhân phát triển mạnh mẽ và triển vọng của Taekwondo trong tương lai.. 48
4.1. Nguyên nhân ............................................................................................................ 48
4.2. Triển vọng ................................................................................................................ 49
CHƢƠNG II: KHÁI QUÁT VỀ VÕ VOVINAM CỦA VIỆT NAM .......................... 50
1. Lịch sử hình thành ................................................................................................ 50
2. Quá trình phát triển............................................................................................... 51
1


3. Đặc trưng của môn võ Vovinam .......................................................................... 53

4. Trang phục và hệ thống đai của Vovinam............................................................ 54
5. Kỹ thuật trong Vovinam ....................................................................................... 56
CHƢƠNG III: SO SÁNH SỰ TƢƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA HAI MÔN
VÕ...................................................................................................................................... 60
1. Ưu điểm và nhược điểm của võ Taekwondo ....................................................... 60
2. Ưu và nhược điểm của môn võ Vovinam. ........................................................... 62
3. So sánh môn võ Vovinam và Taekwondo ............................................................ 65
PHẦN III. KẾT LUẬN .................................................................................................... 86
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................... 89

2


PHẦN I: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hàn Quốc, một trong những cường quốc hàng đầu Châu Á, không chỉ được biết
đến với tốc độ phát triển kinh tế thần tốc, với làn sóng Hallyu mạnh mẽ mà cịn được biết
đến bởi nền văn hóa đậm đà bản sắc, độc đáo, đa dạng. Nhắc những đặc trưng trong văn
hóa của Hàn Quốc ta không thể không nhắc đến môn võ Taekwondo, loại hình võ đạo
quốc gia của Hàn Quốc và là một trong những môn thể thao phổ biến nhất trên thế giới.
Cùng hình thành và phát triển trên nền văn hóa Đơng Á, giữa Hàn Quốc và Việt
Nam tuy khác nhau về địa lý, về thể chế chính trị nhưng lại có rất nhiều điểm tương đồng
về con người, lịch sử, văn hóa. Kể từ khi quan hệ ngoại giao giữa Hàn Quốc và Việt Nam
được thiết lập vào năm 1992 cho đến nay, quan hệ đối tác chiến lược, hợp tác chính trị
ngoại giao song phương giữa hai nước đã, đang và sẽ được phát triển và mở rộng trên
nhiều lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội,... Và để tạo cơ sở để phát triển mối quan hệ quý
giá này, nhiều nghiên cứu về đa dạng các lĩnh vực của Hàn Quốc đã ra đời, góp phần cho
tủ sách hiểu biết về đất nước bạn thêm đầy đủ, chính xác và phong phú hơn. Điều này góp
một phần khơng nhỏ trong việc phát triển mối quan hệ song phương giữa hai nước. Để
đóng góp một chút sức lực làm cho tủ sách hiểu biết này thêm giàu có, cũng như để tự

trau dồi cho bản thân những kiến thức về mơn võ Taekwondo, loại hình võ đạo đặc trưng
của Hàn Quốc, chúng tôi quyết định nghiên cứu, khai thác về đề tài mơn võ Taekwondo,
tìm ra hệ thống kiến thức từ cơ bản đến nâng cao về chủ đề này. Bên cạnh đó, hệ thống
kiến thức này cũng giúp cho chúng tơi có thể nghiên cứu sâu hơn về mối liên hệ, sự giống
và khác nhau giữa môn võ Taekwondo của Hàn Quốc và môn võ Vovinam của Việt
Nam.
Với những lý do và cơ sở trên, chúng tôi rất mong rằng kết quả nghiên cứu này sẽ
có thể giúp ích cho các cơng trình nghiên cứu cao và sâu hơn về mơn võ Taekwondo nói
3


riêng và văn hóa Hàn Quốc nói chung, cũng như những nghiên cứu về mối liên hệ giữa
hai nền văn hóa Hàn - Việt.
2. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là môn võ Taekwondo của Hàn Quốc, mơn võ
Vovinam của Việt Nam, qua sự tìm hiểu đó chúng tơi sẽ tìm ra những điểm tương đồng
và khác biệt giữa hai môn võ này. Trong phạm vi nghiên cứu hạn hẹp chúng tôi xin giới
thiệu đôi nét về lịch sử hình thành, đặc điểm của mơn võ Taekwondo. Bên cạnh đó, bằng
cách đưa ra một số ưu nhược điểm của hai môn võ Taekwondo (Hàn Quốc) và Vovinam
(Việt Nam), chúng tơi đem đến cái nhìn khái qt cho người đọc những điểm tương đồng
và khác biệt giữa hai môn võ được coi là võ dân tộc của hai quốc gia.
3. Mục đích nghiên cứu
Bài nghiên cứu khoa học này là sự tập hợp, nghiên cứu và khai thác thông tin, kiến
thức từ các tư liệu nghiên cứu trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến môn võ Taekwondo
của Hàn Quốc. Từ đó đem lại cái nhìn tập trung rõ nét và cụ thể nhất về môn võ truyền
thống này.
Với lý do chọn đề tài đã nêu ở trên, mục đích nghiên cứu đề tài này bao gồm:
(1) Đem đến cái nhìn cụ thể về mơn võ Taekwondo của Hàn Quốc, cung cấp
những kiến thức cơ bản đến nâng cao về bộ môn thể thao này.
(2) Thúc đẩy mối quan hệ giữa Hàn Quốc và Việt Nam thông qua hai mơn võ

Taekwondo và Vovinam.
(3) Tìm hiểu về đặc điểm và triển vọng phát triển của hai bộ môn Taekwondo và
Vovinam để tìm ra những biện pháp giữ gìn, phát huy hai bộ môn này trong tương lai.

4


4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để phục vụ cho quá trình nghiên cứu đề tài, cần phải có các phương pháp nghiên
cứu một cách phù hợp, cụ thể để đưa ra kết quả tốt nhất hồn thành mục đích nghiên cứu.
Có rất nhiều phương pháp nghiên cứu nhưng trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi
sử dụng chủ yếu một số phương pháp như sau:
(1) Phương pháp phân tích tư liệu: Tìm kiếm và phân tích các tư liệu về
Taekwondo và Vovinam của các học giả đi trước để tìm ra khía cạnh mới và hướng đi
phù hợp cho đề tài nghiên cứu của mình.
(2) Phương pháp so sánh: Tùy theo từng góc độ khác nhau mà đặt đề tài so sánh.
Ở góc độ thứ nhất, so sánh Taekwondo theo hai mơn phái để làm nổi bật đặc trưng từng
mơn phái, tìm ra các điểm tương đồng và sự thay đổi, khác nhau rõ rệt về đặc điểm đến ý
nghĩa. Ở góc độ thứ hai, tôi so sánh Taekwondo với Vovinam của Việt Nam để làm rõ
những nét tương đồng về một số khía cạnh, đồng thời làm nổi bật sự khác nhau tạo nên
đặc trưng của từng nền văn hóa.
(3) Phương pháp liên ngành: Tích hợp những tri thức của các chuyên ngành liên
quan đến đề tài tiểu luận như văn học, sử học, địa lý học, dân tộc học,... để phân tích và
tổng hợp các khía cạnh của Taekwondo.
5. Lịch sử nghiên cứu
Ở tầm cỡ quốc gia, môn võ Vovinam đã có cuốn sách “Lược sử cổ truyền võ Việt
Nam” của Tiến sĩ Mai Văn Muôn do nhà xuất bản TDTT phát hành năm 1991; luận án
tiến sĩ “Nghiên cứu hiệu quả các tố chất thể lực của người tập Vovinam – Việt Võ Đạo
(Lứa tuổi 14 và 17),2002” của tác giả Nguyễn Thành Tuấn. Đối với môn võ Taekwondo,
nhiều đầu sách đã được xuất bản và nhiều cơng trình nghiên cứu khoa học như luận án

tiến sĩ “Nghiên cứu một số thành phần của trình độ tập luyện ở vận động viên Taekwondo
5


14 - 16 tuổi, 2008” của tác giả Nguyễn Thị Ngọc; luận án tiến sĩ “Nghiên cứu hệ thống
bài tập phát triển sức mạnh tốc độ cho nam vận động viên Taekwondo trẻ tại Việt Nam,
2012” của tác giả Nguyễn Xuân Thành. Tuy nhiên đến nay ở Việt Nam, những nghiên
cứu có tính chất so sánh hai mơn võ thuật này hầu như chưa có, ngồi những tài liệu
chun mơn của từng môn võ.

6


PHẦN II: NỘI DUNG
CHƢƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ MÔN VÕ TAEKWONDO CỦA HÀN QUỐC.
1. Taekwondo là gì?
Taekwondo, cịn được viết là Tae Kwon Do hay Taekwon-Do (tiếng Hàn: 태권도,
Hanja: 跆拳道, tiếng Việt: Đài quyền đạo hay Thái Cực Đạo) là Quốc võ, môn thể thao quốc

gia của Hàn Quốc và là loại hình võ đạo (mudo) thường được tập luyện nhiều nhất của
người dân nước này. Đây cũng là một trong những môn thể thao phổ biến nhất trên thế giới.

Trong "Taekwondo" từ “Tae” (태, Hanja: 跆) có nghĩa là "cước pháp", từ “Kwon”
(권, Hanja: 拳) nghĩa là "thủ pháp"; và từ “Do” (도, Hanja: 道) có nghĩa là "đạo, con
đường" (hay "nghệ thuật"). Vì vậy, Taekwondo có nghĩa là "Nghệ thuật đấu võ bằng tay và
chân".

Trong những năm 50 của thể kỷ XX, Taekwondo được biết đến rộng rãi nhờ một
số võ sư Hàn Quốc tiên phong quyết định đến Hoa Kỳ truyền bá võ thuật. Những thập kỷ
sau đó, võ thuật Taekwondo phát triển ngày càng mạnh mẽ và Taekwondo khơng chỉ là

mơn võ thuật đơn thuần, nó trở thành môn thể thao quốc tế.
Võ thuật Taekwondo hiện đại phát triển mạnh mẽ được như ngày nay là nhờ công
lớn của người được thừa nhận là cha đẻ của Taekwondo hiện đại - người sáng lập kiêm
Chủ tịch của Liên đoàn Taekwondo quốc tế (ITF) - Thiếu tướng Choi Hong Hi. Nhờ sự
nỗ lực và cống hiến hết mình của ơng mà Taekwondo đã thành cơng, phát triển lớn mạnh
như ngày nay. Hiện nay, Liên đoàn Taekwondo quốc tế đã có 193 quốc gia thành viên thế
giới, với khoảng 50.000.000 người tập luyện. Ủy ban Olympic Quốc Tế (International
Olympic Committee) - IOC đã công nhận Taekwondo là môn thể thao quốc tế tại đại hội

7


lần thứ 83 năm 1980 và công nhận Taekwondo là môn thi đấu tại Thế vận hội 2000, 2004,
2008, 2012, 2016.
Võ thuật Taekwondo xuất hiện ở Việt Nam do được quân đội Nam Hàn truyền bá
trong chiến tranh Việt Nam. Thời gian đầu, môn võ này được gọi là Võ Đại Hàn, sau đó
được gọi là Túc Quyền Đạo, Thái Cực Đạo. Cho đến thời điểm hiện tại, Taekwondo là
một trong những bộ mơn võ thuật u thích của người Việt và thu hút được rất nhiều
người tham gia tập luyện. Việt Nam cũng là nước có nhiều võ sĩ Taekwondo giỏi và giành
được nhiều thứ hạng cao trong các cuộc thi đấu Quốc tế như võ sư Trương Ngọc Để - chủ
tịch Liên đồn Taekwondo Việt Nam (VTF), Phó tổng thư ký VTF và đồng thời là HLV
trưởng đội tuyển quyền taekwondo Việt Nam Nguyễn Thanh Huy,.... Cụ thể, võ sĩ Trần
Hiếu Ngân chính là vận động viên Taekwondo Việt Nam giành được huy chương bạc tại
Olympic Sydney 2000 và là vận động viên Việt Nam đầu tiên giành huy chương tại đấu
trường Olympic.
2. Lịch sử phát triển
2.1. Thời sơ khai
Võ thuật ở Hàn Quốc có lịch sử rất lâu đời, bắt đầu từ thời cổ đại. Các nghệ thuật
chiến đấu truyền thống của Hàn Quốc, có thể bắt nguồn từ thời kì Cao Ly năm 37 trước
Cơng ngun. Người ta đã phát hiện ra tại một di tích của mồ mả hoàng gia

Muyongchong và Kakchu-chong xây cất trong khoảng từ năm thứ 3 đến năm 427 nhiều
bức tranh vẽ trên tường có cảnh những người đàn ơng đang tập luyện. Đây có thể là
những tài liệu ban đầu mô tả về các kỹ thuật đối kháng ban đầu có tên là Subakhi.
Các kỹ thuật chiến đấu truyền thống Triều Tiên cũng được tập luyện tại Sil La, một
vương quốc được thành lập ở đông nam Triều Tiên vào khoảng 20 năm trước triều đại
Cao Câu Ly ở phía bắc. Tại Kyongju, kinh đô trước đây của Tân La, hình hai vị Kim
Cang trừ ma diệt quỷ bảo vệ Phật giáo trong tư thế trụ tấn được khắc trên bức tường trong
hang động Sokkuram ở đền Pulkuk-sa. Thời gian này, một tổ chức Hwarangdo gây ảnh

8


hưởng rất lớn và làm phong phú thêm cho nền văn hoá và võ thuật Triều Tiên, được thành
lập. Con cháu của giới quý tộc ở Tân La đã được tuyển chọn để học tập huấn luyện trong
Hwarangdo như là một tổ chức quân đội, giáo dục và xã hội. Các kỹ thuật chiến đấu của
Trung Quốc cũng được du nhập và được đưa vào huấn luyện truyền bá trong Hwarangdo
với tên gọi Dang Soo (Đường thủ), Gong Soo (Tống thủ).
Nhiều tài liệu cho thấy tổ chức này không chỉ xem việc tập luyện võ thuật như là
phần thiết yếu trong huấn luyện quân đội và tăng cường thể chất mà còn phát triển chúng
như là một hoạt động giải trí. Các khám phá nghệ thuật cổ như các bức tranh trên tường ở
những ngôi mộ của triều đại Cao Câu Ly, các hình ảnh khắc trên đá ở những đền, chùa
được xây dựng trong khoảng thời gian của triều đại Silla và nhiều tài liệu cho thấy các thế
tấn, kỹ thuật và hình dáng rất giống với các thế tấn và hình dáng của Taekwondo ngày
nay.
Trong thời kì Cao Ly (918-1392), võ thuật Triều Tiên, lúc bấy giờ được biết nhiều
với tên gọi là Subakhi, được tập luyện không chỉ được xem như là một kỹ năng để tăng
cường sức khoẻ mà nó cịn được khuyến khích tập luyện như một võ thuật có giá trị cao.
Có ít nhất là hai tài liệu được ghi chép trong thời gian đó cho thấy rằng Subakhi đã trở
nên rất phổ biến đến nỗi nó được đem biểu diễn cho vua xem. Điều này có nghĩa là
Subakhi đã được tập luyện như một mơn thể thao có tổ chức cho khán giả xem và các

chuyên gia cho rằng vào thời gian đó người Hàn Quốc rất thích khía cạnh thi đấu của võ
thuật.
Dưới thời nhà Triều Tiên có một quyển sách phát hành về dạy hệ thống các kỹ
năng chiến đấu tương tự cách huấn luyện võ thuật ngày nay. Nó đã trở thành phổ biến hơn
với công chúng, ngược lại với triều đại Koryo trước đây, võ thuật chỉ độc quyền cho quân
đội. Một tài liệu lịch sử viết người dân của tỉnh Chungchong và Cholla đã tụ tập ở một
làng tổ chức thi đấu Subakhi. Tài liệu này cho thấy Subakhi đóng một vai trị quan trọng
trong hoạt động thể thao quần chúng. Hơn thế nữa, dân chúng muốn tham gia vào quân

9


đội của hoàng gia rất háo hức tập luyện Subakhi bởi vì nó là mơn kiểm tra chính trong
chương trình tuyển chọn.
Đặc biệt, vua Triều Tiên Chính Tổ (1777-1800) phát hành một bộ sách giáo khoa
về phong tục và tập quán Hàn Quốc có tựa đề là Chaemulbo, trong đó nói rằng Subakhi
được gọi là Taekkyon, một tên gọi rất tương đồng với tên gọi Taekwondo ngày nay.
Các chuyên gia cho rằng vấn đề quan trọng ở đây không chỉ là tên được thay đổi
mà cả kỹ thuật cũng thay đổi một cách đột ngột. Trong giai đoạn lịch sử Subakhi trước đó,
kỹ thuật tay được nhấn mạnh. Các tài liệu lịch sử có liên quan đến Taekkyon được xuất
bản vào khoảng cuối thế kỷ 19 ghi lại rằng nó là một nghệ thuật được đặt phần lớn trên
các kỹ thuật chân. Lúc bấy giờ, Taekkyon thật sự là một mơn thi đấu có hệ thống tập
trung vào kỹ thuật chân và chiến thuật. Vì vậy thật là rõ ràng trong suốt thời nhà Triều
Tiên, Subakhi đã trở thành một môn thể thao quốc gia quan trọng và thu hút sự chú ý của
cả hồng gia lẫn cơng chúng.
Vào cuối triều đại Chonsun, Subakhi bắt đầu suy tàn vì sự bỏ mặc của hoàng gia
cũng như sự ăn sâu của đạo Khổng đề cao giá trị văn chương. Subakhi chỉ tồn tại như một
hoạt động giải trí của người dân thường.
Vào cuối thế kỷ 19, quân đội Triều Tiên suy yếu, người Nhật đô hộ đất nước. Sự
áp bức của đế quốc Nhật Bản đối với nhân dân Triều Tiên rất hà khắc và việc tập luyện võ

thuật được xem nguồn gốc của sự nổi loạn bị cấm đoán. Tuy nhiên, các tổ chức kháng
Nhật sử dụng Taekkyon như một phương pháp huấn luyện tinh thần và thể chất. Ngoài ra,
các du học sinh Triều Tiên tại Nhật Bản cũng hấp thu được các môn võ mới của Nhật Bản
như Karate và Jujitsu. Điều này đã ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành mơn võ
Taekwondo hiện đại sau này.

10


2.2. Thời hiện đại
Sau giải phóng vào ngày 15 tháng 8 năm 1945, những người có nguyện vọng khơi
phục lại môn võ thuật cổ truyền Triều Tiên bắt đầu dạy trở lại. Bên cạnh đó, các du học
sinh Triều Tiên tại Nhật Bản cũng trở về Triều Tiên và mở các võ đường dạy các kỹ thuật
họ tổng hợp từ môn võ truyền thống Triều Tiên với các kỹ thuật tân tiến của Nhật Bản.
Các võ đường lớn được thành lập như Chung Do Kwan (청도관) do Lee Won Kuk thành
lập tháng 9 năm 1944; Moo Duk kwan (무덕관) do Hwang Kee thành lập tháng 11 năm
1945, Kwon Bop dojang (권법도장) do Yun Byung-in thành lập và Song Moo kwan
(송무관) do Byung Jik Ro thành lập). Hầu hết đều dùng tên gọi Kong So do hay Tae Soo
Do cho môn võ tổng hợp của mình.
Tháng 1 năm 1946, Choi Hong Hi, một sĩ quan trẻ, đã xây dựng phong trào tập
luyện võ thuật trong đơn vị của mình. Tám năm sau, trên cương vị Thiếu tướng Tư lệnh
Sư đoàn 29 Bộ binh, ông đã thành lập võ đường Oh Do Kwan (오도관 - Ngã Đạo Quán)
tại Yong Dae Ri. Tháng 9 năm 1954, Choi cùng các mơn đệ của mình đã biểu diễn các kỹ
thuật mới do chính ơng tổng hợp trước sự chứng kiến của Tổng thống Rhee Syngman vào
tháng 9 năm 1954. Buổi biểu diễn đã gây được ấn tượng lớn đối với Rhee và Choi được
bổ nhiệm làm huấn luyện viên trưởng của Chung Do Kwan, bấy giờ là võ đường lớn nhất
Hàn Quốc. Đầu năm 1955, một ủy ban đặc biệt được thành lập theo chỉ thị của tổng thống
bao gồm các nhân sĩ trí thức, giáo sư, sử gia và các chính khách uy tín để đặt tên cho môn
võ mới nhằm quảng bá trong đại chúng. Ngày 11 tháng 4 năm 1955, ủy ban công bố tên
gọi TaeKwonDo cho môn võ thuật dựa trên nền tảng của mơn Taekkyon đã được hiện đại

hóa. Tên gọi này chính thức được dùng để thay thế cho những tên gọi cũ như Dang Soo,
Gong Soo, Taek Kyon, Kwon Bup,... vốn vẫn được lưu hành trong dân gian.

11


Cuối cùng vào tháng 9 năm 1959, Hội Taekwondo Hàn Quốc được thành lập
(trước đó vốn mang tên là Hiệp hội Tae Soo Do Triều Tiên). Vào thập niên 60, huấn
luyện viên Hàn Quốc bắt đầu ra nước ngoài phổ biến Taekwondo. Tháng 10 năm 1963,
Taekwondo đã trở thành môn thi đấu chính thức lần đầu tiên tại Đại hội Thể thao Quốc
gia. Đây là bước ngoặt trong lịch sử phát triển của môn võ này.
Ngày 22 tháng 3 năm 1966, Liên đoàn Taekwondo quốc tế (International
Taekwon-Do Federation - ITF) được thành lập với 9 thành viên sáng lập gồm Việt Nam
Cộng hòa, Malaysia, Singapore, Tây Đức, Hoa Kỳ, Thổ Nhĩ Kỳ, Ý, Ai Cập và Hàn Quốc.
Năm 1972, Taekwondo chứng kiến cuộc phân ly lớn sau khi Chủ tịch ITF lưu vong
sang Canada và dời trụ sở của ITF về đây sau đó chia làm 3 chi phái: Choi Hong Hwa
[con trai của Choi Hong Hi], Chang Ung thành viên IOC tại Bắc Hàn,. Tại Hàn Quốc,
Hiệp hội Taekwondo Hàn Quốc thành lập Kukkiwon (국기원) để tiêu chuẩn hóa kỹ thuật
và tổ chức. Giải Vô địch Thế giới lần 1 tại Seoul từ ngày 25 đến 27 tháng 5 năm 1973 với
19 quốc gia tham dự. Tại cuộc họp được tổ chức bên lề của giải, một tổ chức mới được
thành lập với tên gọi là Liên đoàn Taekwondo Thế giới (World TaeKwonDo Federation WTF), do Tiến sĩ Un Yong Kim làm chủ tịch. Từ đó, giải Vơ địch Taekwondo Thế giới
được tổ chức 2 năm một lần.
Hiện nay Liên đồn Taekwondo Thế giới (WTF) có 193 quốc gia thành viên toàn
thế giới, với khoảng 50.000.000 người tập luyện. IOC đã công nhận Taekwondo là môn
thể thao quốc tế tại đại hội lần thứ 83 năm 1980, Taekwondo được công nhận là môn thi
đấu tại Thế vận hội 2000 và 2004.
Về tên gọi của Taekwondo ở Việt Nam, do được truyền bá bởi quân đội Nam Hàn
trong chiến tranh Việt Nam nên thời gian đầu môn võ này được gọi là Võ Đại Hàn, sau đó
được gọi là Túc Quyền đạo, Thái Cực Đạo (tên gọi này được cho là xuất phát từ lá cờ


12


mang hình âm dương thái cực của Hàn Quốc). Taekwondo cũng phổ biến ở miền Nam
Việt Nam trước khi được truyền bá ra miền Bắc.
3. Đặc điểm của môn võ Taekwondo
3.1. Các mơn phái chính
3.1.1. Liên đồn Taekwondo Quốc Tế (Hệ phái Chang Hon)
Đây là hệ phái lớn đầu tiên của Taekwondo, dựa trên hệ thống kỹ thuật và quyền
pháp do Đại võ sư Choi Hong Hi xây dựng từ năm 1954. Hệ phái lấy tên theo tên hiệu của
đại sư Choi Hong Hi, người sáng lập hệ phái: Chang Hon (창헌, Thương Hiên). Đây cũng
là hệ phái nền tảng của Liên đoàn Taekwondo quốc tế, thành lập năm 1966.
Liên đoàn Taekwondoo quốc tế (tiếng Anh: International Taekwon-Do Federation
hay gọi tắt là ITF) là hệ một phái võ quyền do cựu thiếu tướng Hàn Quốc Choi Hong Hi
sáng lập ngày 22 tháng 3 năm 1966.

Cựu thiếu tướng Hàn Quốc Choi Hong Ki
Trong khi Liên đoàn Taekwondo thế giới (gọi tắt là WTF, thành lập năm 1973) coi
môn Taekwondo như một dạng thể thao, ITF nêu cao tính võ nghệ của môn võ này.

13


Trong những năm đầu, các nước sau đây là thành viên của ITF: Hàn Quốc, Việt
Nam, Mã Lai, Singapore, Tây Đức, Hoa Kỳ, Thổ Nhĩ Kỳ, Ý và Ai Cập.

Logo của Liên đoàn Taekwondo Quốc Tế (ITF)
Đặc điểm của hệ phái là có nhiều nét tương đồng với quyền pháp Karate, mang
nặng tính chiến đấu. Hệ thống quyền pháp có 24 bài quyền (형, hyeong) và hệ thống đẳng
cấp phân thành 10 cấp (급, Kup) và 9 đẳng (단, dan). Võ phục và thể lệ thi đấu gần như

tương tự với Karate. Vì vậy, khi thi đấu, các võ sĩ khơng mang giáp và khi ra địn phải
dừng địn ở cự ly tối thiểu hoặc chỉ được khẽ chạm vào đối thủ.

Môn sinh của môn phái ITF

14


3.1.2. Liên đoàn Taekwondo Thế Giới (Hệ phái Kukiwon)
Đây là hệ phái lớn nhất thế giới, dựa trên hệ thống kỹ thuật và quyền pháp quy
định tổ chức kỹ thuật Kukkiwon (국기원) của Hiệp hội Taekwondo Hàn Quốc, thành lập
năm 1973. Đây cũng là hệ phái nền tảng của Liên đồn Taekwondo thế giới, thành lập
cùng năm đó.
Liên đồn Taekwondo thế giới (tiếng Anh: World Taekwondo Federation hay
WTF) là một tổ chức được Ủy ban Olympic Quốc tế (IOC) công nhận là liên đồn thể
thao quản lý mơn võ Taekwondo ở tầm quốc tế. WTF được thành lập trong hội nghị ngày
28 tháng 5 năm 1973 tại Kukkiwon, Seoul, Hàn Quốc với 35 đại diện cho các quốc gia
tham dự, sau khi Liên đoàn Taekwon-Do quốc tế (ITF) rời khỏi Hàn Quốc.

Logo của Liên đoàn Taekwondo Thế Giới (WTF)
Đặc điểm của hệ phái mang tính hiện đại và thể thao nhiều hơn. Các đòn thế nguy
hiểm bị cấm dùng trong thi đấu. Hệ thống quyền pháp có 25 bài quyền (품새, Poomsae)
và hệ thống đẳng cấp: 9 cấp (급, Kup) và 9 đẳng (단, Dan). Võ phục dùng loại áo cổ chữ
V và thể lệ thi đấu mang nặng tính thể thao. Vì vậy khi thi đấu, các vận động viên bắt
buộc mặc giáp và chỉ được phép tấn công vào phần mặc giáp của đối thủ.

15


Môn sinh của hệ phái Kukiwon thi đấu

3.2. Võ phục
Võ phục Taekwondo (tên tiếng Hàn là 도복 /dobok/) có màu trắng chủ đạo. Màu
trắng là màu tươi tắn, tinh khôi, là màu của sự khởi đầu mới, tượng trưng cho tinh thần võ
thuật.
Một bộ võ phục đầy đủ bao gồm áo, quần và đai. Áo tượng trưng cho phần dương
là trời, quần tượng trưng cho phần âm là đất, và đai là tượng trưng cho sợi dây kết nối
giữa âm và dương, giữa trời và đất.
Bên cạnh đó, phương pháp may võ phục Taekwondo có điểm tương đồng với
phương pháp may Hanbok - trang phục truyền thống của Hàn Quốc. Đó là sự kết hợp của
3 hình dạng trịn, vng và tam giác tạo nên một bộ võ phục hoàn chỉnh.

16


3.2.1. Võ phục hệ phái Chang Hon (ITF)

Võ phục hệ phái Chang Hon (ITF)
Võ phục của hệ phái Chang Hon (ITF) màu trắng, với áo là dạng áo gấp vạt chéo.
Trên ngực trái của bộ võ phục có logo của hệ phái, đằng sau lưng có ghi rõ Taekwon-Do
ITF
Võ phục hệ phái Chang Hon chia làm 3 loại, phân biệt bằng chi tiết trên áo và quần:
võ phục dành cho người đạt cấp, võ phục dành cho người đạt đẳng và võ phục dành cho
võ sư.

17


Võ phục dành cho người đạt cấp (từ cấp 10 đến cấp 1)
Võ phục dành cho người đạt cấp từ cấp 10 đến cấp 1 có vạt áo màu trắng, quần
trắng.


Võ phục dành cho người đạt đẳng (từ nhất đẳng đến tam đẳng)

18


Võ phục dành cho người đạt đẳng bao gồm nhất đẳng, nhị đẳng, tam đẳng được
thêm dải màu đen dưới gấu áo, quần trắng.

Võ phục dành cho võ sư (từ tứ đẳng đến cửu đẳng)
Võ phục dành cho võ sư bao gồm từ tứ đẳng đến cửu đẳng, là các huấn luyện viên,
võ sư và đại sư, được thêm các dải màu đen dưới gấu áo, vai áo và tay áo, quần cũng
được thêm dải màu đen ở hai bên.
3.2.2. Võ phục hệ phái Kukiwon (WTF)

19


Võ phục của hệ phái Kukkiwon là kiểu áo chui đầu, khác với các loại võ phục vạt
chéo khác, cổ áo chữ v xẻ sâu. Logo của hệ phái nằm ở phần cổ áo.
Võ phục của hệ phái Kukkiwon được chia làm 3 loại, phân biệt bằng màu của cổ
áo, bao gồm: võ phục dành cho người đạt cấp, võ phục dành cho người đạt poom, võ phục
dành cho người đạt đẳng.

Võ phục dành cho người đạt cấp (từ cấp 8 đến cấp 1)
Võ phục dành cho người đạt cấp có màu màu trắng, phần cổ áo màu trắng.
Hệ phái Kukkiwon không cho phép các võ sinh dưới 15 tuổi đạt đẳng, thay vào đó
các võ sinh sẽ đạt các poom, các võ sinh đạt poom được gọi là “võ sinh huyền đai ít tuổi”,
poom sẽ được quy đổi sang đẳng khi võ sinh đủ tuổi. Võ phục của các “võ sinh ít tuổi”
này được đánh dấu bằng cổ áo hai màu đỏ và đen, huyền đai (đai đen) cũng được thay thế

bằng hai màu đỏ và đen.

20


Võ phục dành cho người đạt poom

Võ phục dành cho người đạt đẳng
Võ phục dành cho võ sinh đạt đẳng (võ sinh huyền đai) có cổ áo màu đen.

21


3.3. Hệ thống đai đẳng

Gắn liền với bộ võ phục là phù hiệu và đai. Màu sắc đai trong võ phục quyền
Taekwondo cũng có ý nghĩa riêng, đây có lẽ là điểm trọng tâm cần được phân tích rõ ràng
nhất trong võ phục quyền Taekwondo. Trong thực tế có rất nhiều ý kiến khác nhau về ý
nghĩa các màu đai. Cấp bậc, trình độ chun mơn của võ sinh được đánh giá và ghi nhận
qua màu sắc chiếc đai mà võ sinh được đeo khi tập luyện. Và còn liên tưởng ý nghĩa màu
đai của Taekwondo như một chuỗi của sự sống, sự phát triển hình thành của một chiếc
cây.

Đai màu trắng: Khi võ sinh bắt đầu được làm quen và luyện tập Taekwondo sẽ
được phát đeo chiếc đai màu trắng. Màu Trắng biểu tượng cho sự tinh khôi, trong sáng
22


hay màu trắng cịn được ví như sự khởi đầu cho một sự sống, một hạt giống bắt đầu được
ươm trồng. Võ sinh đeo vòng đai trắng là một học sinh mới bắt đầu trên con đường học

"đạo", tìm kiếm các kiến thức về võ thuật.

Màu vàng: Biểu tượng cho ánh sáng của mặt trời. Và ánh sáng mặt trời đã làm cho
hạt giống được vươn dậy. Ánh sáng vàng – ánh sáng của mặt trời – ánh sáng của tri thức
đã đem sức mạnh để bắt đầu cho một cuộc sống mới. Võ sinh đeo dây đai màu vàng biểu
thị họ đã bắt đầu được lĩnh hội những kiến thức cơ bản đầu tiên về Taekwondo, như mầm
giống nhận được ánh sáng - từ giảng viên của mình.

Màu xanh lá cây: Biểu hiện sự tăng trưởng của mầm giống nhỏ. Và từ mầm giống
nhỏ (cấp đai trắng), sau khi được hấp thụ ánh sáng mặt trời (qua cấp đai vàng), mầm

23


×