Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Bảo tồn phát huy các giá trị trống rabana trong cộng đồng chăm an giang ths hồ lưu phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (491.8 KB, 17 trang )

BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA CỦA TRỐNG RABANA
TRONG CỘNG ĐỒNG CHĂM Ở AN GIANG
Hồ Lưu Phúc
Tóm tắt:
Trống Rabana là nhạc cụ truyền thống được người Chăm ở An Giang sáng tạo
và gìn giữ qua nhiều thế hệ. Nhiều trống được giữ gìn lâu năm gắn liền với quá trình
định cư sinh sống của người Chăm ở An Giang. Trống Rabana được người Chăm sử
dụng để biểu diễn trong một số lễ hội, sinh hoạt văn hóa cộng đồng Chăm. Hiện nay,
loại nhạc cụ này đang đứng trước nguy cơ mai một vì nhiều nguyên nhân. Trong phạm
vi bài viết này, ngoài việc giới thiệu các giá trị văn hóa của trống Rabana, chúng tơi cố
gắng nhìn nhận và đánh giá về tình hình bảo tồn trống Rabana ở thời điểm hiện tại và
đề xuất một số định hướng, giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy hiệu quả trống
Rabana trong cộng đồng Chăm ở An Giang.
Từ khóa: Trống Rabana; Người Chăm; Nghệ thuật biểu diễn trống Rabana;
1. Dẫn nhập
An Giang là một trong mười ba tỉnh, thành phố ở khu vực Đồng bằng sông Cửu
Long, nằm về phía Tây Nam Việt Nam, có diện tích 3.536km2. Là tỉnh biên giới với
đường biên giới phía Tây Bắc tiếp giáp với hai tỉnh TaKao và Kadal thuộc vương quốc
Campuchia (95km); Phía Đơng và Đơng Bắc giáp tỉnh Đồng Tháp; Phía Đơng Nam
giáp tỉnh Cần Thơ; Phía Tây và Tây Nam giáp tỉnh Kiên Giang. Đây là khu vực mang
đặc thù của vùng đất nông nghiệp, nằm đầu nguồn sơng Cửu Long, vừa có đồng bằng,
vừa có đồi núi với 11 đơn vị hành chính là huyện, thị, thành phố (8 huyện, 1 thị xã, 2
thành phố). Ngoài ra, nơi đây cịn là tỉnh có nhiều thành phần dân tộc cùng sinh sống
như : Kinh, Chăm, Hoa, Khmer đã tạo nên nét độc đáo riêng cho văn hóa các dân tộc
ở An Giang.
Người Chăm ở An Giang vốn có nguồn gốc lâu đời định cư ở khu vực miền
Trung. Trong lịch sử, họ đã đạt được một trình độ cao về tổ chức xã hội và đã sản sinh
ra một nền văn hóa phong phú và độc đáo. Do nhiều nguyên nhân lịch sử khác nhau,
người Chăm đã rời cố hương đến sinh sống tại An Giang và Campuchia (1), hình thành
1



nên một cộng đồng xuyên biên giới cùng nhau sinh sống và phát triển. Do điều kiện
lịch sử, người Chăm ở An Giang có mối quan hệ với người theo đạo Islam (2) ở
Malaysia(3), Indonesia. Từ đó, mở rộng quan hệ với cộng đồng Islam ở khu vực Đông
Nam Á và thế giới. Chính vì thế, cộng đồng người Chăm ở An Giang chịu ảnh hưởng
của người Malaysia nhiều hơn về tiếng nói, tín ngưỡng so với những đồng tộc của họ
ở khu vực Ninh Thuận, Bình Thuận. Hiện nay, người Chăm ở An Giang theo thống kê
vào năm 2001 có 2.039 hộ với số dân khoảng 13.060 người. Đến năm 2009, theo số
liệu của Cục thống kê tỉnh An Giang, số hộ người Chăm ở toàn tỉnh tăng lên 14.209
người với 6.977 nam và 7.232 nữ (chiếm 0,61% dân số toàn tỉnh) (Nguyễn Mạnh
Cường 2010: 117) chủ yếu phân bố ở các huyện như: An Phú, Châu Phú, Châu Thành
và thị xã Tân Châu.
Trong các di sản văn hóa của người Chăm, Âm nhạc truyền thống dân gian là
một trong nét văn hóa nổi bật. Đó là một nền âm nhạc dân gian độc đáo được hình
thành và phát triển rất sớm trong lịch sử dân tộc. Âm nhạc gắn bó với đời sống người
Chăm từ lúc sinh cho đến lúc mất đi, hiện diện trong các nghi lễ, lễ hội, sinh hoạt văn
hóa của cộng đồng Chăm. Đơi khi âm nhạc còn là một cách truyền tải những ước vọng
của con người đến thần linh hay thể hiện những ước vọng cuộc sống lao động thường
ngày. Âm nhạc Chăm đã đạt đến trình độ cao về nghệ thuật, từ bài bản tổ chức đến thể
loại nhạc cụ. Đây là một nền âm nhạc có nhiều giá trị đóng góp trong âm nhạc học
cũng như trong đời sống văn hóa của người Chăm.
Đối với Âm nhạc người Chăm ở khu vực Ninh Thuận, Bình Thuận có nhiều thể
loại như: Nhạc lễ dùng trong các ngày lễ kỷ niệm thần linh như Po Ina Nagar, Po tang
Ahaok,…mỗi vị thần khi cúng tế đều được phụ trợ bằng một loại nhạc riêng. Dân ca
Chăm có nhiều thể loại như: Daoh Mâyut (hát ân tình), Daoh dam dara (hát đối đáp),
Daoh rathung chai (hát xay lúa, giã gạo),… Những bản tình ca Chăm chủ yếu xoay
quanh chuyện tình trai gái yêu nhau đầy sự hồn nhiên, trong sáng. Nhiều giai điệu rất
gần với những điệu: lý Hoài Nam, lý con sáo, lý ngựa ơ của người Việt ở Bình Trị
Thiên hay xn nữ bài chòi, lý con ngựa, lý thiên thai ở Nam Trung Bộ. Một số bài
dân ca đậm buồn, sâu lắng rất gần với điệu hát vọng cổ ở Nam Bộ (Lê Văn Hảo 1980,

dẫn lại trong Đàng Năng Hòa 2019: 18). Bên cạnh đó, táng ca đóng vai trị quan
trọng trong đời sống người Chăm, đó là những lời lẽ tiễn đưa người chết đi về cõi linh
2


thiêng. Ngoài ra, khi người Chăm chuyển cư từ miền Trung đến sinh sống tại An
Giang, tư duy âm nhạc của người Chăm có sự thay đổi do ảnh hưởng và tiếp nhận tôn
giáo Islam, dẫn đến đời sống văn hóa âm nhạc Chăm ở An Giang có phần khác so với
người Chăm ở Ninh Thuận, Bình Thuận. Tơn giáo Islam có những quy định riêng về
sử dụng âm nhạc. Âm nhạc Islam mang mục đích giải trí và khuyến khích mọi người
làm điều tốt, loại bỏ đi những điều gian ác, xấu xa và tàn bạo, không được phép cờ
bạc, sống phóng túng… Người Chăm ở An Giang thích hát các đoạn kinh Koran được
phổ nhạc, một số bài hát có âm hưởng như nhạc Việt nhưng pha chút ngữ điệu Islam
cho phù hợp trong sinh hoạt tôn giáo của cộng đồng (Phú Văn Hẳn 2021: 54).
Âm nhạc của người Chăm còn thể hiện qua những giá trị nhạc cụ đặc thù độc
đáo. Trong hệ thống nhạc cụ của người Chăm ở Ninh Thuận, Bình Thuận thấy nổi bật
có: đàn Kanyi, kèn Saranai, sáo Tawao, trống Ginăng, Paranưng, Gar (hargar), Ciang
(có núm và khơng núm), chũm chọe, tù và bằng ốc biển,... Ngồi ra, Người Chăm ở
An Giang cịn lưu truyền những nhạc cụ trong cộng đồng như trống Rabana hoặc
trống Jumak (thường gọi là trống cái hay trống dẫn).
Với từng nhạc cụ, có thể có nguồn gốc từ Ấn Độ hoặc từ Ả Rập nhưng hầu hết
đều do người Chăm đã tạo ra trên những chất liệu có tại chỗ cùng với những giá trị về
âm điệu đặc thù riêng độc đáo và không thể nhầm lẫn với các âm nhạc của dân tộc
khác. Trong các nhạc cụ này có đàn Kanyi, kèn Saranai, sáo Tawao, trống Ginăng,
Paranưng, Gar (Hargar)… có vai trị rất quan trọng trong các nghi lễ tơn giáo và tín
ngưỡng của người Chăm ở Ninh Thuận và Bình Thuận. Có những nhạc cụ được người
Chăm dựng nên “rất người” như xem cặp trống Ginăng là đơi chân, trống Paranưng
một mặt như hình ảnh của cái bụng, còn kèn Saranai tượng trưng cho miệng (để nói,
để hát). Theo cách suy nghĩ đó người Chăm muốn nói lên một ý nghĩa sâu sắc rằng,
âm nhạc của dân tộc mình có một mối hình tượng gắn kết hữu cơ, có ý nghĩa triết lý

tình cảm sâu sắc, mang những chức năng rõ ràng trong một mối quan hệ hồn hảo
khơng thể tách rời. Thực sự, bộ ba kèn Saranai, trống Ginăng và Paranưng luôn làm
nhiệm vụ nhạc cụ “chủ chốt” trong hệ thống âm nhạc dân gian Chăm, bộ ba này luôn
xuất hiện trong các nghi lễ, các lễ hội và sinh hoạt truyền thống của người Chăm. Bên
cạnh đó, nhạc cụ truyền thống của người Chăm ở An Giang là Trống Rabana và
Jumak cũng không thể thiếu trong các sinh hoạt văn hóa của người Chăm ở An Giang,
3


trở thành linh hồn trong đời sống văn hóa tinh thần, chất keo gắn kết các thành viên
trong cộng đồng với nhau.
Về đời sống văn hóa âm nhạc Chăm ngày nay có thêm nhiều cơng trình nghiên
cứu. Có thể điểm qua như Âm nhạc Chăm những giá trị đặc trưng của Văn Thu Bích
(2012); Âm nhạc dân tộc Chăm, sự giao thoa giữa nhạc Chăm và nhạc Việt của Trần
Hồng (2013); Âm nhạc dân gian Chăm, bảo tồn và phát triển của Đàng Năng Hòa
xuất bản năm 2019; Âm nhạc cổ truyền của tộc người Chăm của Bùi Ngọc Phúc
(2016). Về vấn đề bảo tồn và phát huy âm nhạc cổ truyền, trong đó có nhạc cụ Chăm
phải kể đến Kỷ yếu hội thảo khoa học của Học viện âm nhạc quốc gia Việt Nam
(2018) với đề tài “Bảo tồn và phát huy giá trị di sản âm nhạc Chăm Ninh Thuận” góp
phần đưa ra những thực trạng và giải pháp bảo tồn nhạc cụ truyền thống dân tộc
Chăm. Về hướng nghiên cứu đời sống văn hóa âm nhạc Chăm ở An Giang có thể điểm
qua: “Âm nhạc truyền thống và đương đại của người Chăm ở An Giang” đăng trên
Tạp chí Khoa học Quốc tế AUG các tác giả Võ Văn Thắng và Dương Phương Đông
(2020). Bài viết về những đặc trưng âm nhạc Chăm ở An Giang, trong đó có giới thiệu
qua nhạc cụ trống Rabana của người Chăm. Nhìn chung, cơng trình nghiên cứu về âm
nhạc và nhạc cụ Chăm ở khu vực Ninh Thuận, Bình Thuận rất đa dạng nhưng nghiên
cứu về âm nhạc, nhạc cụ Chăm ở An Giang vẫn chưa có nhiều cơng trình, bài viết
nghiên cứu. Đặc biệt là bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa về âm nhạc, nhạc cụ
của người Chăm ở An Giang.
Mục tiêu của bài viết làm rõ những giá trị văn hóa của trống Rabana trong đời

sống tinh thần của người Chăm ở An Giang. Từ đó đưa ra những đánh giá về thực
trạng giữ gìn trống Rabana trong cộng đồng Chăm trong giai đoạn hiện nay cũng như
đề xuất những định hướng, giải pháp bảo tồn và phát huy hiệu quả các giá trị văn hóa
của trống Rabana trong cộng đồng Chăm ở An Giang. Hơn nữa, Việc bảo tồn và phát
huy các giá trị văn hóa của trống Rabana là phù hợp với các chính sách văn hóa dân
tộc của Đảng và Nhà nước như được nêu ra trong Nghị quyết số 03/NQ-TW ngày
16/7/1998 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII về xây dựng và phát triển
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc: “Nền văn hóa chúng ta xây dựng
là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Nền văn hóa thống nhất mà đa dạng
4


trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Trong đó, xác định hết sức coi trọng công tác
bảo tồn, kế thừa, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống, văn hóa cách mạng, bao
gồm cả văn hóa vật thể và phi vật thể” (Ban chấp hành trung ương Đảng 2017: 7-8).
Để thực hiện bài viết này, chúng tơi có hoạt động điền dã hai làng Chăm ở xã
Châu Phong (ấp Phũm Soài, ấp Châu Giang), thị xã Tân Châu, An Giang và Xã Vĩnh
Trường (ấp Lama), huyện An Phú, An Giang từ tháng 06/2020 đến tháng 05/2021. Bài
viết chủ yếu sử dụng phương pháp định tính qua các bài phỏng vấn các chức sắc tôn
giáo, những người Chăm biểu diễn trống Rabana cũng như quan sát, tham dự một số
lễ hội, sinh hoạt văn hóa có biểu diễn trống Rabana trong cộng đồng Chăm ở An
Giang. Ngoài ra, phương pháp so sánh văn hóa được thực hiện khi so sánh những đặc
trưng về nghệ thuật tạo hình cũng như nghệ thuật biểu diễn của trống Rabana với
trống Paranưng của người Chăm ở Ninh Thuận, Bình Thuận để tìm ra được những giá
trị văn hóa của trống Rabana của người Chăm ở An Giang.
2. Tổng quan về trống Rabana của người Chăm ở An Giang
Nhạc cụ là một trong những thành tố quan trọng tạo nên nét đặc trưng riêng
cho văn hóa dân tộc. Đối với người Chăm, nhạc cụ đóng góp nhiều trong các hoạt
động văn hóa tinh thần qua các lễ hội hay sinh hoạt văn hóa của cộng đồng Chăm.
Nhạc cụ truyền thống của người Chăm cũng rất đa dạng, mỗi nhạc cụ có bài bản và

chức năng riêng. Khi phân loại nhạc cụ truyền thống của các dân tộc Việt Nam, các
nhà nghiên cứu âm nhạc thường phân loại nhạc cụ theo lối tổ bộ của dàn nhạc giao
hưởng thời âm nhạc cổ điển phương Tây (Tơ Ngọc Thanh & Hồng Thao 1986, như
trích dẫn ở Đàng Năng Hòa 2019: 36-37). Theo cách phân loại này, nhạc cụ truyền
thống của Việt Nam nói chung và nhạc cụ của người Chăm nói riêng được phân thành
ba bộ: bộ dây, bộ hơi và bộ gõ. Trong đó, trống Rabana của người Chăm ở An Giang
thuộc bộ gõ.
Bảng: Phân loại nhạc cụ Chăm theo phân loại âm nhạc cổ điển phương Tây
Cách phân loại
nhạc cụ
Người Chăm
Ninh Thuận, Bình
Thuận

Bộ dây

Bộ hơi

Bộ gõ

Đàn Kanyi

Kèn Sarnai

Trống Paranưng
Trống Ginăng
5


Người Chăm ở An

Giang

Thất truyền

Thất truyền

Trống Rabana
Trống Jumak

Đối với người Chăm ở An Giang, trống Rabana được xem là nhạc cụ cổ truyền,
đóng góp vào các hoạt động văn hóa tinh thần của cộng đồng Chăm ở An Giang qua
các lễ hội hay sinh hoạt văn hóa ngày thường của người Chăm. Theo Từ điển Bách
khoa toàn thư, Rabana là thuật ngữ dùng để chỉ “… một loại trống khung có hình trịn,
được làm bằng gỗ ống ngắn với đầu khá rộng, phía trên được bọc da và được kéo căng
ra, mặt cịn lại thì để hở. Tên loại trống này được cho là bắt nguồn từ chữ Robbana, có
nghĩa là “Thượng Đế của chúng ta”. Loại nhạc cụ này được biểu diễn trong những sự
kiện quan trọng của đạo Islam như kỷ niệm ngày sinh của Nabi Mohammed, đám
cưới, lễ cắt bì…” (Trang thơng tin Đặc khu Jarkata 2017, đoạn 2).
Về nguồn gốc, trống Rabana ban đầu gắn với quá trình hình thành đạo Islam ở
bán đảo Ả Rập, được các thương nhân cũng như các nhà truyền đạo Islam mang đến
khu vực Đông Nam Á trong giai đoạn đầu xây dựng cộng đồng Islam ở khu vực Đông
Nam Á. Trống Rabana thường dùng để biểu diễn trong các nghi lễ Islam, sau đó hiện
diện trong các lễ hội cộng đồng các tộc người theo Islam ở Đông Nam Á (Mohd
Hassan Abdullah 2005: 85). Nhạc cụ này có thể được người Chăm tiếp nhận trong quá
trình tiếp xúc văn hóa, tơn giáo với người Malaysia. Cộng đồng Chăm theo đạo Islam
ở An Giang từ lâu đã có mối quan hệ rộng rãi với cộng đồng Islam trong khu vực
Đông Nam Á và trên thế giới (Phú Văn Hẳn 2019: 11).
Người Chăm khi tiếp nhận nhạc cụ này đã biến đổi để phù hợp với đời sống
văn hóa của cộng đồng Chăm. Chính vì thế, tuy là nhạc cụ du nhập nhưng có những
nét riêng biệt từ hình dáng nhạc cụ, số lượng biên chế cũng như phong cách biểu diễn

mang phong cách văn hóa Chăm ở An Giang. Trống Rabana thể hiện được khả năng
sáng tạo của người Chăm khi đến vùng đất An Giang, “khi ứng xử với môi trường tự
nhiên và xã hội, người Chăm đã sáng tạo ra nhạc cụ Rabana hoặc Jumak (4). Với từng
nhạc cụ, có thể có nguồn gốc từ Ả Rập mang đến khu vực Mã Lai, sau đó được người
Chăm tiếp nhận nhưng hầu hết đều do người Chăm sáng tạo ra trên những chất liệu có
tại chỗ với những âm điệu đặc thù riêng rất độc đáo. Trống Rabana và Jumak khơng
thể thiếu trong các sinh hoạt văn hóa của người Chăm” (Phú Văn Hẳn 2018: 51).
6


Cấu tạo trống Rabana bao gồm các bộ phận như: Thành trống (5); Mặt da trống(6);
Con kê(7) và dây mây(8). Về nguyên vật liệu làm trống Rabana, người Chăm chủ yếu sử
dụng các nguyên vật liệu có sẵn ở địa phương để thuận lợi cho việc tìm kiếm và vận
chuyển. Các vật liệu như gỗ, dây mây, da (da dê hoặc da bị) là những ngun vật liệu
chính dùng để chế tác nên trống Rabana. Gỗ và dây mây thường dễ dàng tìm được tại
khu vực sinh sống của người Chăm. Da làm trống là được người Chăm sử dụng lại sau
khi giết mổ các loài động vật để phục vụ cho các ngày lễ hội của cộng đồng Chăm,
chủ yếu là da bò, da dê, khác với người Chăm Ninh Thuận, Bình Thuận thường dùng
da trâu để làm da mặt trống. Việc làm trống của người Chăm ở An Giang có đặc điểm
mang tính riêng lẻ và tự phát, xuất phát từ nhu cầu sử dụng trống biểu diễn trong hoạt
động lễ hội, sinh hoạt văn hóa.
Trong một bộ trống Rabana bao gồm 1 trống Jumak làm nhiệm vụ giữ nhịp và
nhiều trống Rabana, khác với người Chăm ở Bình Thuận, Ninh Thuận là sự kết hợp
của bộ ba nhạc cụ khi biểu diễn với nhau là trống Paranưng, trống Ginăng và kèn
Saranai. Nhìn chung, biên chế bộ của trống Rabana thường khơng thống nhất, vẫn
chưa có quy ước về một bộ trống Rabana hoàn chỉnh bao gồm bao nhiêu trống, có thể
tăng giảm số lượng trống tùy theo nhu cầu khi biểu diễn. Trống Rabana của người
Chăm ở An Giang thường có bốn tơng âm chính là:
 Tơng Tak: Tay phải khép lại với nhau, dùng phần trên của các ngón tay để đánh
vào phía bên ngồi của mặt trống (vị trí gần với viền trống).

 Tơng Gum: Dùng các đầu ngón tay đánh vào vị trí phía bên ngồi của mặt trống
(vị trí gần với viền trống).
 Tơng Dum: Khép các ngón tay lại với nhau và đánh vào phần phía trong gần với
trọng tâm của mặt trống.
 Tơng Pak: Thả lỏng các ngón tay vừa phải, rồi dùng các đầu ngón tay thực hiện
thao tác như tát/vỗ vào mặt trống.
Người Chăm ở khu vực Ninh Thuận, Bình Thuận lại có cách vỗ trống khác hơn,
trống Paranưng chỉ được vỗ với ba tơng âm chính là:
- Tin: Dùng các đầu ngón tay phải khép lại, vỗ vào mặt trống cách vành khoảng
12cm, rút tay lên ngay tạo âm vang rền.

7


- Tam: Dùng các đầu ngón tay phải mở ra vỗ vào mặt trống cách vành 5cm
-6cm, rút tay lên ngay tạo âm cao hơn Tin.
- Tak: Dùng các đầu ngón tay trái khép lại vỗ vào mặt trống cách vành 5cm6cm, nhưng ấn giữ nguyên tạo âm ngắt và đục (Phan Hồng 2013: 43).
Người Chăm lập ra các đội nhóm biểu diễn trống Rabana để biểu diễn trong
các lễ hội cộng đồng. Trong khi nhạc cụ của người Chăm ở Ninh Thuận, Bình Thuận
được các vị chức sắc Chăm như các ông Kadhar (đàn Kanyi); ông Maduan (người vỗ
trống Baraneng), ông Gru Tong Giang (người đánh trống Ginăng), ông Yuk (người
thổi kèn Saranai) biểu diễn trên các đền tháp Chăm trong các dịp lễ hội theo lịch của
người Chăm Balamôn và Chăm Bani. Trống Rabana của người Chăm ở An Giang
được biểu diễn bởi chính những người Chăm trong cộng đồng, những người được chỉ
dạy, hướng dẫn từ những thế hệ cha ông đi trước.
Biểu diễn trống Rabana phổ biến ở các dịp lễ cưới trong cộng đồng được tổ
chức tại nhà riêng theo lời mời gọi của gia chủ, khơng khí lễ cưới vừa trang trọng
nhưng cũng khơng thiếu phần vui tươi, sôi nổi nhờ tiếng trống Rabana. Bên cạnh đó,
việc biểu diễn trống Rabana cũng được người Chăm tổ chức sau tháng Ramadan (9) kết
thúc. Vào ngày cuối cùng của tháng Ramadan, nghi lễ Roya Iadil Fitrah (10) được tổ

chức trọng thể mừng cho cá nhân, gia đình và cộng đồng của mình vượt qua thử thách
trong suốt một tháng. Trong những ngày này, người Chăm đến các Thánh đường Islam
để cùng nhau cầu nguyện, sau đó cùng đến nhà riêng thăm hỏi lẫn nhau, cùng ăn uống,
ca hát, biểu diễn trống Rabana mừng nhau vượt qua đại lễ.
Ngoài ra, hằng năm cứ đến ngày 12 tháng Rabiul Awal(11) cộng đồng người
Chăm ở An Giang tổ chức lễ kỷ niệm ngày sinh của Nabi Mohammed (12) tại các
Jammaah(13) của mình. Người Chăm thường nhắc nhở nhau thực hiện các lời dạy bảo
của Nabi Mohammed. Trống Rabana được sử dụng để đệm cho các nghi thức cầu
nguyện Selawat (cầu bình an cho Nabi Mohammed) nhưng ngày nay khơng còn được
phổ biến sử dụng trong các Thánh đường.
Hiện nay, Ngày hội văn hóa, thể thao và du lịch đồng bào Chăm(14) diễn ra theo
định kỳ hai năm một lần được nhiều người Chăm hưởng ứng và tham gia. Sự kiện này
chính là cơ hội để nghệ thuật biểu diễn trống Rabana được mang ra trình diễn. Những
8


người biểu diễn trống Rabana được xem như những nghệ sĩ thực thụ khi biểu diễn
trống Rabana trên một sân khấu với quy mơ lớn có sự chứng kiến của nhiều người
khiến việc biểu diễn mang tính chuyên nghiệp hơn.
Về tư thế và đội hình lúc biểu diễn, người
Chăm chọn cách ngồi xếp bằng. Trống có thể
được đặt gọn trong lòng hoặc đặt tựa lên một bên
chân của người biểu diễn, nhưng mặt trống
Rabana phải ln hướng về phía trước. Các thành
viên tham gia biểu diễn trống Rabana thường ngồi
xếp bằng thành hai hàng song song và đối diện
với nhau, hoặc ngồi thành vòng tròn để thuận lợi
trong việc quan sát các thành viên khác và kịp
thời điều chỉnh nhau trong lúc trình diễn. Các


Trống Rabana được biểu diễn tại làng
Chăm Châu Phong, thị xã Tân Châu,
An Giang (Ảnh: Roset Mohamed chụp
ngày 9/2/2022).

cách sắp xếp đội hình biểu diễn phải tùy thuộc
vào không gian rộng hay hẹp để lựa chọn cách thức ngồi sao cho phù hợp. Ngoài ra,
khi biểu diễn trên các sân khấu, đội trống Rabana thường ngồi theo hình vịng cung
nhằm giúp người người thưởng thức dễ quan sát và hình ảnh đội trống cũng đẹp hơn.
So với thể loại âm nhạc của người Chăm ở Ninh Thuận, Bình Thuận khi biểu
diễn chủ yếu là các bài tụng ca, táng ca với nội dung nói về các huyền thoại, truyền
thuyết hay tiểu sử, cuộc đời, sự nghiệp và công trạng của các vị thần linh, các vị vua,
anh hùng dân tộc hay các bài dân ca Chăm nói về tình u q hương, tình u đơi
lứa,… thì đối với người Chăm ở An Giang, một số bài hát mang âm hưởng đạo Islam
được sử dụng khi kết hợp cùng biểu diễn trống Rabana. Các bài hát này vốn bắt nguồn
từ khu vực Ả Rập và được gọi với tên gọi Nasheeds và Selawat (15). Nasheeds là các bài
thánh ca còn Selawat gọi đúng hơn là các bài thơ được người biểu diễn ngâm hay
xướng khi biểu diễn cùng trống Rabana. Nội dung của những bài Nasheeds và Selawat
chủ yếu xoay quanh nội dung về đạo Islam, chủ yếu bao gồm ba nội dung chính: ca
ngợi thượng đế Allah, công trạng của Nabi Mohammed và truyền đạo Islam. Các bài
hát được lấy từ nội dung các câu kinh trong Thiên kinh Qur’an. Người Chăm ở An
Giang còn sử dụng dân ca mang âm hưởng vui tươi, nội dung về đời sống lao động
thường ngày khi kết hợp biểu diễn với trống Rabana.
9


3. Thực trạng về bảo tồn, phát huy trống Rabana trong cộng đồng người Chăm ở
An Giang
Thứ nhất, một số trống Rabana có thời gian lưu giữ hàng trăm năm của người
Chăm đến nay đã khơng cịn hoặc bị hư hại. Kỹ thuật sửa chữa và chế tác trống của

thế hệ trước đến thời điểm hiện tại đã thất truyền. Số lượng người Chăm biết làm
trống Rabana rất hạn chế. “Trước đây các trống thường được để ở Thánh đường, có
dịp các anh em Chăm tụ họp để chơi cùng với nhau. Nhưng thời buổi chiến tranh nên
phải chia ra đem về nhà cất giữ riêng, dẫn tới tình trạng sau này bị mất hoặc bảo quản
không tốt nên nhiều trống bị hư hại hay sử dụng sai mục đích”(16).
Thứ hai, việc làm trống Rabana của người Chăm ở An Giang mang tính tự
phát, nhỏ lẻ, xuất phát từ nhu cầu biểu diễn trong một số lễ hội cộng đồng mà người
Chăm tìm tịi, học hỏi. Nên đến thời điểm hiện tại, vẫn chưa có một cơ sở làm trống
nào do chính tay người Chăm quản lý, phục vụ cho việc chế tác trống Rabana để biểu
diễn trong lễ hội cộng đồng gây nên tình trạng thiếu hụt trống biểu diễn.
Thứ ba, trong quá trình phát triển và hội nhập văn hóa thu hút những người
Chăm theo vịng xốy của cuộc sống hiện đại. Sự phát triển ấy thể hiện ở sự đa dạng
trong âm nhạc hiện nay luôn hấp dẫn đa số bộ phận giới trẻ Chăm khi có nhiều dịng
nhạc tân thời xuất hiện ln lơi kéo người trẻ. “Bây giờ giới trẻ khơng cịn thích thú
với trống Rabana nữa. Do nhiều loại hình âm nhạc hiện đại nên trống Rabana dần bị
quên lãng”(17).
Thứ tư, tình trạng đại đa số giới trẻ Chăm muốn phụ giúp kinh tế gia đình thì
phải đi làm ăn xa xứ, làm việc ở các công ty, nhà máy và nhiều công việc khác khiến
cho “tính cộng đồng” mang tính khép kín của người Chăm bấy lâu phần nào bị ảnh
hưởng. Những dịp nghi lễ, lễ hội quan trọng của người Chăm khó mà tập trung đầy đủ
những người trẻ để làm công tác truyền dạy, tập luyện để biểu diễn. “Hiện tại đời sống
kinh tế rất khó khăn, người Chăm cịn phải đi làm để lo cho gia đình của mình nên rất
ít thời gian cho việc học sử dụng trống. Biểu diễn trống này cần thời gian tập luyện
thường xuyên, bỏ một hai ngày là lại quên nên rất khó sắp xếp được thời gian”(18).
Quan trọng hơn, những người biết chế tác và biểu diễn trống Rabana đến thời
điểm hiện tại đã tuổi cao dẫn đến tình trạng thiếu đi người truyền dạy biểu diễn. “Đôi
khi người biểu diễn trống cũng xuất phát từ những người biết chế tác trống. Chính vì
10



thế, sự ra đi của họ trong khi người trẻ vẫn chưa thể tiếp thu những kinh nghiệm là
một điều mất mát lớn với cộng đồng Chăm”(19). Khó khăn hơn, những thể loại bài hát
cũng như nội dung biểu diễn trống Rabana ở An Giang đang đứng trước nguy cơ mai
một của việc sao chép bằng trí nhớ, bằng truyền khẩu. Nếu không sưu tầm những kinh
nghiệm về biểu diễn kịp thời thì người Chăm ở An Giang sẽ mất đi cái linh hồn văn
hóa trong cộng đồng.
4. Giải pháp bảo tồn và phát huy trống Rabana của người Chăm ở An Giang
4.1. Sưu tầm trống, phục hồi chế tác trống Rabana: Sưu tầm trống Rabana là
việc làm cấp thiết nhằm phục vụ cho công tác bảo tồn, phát triển trống Rabana vào các
lễ hội cộng đồng. Số lượng trống Rabana hiện nay khơng tập trung một nơi mà vẫn
cịn duy trì trong một số gia đình. “Hiện tại, bộ trống Rabana thì cịn rất ít, hiện ở làng
Chăm Châu Giang, tại Thánh đường Mubarak và ấp Lama, xã Vĩnh Trường, huyện An
Phú, tỉnh An Giang vẫn cịn gìn giữ hai bộ trống Rabana dùng cho việc biểu diễn trong
các ngày lễ hội. Ngoài ra, số lượng trống Rabana đơn lẻ, nằm rải rác trong các gia
đình của người Chăm vẫn còn nhiều, nhưng bị hư hại nhiều hoặc dùng sai mục
đích”(20).
Bên cạnh việc sưu tầm là việc phục hồi chế tác trống Rabana. Nghiên cứu, tìm
hiểu phục hồi các kỹ thuật chế tác cổ truyền của thế hệ trước cũng như đảm bảo
nguyên vật liệu chế tác vừa được giá thành hợp lí lại vừa đảm bảo chất lượng âm
thanh trống làm ra được tốt. Song song với việc chế tác, hoạt động ghi hình các bước
làm trống, in sách hướng dẫn các quy trình làm trống cũng như tổng hợp, ghi chép lại
nội dung bài hát biểu diễn. Khi có được những tài liệu sách in ấn là mở một lớp truyền
dạy kỹ thuật chế tác và biểu diễn trống Rabana cho người Chăm, dành cho đa số thanh
thiếu niên Chăm do chính những người Chăm am hiểu truyền dạy, hướng dẫn. Việc
đưa trống Rabana vào giảng dạy giúp cho giới trẻ Chăm lúc nào cũng cảm nhận được
hơi thở văn hóa của cha ơng đến với tâm hồn của giới trẻ và họ sẽ ghi nhớ lâu hơn góp
phần bồi đắp tâm hồn, tạo dựng nhân cách con người mang đậm nét đạo đức, tình cảm
văn hóa truyền thống tốt đẹp. Lực lượng giảng dạy và người học vốn dĩ đã bắt rễ lâu
bền với địa phương, với cộng đồng Chăm nên khi được truyền dạy biểu diễn trống
Rabana có thể sau này họ sẽ là những hạt nhân bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa


11


của tộc người Chăm, là những con người tiên phong trong các hoạt động lễ nghi, lễ
hội.
Ngoài việc quan tâm đến người học, vai trò của người chế tác và biểu diễn
trống Rabana cũng cần được quan tâm và có nhiều chính sách quan tâm về đời sống
sinh kế giúp họ duy trì cơng tác bảo tồn văn hóa dân tộc tốt hơn. Các nghệ nhân không
chỉ truyền dạy cho các thế hệ nối tiếp mình những vốn quý mà còn tham gia bộc lộ
trăn trở về những mất mát giá trị trình diễn dân gian của dân tộc, đưa ra những khuyến
nghị, góp ý để bảo tồn, phát huy nghệ thuật trình diễn dân gian Chăm. Họ là người
được sinh ra trong chính cái nơi dung dưỡng văn hóa nghệ thuật biểu diễn của tộc
người mình.Vì vậy, những chính sách cơ chế hỗ trợ về kinh phí, tạo cho họ có niềm
tin an tâm trong việc bảo tồn, truyền dạy kiến thức cho các thế hệ kế cận, hết mình
cống hiến cho sự nghiệp bảo tồn và phát huy âm nhạc cổ truyền trong xã hội hiện nay.
4.2. Phát triển trống Rabana trong các lễ hội, sinh hoạt văn hóa cộng đồng
Chăm: Lễ nghi, lễ hội là cái nơi ra đời, bảo dưỡng và phát triển nghệ thuật trình diễn
dân gian của cộng đồng Chăm. Vai trò của nghệ thuật biểu diễn trống Rabana cần
được chú trọng bằng việc dàn dựng những chương trình có chất lượng, đậm màu sắc
của văn hóa dân tộc, khơng nên lạm dụng các phương tiện nhạc cụ điện tử mà bỏ quên
nét độc đáo của nhạc cụ dân tộc dân gian truyền thống.
Thực tế cho thấy, nghệ thuật biểu diễn trống Rabana không chỉ bó hẹp trong
các nghi lễ tơn giáo mà cịn là nhạc cụ dân tộc có thể kết hợp đa dạng với các loại hình
ca múa nhạc khác của người Chăm. Việc tổ chức các sinh hoạt ca múa nhạc dân tộc
Chăm thường xuyên, định kỳ tại cộng đồng địa phương định kỳ để dịng chảy những
giá trị văn hóa nghệ thuật có thể sống và đồng hành cùng cộng đồng trong phát triển.
“Hiện nay, địa phương cũng có nhiều chính sách quan tâm đến phát triển văn hóa
đồng bào Chăm, trong đó Ngày hội văn hóa thể thao và du lịch đồng bào Chăm ở An
Giang được tổ chức 2 năm một lần. Đây cũng là cơ hội để người Chăm mang nghệ

thuật biểu diễn trống Rabana lên sân khấu để biểu diễn cho đồng bào Chăm và khách
du lịch”(21).
4.3. Đưa nhạc cụ Rabana vào chương trình du lịch Chăm ở An Giang:
Khách du lịch khi đến tham quan làng Chăm thay vì chương trình từ trước đến nay chỉ
tham quan Thánh đường, tham quan nhà ở, tìm hiểu đời sống hằng ngày như thực
12


hành tơn giáo, ẩm thực, trang phục thì có thể tham dự một buổi biểu diễn trống
Rabana. Làng Chăm ở An Giang có thể xây dựng thêm nhà trưng bày văn hóa Chăm,
trong đó trưng bày nhạc cụ trống Rabana cũng như xây dựng sân khấu là nơi biểu diễn
trống Rabana cho khách du lịch tham dự mà qua đó, khách du lịch có thể được giao
lưu với người biểu diễn trống Rabana qua việc hướng dẫn cách biểu diễn trống.
Việc phát triển nghệ thuật biểu diễn trống Rabana đem lại một số lợi ích cho
cộng đồng Chăm cũng như kinh tế, du lịch ở địa phương:
Hoạt động du lịch giúp bảo tồn văn hóa truyền thống Chăm ở An Giang, đặc
biệt là văn hóa nghệ thuật Chăm ở An Giang. Du lịch chính là hoạt động hiệu quả
trong việc duy trì và bảo tồn văn hóa. Việc đưa nghệ thuật biểu diễn trống Rabana vào
hoạt động du lịch giúp cho du khách có nhiều cơ hội trải nghiệm văn hóa, chính
những người Chăm làm du lịch cũng có thời gian tìm hiểu, giới thiệu văn hóa bảo tồn
văn hóa truyền thống.
Nghệ thuật biểu diễn trống Rabana giúp đa dạng hóa sản phẩm du lịch ở An
Giang. Phát triển hiệu quả loại hình nghệ thuật biểu diễn trống Rabana giúp cho du
lịch An Giang nói chung, du lịch làng Chăm nói riêng có thêm một sản phẩm du lịch
để giới thiệu cho du khách. Các cơng ty du lịch có thêm nhiều cơ hội trong việc thiết
kế các chương trình du lịch mới lạ, hấp dẫn, tạo điểm nhấn thu hút nhiều khách du lịch
đến với làng Chăm. Từ các hoạt động văn hóa văn nghệ ấy trong hoạt động du lịch
góp phần tạo sinh kế cho người Chăm, góp phần cải thiện đời sống kinh tế của người
Chăm ở An Giang.
5. Kết luận

Trống Rabana là di sản văn hóa lâu đời của người Chăm ở An Giang. Nhạc cụ
Rabana là linh hồn của các lễ hội, sinh hoạt văn hóa trong cộng đồng Chăm. Qua các
hoạt động sinh hoạt biểu diễn trống Rabana giúp hiểu hơn các giá trị văn hóa tinh thần
của người Chăm. Việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của trống Rabana trong
đời sống cộng đồng Chăm giúp cho văn hóa của người Chăm ở An Giang thêm phần
khởi sắc, tạo điều kiện cho nhạc cụ truyền thống này có cơ hội phát triển không chỉ ở
các lễ hội, sinh hoạt cộng đồng Chăm mà tương lai, loại nhạc cụ này còn có nhiều cơ
13


hội được giới thiệu, quảng bá nhiều hơn trong âm nhạc và nhạc cụ cổ truyển của dân
tộc Việt Nam.
PHỤ LỤC
(1) “Trong bài viết về người Hồi giáo ở bán đảo Đông Dương. M.Ner cho biết người
Chăm ở Campuchia và miền Tây nam phần chỉ còn nhớ man mán dĩ vãng xưa. Họ đều
biết tổ tiên mình ở vùng Phan Rang, Phan Rí đã ra đi bằng đường thủy hay đường bộ.
Những người đầu tiên có lẽ đã ghé bến Sài Gịn, rồi theo sơng Cửu Long đến vùng
Kompong Cham” (Nguyễn Văn Luận 1974: 31-32).
(2) Tín đồ theo Islam tin tưởng duy nhất thượng đế Allah. Allah đối với người theo
Islam là tồn năng và có khả năng chi phối mọi hoạt động của con người và mn
lồi. Họ cũng tin Nabi Mohammed và các thiên thần (malaikat). Đối với họ, Nabi
Mohammed là người được Allah giao nhiệm vụ xuống trần gian truyền bá đạo Islam,
quan sát mọi hành động của con người và báo lại cho Thượng đế biết tất cả mọi hành
vi đó trong ngày phán xét cuối cùng (Th. van Baaren, 2002, 13-15).
(3) Trong những người Chăm về An Giang, có một bộ phận là người Malaysia. Thật
ra, nhóm người này khơng xuất phát từ một nhóm tộc người thuần nhất mà là kết quả
của những cuộc hơn nhân giữa người đàn ơng nói tiếng Malaysia đến Campuchia làm
ăn buôn bán và kết hôn với phụ nữ Khmer. Chính vì vậy người Chăm gọi họ là “Javar
– Kur”. Từ “Java” dùng để chỉ những người nói tiếng Malay ở đảo Java và cũng để
gọi chung cho những người nói tiếng Malay ở khu vực Đơng Nam Á hải đảo, từ

“Kur” dùng để gọi người Khmer. Hậu duệ của những người “Javar- Kur” này hiện cư
trú tập trung tại xóm Châu Giang thuộc thị xã Tân Châu, một ít sinh sống tại Koh
Tambong thuộc huyện Châu Phú. Vì thế cho nên có thể nói người Chăm An Giang
ngày nay chính là “cộng đồng dân tộc trong nhiều nguồn gốc dân tộc khác nhau” (Võ
Thành Phương 2015: 10).
(4) Trống dẫn hay trống cái, nằm trong biên chế bộ trống Rabana.
(5) Kích thước phổ biến mà chúng tơi đo đạc được trong q trình điền dã: đường
kính mặt trên là 33cm, mặt dưới là 31cm, chiều cao thành trống từ 7cm - 8cm, độ dày
thành trống từ 2cm - 3cm.
14


(6) Da bò hay da dê đem ngâm với muối rồi được căng ra để phơi nắng. Mặt da có
lơng sẽ được bịt ở phía trên, mặt ruột trong ở phía dưới.
(7) Các con kê này được làm bằng gỗ, có chiều dài khoảng 5cm. Tùy theo kích thước
của trống lớn hay nhỏ mà quy định số lượng con kê. Người chế tác dùng con kê với
tác dụng kéo căng mặt trống phía trên.
(8) Mây sau khi được xử lý được dùng làm dây cố định mặt da trống với thành trống
qua một vịng song mây được đặt phía mặt dưới thành trống.
(9) Tháng 9 theo lịch Islam. Trong suốt một tháng lễ này, tất cả các tín đồ đạo Islam
đều thực hiện nghiêm túc quy định: không ăn, không uống, không hút thuốc nghĩa là
không được đưa bất kể thứ gì vào miệng (kể cả khơng sinh hoạt tình dục) nhưng chỉ
áp dụng vào ban ngày, cụ thể là từ lúc mặt trời mọc đến khi mặt trời lặn. Luật của đạo
cũng quy định rõ: Cho những người đang ốm, phụ nữ có thai, trẻ em dưới 5 tuổi được
miễn trừ (Nguyễn Mạnh Cường 2010: 229).
(10) Đại lễ của người theo Islam: Roya Edil Fitri được tổ chức khi kết thúc tháng nhịn
chay Ramadan. Ngày này sau giờ cầu nguyện, mọi người đi thăm hỏi, cùng ăn uống
và chúc mừng nhau vì vượt qua tháng Ramadan ((Th. van Baaren 2002: 201-203).
(11) Tháng 3 theo lịch Islam
(12) Người sáng lập ra đạo Islam, vị tiên tri hay sứ giả của Thượng đế Allah trong đạo

Islam.
(13) Đơn vị cư trú, đồng thời là đơn vị kinh tế, văn hóa và xã hội cổ truyền mang tính
tự quản của người Chăm ở An Giang.
(14) Tham khảo từ: />(15) Các bài hát này được sử dụng rất phổ biến trong cộng đồng Islam trên thế giới.
Đặc điểm nhận biết các bài hát này là các câu hát với giai điệu giống nhau được người
hát lặp đi lặp lại nhiều lần.
(16) Phỏng vấn ông Mách Ta Rế, Trưởng ban trống cổ Lama, xã Vĩnh Trường, huyện
An Phú, tỉnh An Giang, ngày 05/09/2020. Người phỏng vấn: Hồ Lưu Phúc.
15


(17) Phỏng vấn ông Abdul Kaduer, Người biểu diễn trống Rabana, xã Châu Phong,
thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang, ngày 05/09/2020. Người phỏng vấn: Hồ Lưu Phúc.
(18) Phỏng vấn ông Mách Ta Rế, Trưởng ban trống cổ Lama, xã Vĩnh Trường, huyện
An Phú, tỉnh An Giang, ngày 05/09/2020. Người phỏng vấn: Hồ Lưu Phúc.
(19) Phỏng vấn ông Nik Mansour, Người biểu diễn trống Rabana, xã Châu Phong, thị
xã Tân Châu, tỉnh An Giang, ngày 05/09/2020. Người phỏng vấn: Hồ Lưu Phúc.
(20) Phỏng vấn ông Abdul Kaduer, Người biểu diễn trống Rabana, xã Châu Phong, thị
xã Tân Châu, tỉnh An Giang, ngày 05/09/2020. Người phỏng vấn: Hồ Lưu Phúc.
(21) Phỏng vấn TS. Phú Văn Hẳn, Viện KHXH vùng Nam Bộ, ngày 30/08/2020.
Người phỏng vấn: Hồ Lưu Phúc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Abdurrahman al-Baghdadi (2006), Seni Dalam Pandangan Islam, Gema Insani,
Jakarta.
2. Agus Iswanto (2019), Understanding Hadrah Art As The Living Al Qur’an: The
Origin Performance And Worldview, Balai Penelitian dan Pengembangan Agama
Semarang Badan Litbang dan Diklat Kementerian Agama, Indonesia.
3. Ban chấp hành Trung ương Đảng (1998), Nghị quyết hội nghị lần thứ 5 (khóa
VIII), số 03 NQ/TW, ngày 16/07/1998 về xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam
tiên tiến đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc, Hà Nội.

4. Đàng Năng Hịa (2019), Âm nhạc dân gian Chăm, Bảo tồn và phát triển, Nxb. Tri
thức, Hà Nội.
5. Mohd

Hassan

Abdullah

(2005),

Kompang:

An

Organological

And

Enthnomusicalogical study of a Malay Frame Drum, International Centre for
Music Studies, The University of Newcastle upon Tyne, Australia.
6. Nguyễn Mạnh Cường (2010), Văn hóa lối sống của người theo Hồi giáo, Nxb.
Văn hóa thơng tin, Hà Nội.

16


7. Phan Hồng (2013), Âm nhạc dân tộc Chăm, sự giao thoa giữa nhạc Chăm và nhạc
Việt, Nxb Sân Khấu, Hà Nội.
8. Phú Văn Hẳn (2018), Nghệ thuật biểu diễn của người Chăm, Hội Văn hóa nghệ
thuật các Dân tộc TP.HCM, Hồ Chí Minh

9. Phú Văn Hẳn (2019), Văn hóa người Chăm ở Nam Bộ, Nxb. Khoa học xã hội, Hà
Nội.
10. Phú Văn Hằn (2021), Người Chăm trong phát triển và hội nhập, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
11. Th. van Bareen (2002), Hồi giáo (Trịnh Huy Hóa dịch), Nxb Trẻ, Hồ Chí Minh.
12. Trang thơng tin đặc khu Jakarta (2017 tháng 9) “Rebana”. Tham khảo từ
truy cập ngày 20 tháng 07 năm
2020.
13. Võ Văn Thắng và Dương Phương Đông (2020), “Âm nhạc truyền thống và đương
đại của người Chăm An Giang”, Tạp chí Khoa học quốc tế AGU, số 26, Tr. 98-111.
THÔNG TIN TÁC GIẢ:
Họ và tên: Hồ Lưu Phúc - Học vị: Thạc sĩ Văn hóa học, Đại học KHXH&NV, Tp. Hồ
Chí Minh
Địa chỉ: 162, Trần Nhân Tơn, P2, Quận 10, TP. Hồ Chí Minh
Email: - SĐT: 0904155887

17



×