Tuyển tập Hội nghị Khoa học thường niên năm 2019. ISBN: 978-604-82-2981-8
THỰC TRẠNG SẠT LỞ BỜ SÔNG, BỞ BIỂN VÀ GIẢI PHÁP
GIẢM THIỂU SẠT LỞ Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Ngô Văn Quận
Trường Đại học Thủy lợi, email:
1. GIỚI THIỆU CHUNG
a) Tổng quan
Sạt lở vùng đồng bằng và vùng ven biển
ngày một gia tăng, nguyên nhân ngoài các
yếu tố tự nhiên về thủy động lực, biến đổi khí
hậu, cịn có tác động của con người như xây
dựng các hồ, đập ở thượng nguồn làm giảm
bùn cát về đồng bằng; khai thác cát trên các
lịng sơng đang là vấn đề nghiêm trọng đáng
báo động tại các đơ thị nói chung và các đơ
thị tại các đồng bằng châu thổ nói riêng. Kết
quả nghiên cứu cho thấy sự giảm bùn cát 2540% ở hạ lưu đập Tiểu Loan (Trung Quốc) từ
khi đập này tích nước năm 1993 [1].
Tại vùng Đồng bằng sông Cửu Long
(ĐBSCL) những năm gần đây đang phải đối
mặt với tình trạng sạt lở bờ sơng, bờ biển
diễn biến phức tạp, tình trạng sạt lở gia tăng
về phạm vi, cường độ, tần suất liên tục
không chỉ diễn ra vào mùa mưa mà cịn xuất
hiện cả mùa khơ với mức độ ngày càng nhiều
và nguy hiểm [2]. Vì vậy, mục tiêu chính của
nghiên cứu là đánh giá thực trạng và ngun
nhân sạt lở bờ sơng, bờ biển từ đó đưa ra giải
pháp giảm sạt lở bờ sông, bờ biển vùng đồng
bằn sông Cửu Long là thực sự cần thiết.
b) Thực trạng
Theo kết quả báo cáo năm 2017, thực
trạng sạt lở trên hệ thống sông vùng ĐBSCL
cho thấy, trong 380 điểm sạt lở bờ hệ thống
sống ĐBSCL có 18 điểm sạt lở với tốc độ >
10m/năm, 37 điểm sạt lở tốc độ 5-10m/năm
và 325 điểm sạt lở với tốc độ < 5m/năm.
Những tỉnh có số lượng các điểm sạt lở lớn
nằm ở vùng thượng châu thổ như Đồng Tháp
42 điểm với 65,6 km đường bờ sơng bị xói
lở; An Giang 49 điểm với 71,5 km, đến
những tỉnh ven biển tiêu biểu như Cà Mau 48
điểm với 109 km [3].
c) Nguyên nhân chính
Tác động của thượng nguồn: Nguyên
nhân sạt lở và sự biến động ở ĐBSCL đầu
tiên cần kể đến đó là sự thiếu hụt phù sa về
đồng bằng bởi việc xây dựng hệ thống hồ
chứa thủy điện ở dòng nhánh cũng như dịng
chính lưu vực sơng Mê Kơng, theo đó
khoảng 60-70% lượng phù sa và bùn cát sẽ
lắng đọng ở lòng hồ.
Khai thác cát cho nhu cầu san lấp đất nền
và xây dựng: Cùng với sự thiếu hụt phù sa từ
thượng nguồn là nhu cầu cát cho san lấp nền và
xây dựng gia tăng dẫn đến sự mất cân bằng
nghiêm trọng bùn cát ở hạ lưu sông, ven bờ
biển ngày càng nghiêm trọng và kéo theo nhiều
hệ lụy. Theo Hội vật liệu xây dựng Việt Nam
nhu cầu cát san lấp tại các tỉnh ĐBSCL, là 31,6
triệu m3 (2009), 40 triệu m3 (2010), 54,72 triệu
m3 (2015) and dự báo 80 triệu m3 (2020).
2. GIẢI PHÁP NGHIÊN CỨU
Chúng ta ở thời kỳ đang phát triển, chưa
bao giờ nhu cầu cát xây dựng, san lấp mặt
bằng cho những khu đô thị, khu công nghiệp
và nhà dân lại lớn như bây giờ. Nhưng đó lại
là một nhu cầu chính đáng cho sự phát triển.
Nhiều nước trên thế giới đã đầu tư chỉnh trị
các con sông để khắc phục vấn đề sạt lở, tuy
nhiên ở Việt Nam việc này khó vì nguồn lực
của chúng ta có hạn, chiều dài sơng q lớn
và sâu. Đặc biệt là kết cấu đất của ĐBSCL rất
mềm yếu, để khắc phục những thuỷ vực sâu
356
Tuyển tập Hội nghị Khoa học thường niên năm 2019. ISBN: 978-604-82-2981-8
tới 40-50 m trong điều kiện chế độ dòng chảy
và bùn cát đang thay đổi nghiêm trọng là việc
rất tốn kém và không bền vững. Do vậy, cần
nghĩ tới giải pháp dài hạn và bền vững cho
việc giải quyết vấn đề sạt lở ở ĐBSCL hiện
nay. Vì vậy, nghiên cứu hồ sinh thái đa mục
tiêu là giải pháp được xem là phù hợp trong
điều kiện hiện nay nhằm giảm nhu cầu cát
trong san lấp nền các khu đô thị, khu cơng
nghiệp ở ĐBSCL, chủ động giảm thiểu
ngun nhân chính gây ra sạt lở ven sông và
ven biển.
P=20% đô thị loại II), thời gian tính mưa tối
đa là 180 phút (120,3mm) như thể hiện trong
Hình 2. Trong điều kiện trên lượng mưa gia
tăng do hiện tượng BĐKH và những trận
mưa bất thường xảy ra.
3. KẾT QUẢ
Nghiên cứu của đề tài tập trung xác đinh
rằng nên dành bao nhiêu % quỹ đất ở mỗi
khu vực cho xây dựng hồ sinh thái dựa trên
đa mục tiêu của hồ như giảm thiểu úng ngập
do các trận mưa lớn, trận mưa bất thường gây
ra, đảm bảo cung cấp đất san nền cho khu đô
thị nhằm giảm nhu cầu khai thác cát giúp
giảm sạt lở bờ sơng, bờ biển trong vùng. Kết
quả phân tích lượng mưa giai đoạn 1970 2017 cho thấy, trận mưa trên 100mm bình
qn 10 năm có xu hướng tăng mạnh ngày
một diễn biến phức tạp theo hướng cực đoan
được phân tích trong Hình 1.
Hình 2. Tần suất mưa thời đoạn ngắn
tại trạm Sóc Trăng
Theo một số nghiên cứu địa chất, địa chất
thủy văn vùng Đồng bằng sông Cửu Long, độ
sâu hồ khơng nên q 7m, vì vậy trong
nghiên cứu này được tính tốn độ diện tích
hồ với những kịch bản độ sâu khác nhau. Từ
những kịch bản về độ sâu hồ và % diện tích
hồ khác nhau (với diện tích khu đô thị 50ha)
ta xác định được quan hệ độ sâu hồ với phần
trăm diện tích hồ các phương án từ chọn
được độ sâu và diện tích hồ phù hợp với khu
đô thị với trường hợp. Kết quả xác định quan
hệ H(m)~F(%) như thể hiện trong các Hình 3,
Hình 4, và Hình 5 tương ứng dưới đây.
Hình 1. Xu hướng biến đổi số chận mưa trên
100mm bình quân 10 năm tại trạm Sóc Trăng
Theo tiêu chuẩn TCVN795:2018 chu kỳ
lặp lại của trận mưa tiêu tính tốn đối với khu
đơ thị phụ thuộc vào qui mơ và tính chất
cơng trình. Cụ thể, phần lớn các khu đô thị tại
các thành phố vùng ĐBSCL là đơ thị loại II.
Việc tính tốn trận mưa gây úng với chu kỳ
lặp lại của trận mưa tiêu tính tốn là 5 năm
(tương ứng với tần suất thiết kế mưa tiêu là
357
Hình 3. Quan hệ H~F của khu đô thị
trường hợp mưa gây úng ngập hiện trạng
Tuyển tập Hội nghị Khoa học thường niên năm 2019. ISBN: 978-604-82-2981-8
tốn đảm bảo 80.02%. Như vậy, kết quả tính
tốn xác định thông số cơ bản của hồ với việc
đảm bảo trên 80% lương nhu cầu cát cần
thực tế dùng để san lấp tại các khu đô thị,
khu công nghiệp sẽ giúp giảm áp lực mất cân
bằng bùn cát, giảm sạt lở ven sông, kênh và
ven biển, đồng thời những hồ sinh thái đa
mục tiêu sẽ giúp chống úng ngập do
mưa…tại các khu đơ thị vùng nghiên cứu..
4. KẾT LUẬN
Hình 4. Quan hệ H~F của khu đô thị trường
hợp mưa gây úng ngập điều kiện BĐKH
Hình 5. Quan hệ H~F của khu đô thị trường
hợp mưa gây úng ngập của mưa bất thường
Theo kết quả nghiên cứu cho khu đô thị
mới với diện this F = 50ha, đã xác định được
thông số hồ sinh thái đa mục tiêu với các kịch
bản trận mưa gây úng ngập trong điều kiện
hiện tại, trong điều kiện biến đổi khí hậu, và
trường hợp mưa bất thường xảy ra đơ thị
vùng ĐBSCL tương ứng (Hình 3, 4, và 5).
Các kết quả tính tốn cho thây cần dành phần
trăm diện tích hồ trường hợp hiện tại Fht =
4.9%, trong điều kiện BĐKH là Fbdkh =
8.9%, trường hợp bất thường Fbt=10.1%. Kết
quả cho thấy trường hợp bất lợi nhất gây úng
ngập khi diễn biến các trận mưa bất thường
xảy ra, trường hợp này với kết quả tính tốn
với phần trăm diện tích hồ cần thiết là
F=10,1% diện tích khu đơ thị; tương ứng với
độ sâu hồ 5m, và lượng đất từ việc đào hồ để
sử dụng san nền với độ cao nền trung bình là
70 cm (so với mặt đất hiện nay) được tính
Trong nghiên cứu này, tác giả đã phân tích
đánh giá về thực trạng, nguyên nhân của việc
xói lở bờ sơng, bờ biển và đã tính tốn xác
định được thơng số và kích thước cơ bản của
hồ sinh thái đa mục tiêu, đặc biệt kết quả
nghiên cứu cũng khẳng định mục tiêu nghiên
cứu sẽ giúp giảm áp lực mất cân bằng bùn cát,
giảm sạt lở ven sông, kênh và ven biển. Đồng
thời những hồ sinh thái đa mục tiêu sẽ giúp
chống úng ngập do mưa, cấp nước ngọt và cải
tạo vi khí hậu cho khu vực đô thị, làm cho môi
trường sống trong lành hơn. Kết quả nghiên
cứu cung cấp một phương pháp đánh giá thực
trạng và ngun nhân chính từ đó xác định
được giải pháp, đặc biệt có ý nghĩa trong cơng
tác quản lý tài ngun khống sản lịng sơng
nói chung và góp phần quan trọng trong việc
xây dựng các phương án quản lý khai thác cát
nói riêng một cách chủ động hơn.
5. TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Lu X X, Siew R Y (2006): Water discharge
and sediment flux changes over the past
decades in the Lower Mekong River:
possible impacts of the Chinese dams.
Hydrol. Earth Syst. Sci., 10, 181-195, 2006
www.hydrol-earth-syst-sci.net/10/181/2006/.
[2] Đinh Thị Lam (2018). Sạt lở vùng Đồng
Bằng Sơng Cửu Long, Tạp chí Viện Địa lí
nhân văn.
[3] Lê Mạnh Hùng, Trần Bá Hoằng (2017), Sạt
lở bờ hệ thống sơng vùng ĐBSCL và những
đóng góp của KH&CN vào việc phong
chống giảm nhẹ thiệt hại. Tạp chí Khoa học
& Công nghệ Việt Nam, tr24-26, số 9.
358