Tải bản đầy đủ (.pdf) (3 trang)

Tổng quan hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động của các công trình thuỷ lợi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (239 KB, 3 trang )

Tuyển tập Hội nghị Khoa học thường niên năm 2019. ISBN: 978-604-82-2981-8

TỔNG QUAN HỆ THỐNG CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ
HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CƠNG TRÌNH THUỶ LỢI
1

Vũ Thị Nam1, Phạm Thị Thanh Thuỷ1
Trường Đại học Thuỷ lợi, email:

1. GIỚI THIỆU CHUNG

Mục tiêu chính của bất kỳ hệ thống thủy
lợi nào cũng là tối đa hóa phúc lợi nơng dân
về kinh tế và xã hội.
Với dân số thế giới và nhu cầu về lương
thực ngày càng tăng, sản xuất nông nghiệp
phải hướng tới sự phát triển bền vững (David
J và cộng sự 1998). Nước cho nông nghiệp là
thành phần khơng thể thiếu cho an ninh
lương thực.
Q trình đơ thị hoá ngày càng phát triển,
nhu cầu sử dụng nước ngày càng gia tăng
trong các ngành công nghiệp và đô thị, đặt áp
lực ngày càng lớn đối với hệ thống thuỷ lợi,
vừa phục sản xuất nông nghiệp và đảm bảo
dân sinh (Pareira, 2003). Đất cho sản xuất
nông nghiệp đang dần bị thu hẹp để nhường
chỗ cho các khu đô thị. Quá trình cơng
nghiệp hố và sử dụng nước tưới khơng hiệu
quả cũng làm cho chất lượng nước ngày càng
giảm sút, dẫn đến ô nhiễm và nhiễm mặn.


Mặc dù chịu áp lực về nguồn nước tưới
tiêu cho nông nghiệp nhưng nhiều hệ thống
thuỷ lợi không đạt được các mục tiêu như
mong đợi (Kanber và cộng sự, 2005), đặc
biệt là các hệ thống thuỷ lợi có quy mơ lớn
thường hoạt động với cơng suất thấp hơn
năng lực của nó (Alcon và cộng sự., 2017,
Bos và cộng sự., 2005). Nguyên nhân chủ
yếu là do việc quản lý tài nguyên kém, không
đạt được các lợi ích như dự kiến và tác động
tiêu cực tới sức khoẻ và mơi trường
(Biswas.,1990). Từ thực tế trên, đã có rất
nhiều các nghiên cứu với mục tiêu xem xét,
đánh giá và chuẩn đoán hiệu quả trong các hệ
thống thuỷ lợi từ nhiều khu vực trên thế giới,
cả các nước phát triển và đang phát triển như

Ấn độ, Trung quốc, Thổ Nhĩ Kỳ, Sudan và
Việt Nam.
Đánh giá hiệu quả hệ thống thuỷ lợi nhằm
mục đích cung cấp thơng tin phản hồi cho các
cấp quản lý hệ thống về hiệu quả của việc sử
dụng tài nguyên (Small và Svendsen., 1992;
Bos và cộng sự., 2005). Nó hỗ trợ các nhà
quản lý hoặc hoạch định chính sách xác định
các hành động khắc phục nhằm tối đa hố lợi
ích của hệ thống. Đồng thời, cũng là những
bài học kinh nghiệm để xây dựng các tiêu
chuẩn cho việc lập kế hoạch, thực hiện và
quản lý các dự án tương tự (Bos., 1997); là

tài liệu so sánh chéo giữa các hệ thống thuỷ
lợi trong cùng khu vực, quốc gia và trên thế
giới (Molden và cộng sự.,1998) Có nhiều
nghiên cứu điển hình đã chỉ ra rằng việc đánh
giá hiệu quả của hệ thống đã giúp cải thiện
hiệu quả của hệ thống (PEOPC,.2010). Quá
trình đánh giá rất phức tạp, điều quan trọng là
phải lựa chọn được các chỉ số định lượng
được hiệu quả liên quan đến mục tiêu đã
được thiết lập cho hệ thống.
Mục tiêu của bài viết này là xem xét, tổng
hợp lại các tài liệu cả về lý thuyết và thực
nghiệm về chỉ số đánh giá hiệu quả được áp
dụng để đánh giá hiệu quả thuỷ lợi. Đồng
thời, đưa ra các nhận xét nhằm cung cấp
những hướng dẫn để lựa chọn các chỉ số đánh
giá hệ thống thuỷ lợi cho các đối tượng
quan tâm.
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Tác giả đã xem xét, đánh giá toàn diện các
nghiên cứu lý thuyết và nghiên cứu thực
nghiệm điển hình về đánh giá hiệu quả của hệ
thống thuỷ lợi trên thế giới (đến năm 2018).

439


Tuyển tập Hội nghị Khoa học thường niên năm 2019. ISBN: 978-604-82-2981-8


Gần 50 tài liệu đã được tổng hợp bao gồm
các bài báo khoa học đã được công bố trên
các tạp chí khoa học, luận án tiến sĩ, giáo
trình, các báo cáo của cơ quan quốc tế về
quản lý và sử dụng nước. Các nghiên cứu này
được phân loại thành: Các nghiên cứu đánh
giá hiệu quả quy trình và quản lý nội bộ hệ
thống (Small và Svendsen 1992; Rao và cộng
sự 1993), các nghiên cứu đánh giá chéo giữa
các hệ thống (Murray Rust và Snellen 1993;
Bos và cộng sự 2005), nghiên cứu thực
nghiệm (Alcon và cộng sự 2017; Sohan
Nallaperuma 2016; Abebech Abera và cộng
sự 2018…).
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Đánh giá hiệu quả trong hoạt động tưới
tiêu là sự quan sát, ghi chép và diễn giải có
hệ thống các hoạt động quản lý nhằm đảm
bảo đầu ra và chức năng của hệ thống
(M.G.Bos và các cộng sự., 2004). Hiệu quả
được đo lường thông qua việc sử dụng các
chỉ số trên cơ sở các dữ liệu được thu thập và
ghi chép lại (Andreas và Karen, 2002). Việc
thiết lập một bộ chỉ số để đánh giá là cần
thiết. Có hai cách tiếp cận để thiết lập các bộ
chỉ số đánh giá. Với cách tiếp cận đánh giá
quá trình vận hành và quản lý nội bộ của hệ
thống, các tác giả đã đề xuất bộ các chỉ tiêu
lựa chọn. Khi nhu cầu phát triển các chỉ số có

thể được áp dụng cho các hệ thống tưới trên
tồn thế giới được đặt ra thì cách tiếp cận
đánh giá hiệu quả sản phẩm đầu ra, bộ chỉ số
so sánh được giới thiệu.
3.1. Các chỉ số lựa chọn
Với cách tiếp cận quy trình vận hành và
quản lý của hệ thống, nhiều tác giả đã đề xuất
các chỉ số đo lường hiệu quả tưới tiêu được
tóm tắt bởi Rao (1993) và đã đưa ra các ví dụ
về việc sử dụng chúng tại các hệ thống thuỷ
lợi cụ thể (Bos và Nugteren 1974; Levine
1982; Abernethy 1986; Seckler, Sampath và
Raheja 1988; Mao Zi 1989; Molden và Gates
1990; Sakthivadeels, Merrey và Fernando
1993; Bos và cộng sự. 1994).
Các chỉ số đánh giá quy trình nội bộ ban
đầu tập trung chủ yếu vào đánh giá hiệu quả

hoạt động phân phối nước trên các khía cạnh
như năng suất, sự phù hợp, tính tiện ích, hiệu
quả chi phí và tính bền vững. Các chỉ số đánh
giá hiệu quả quản lý của hệ thống sau đó
được bổ sung trong các nghiên cứu của Bos
và cộng sự 1993; Bos 1997. Các tác giả đã đề
xuất gần 40 chỉ số mơ tả các tiêu chí cần
được đánh giá của hệ thống: hiệu quả sử
dụng nước, bảo trì, tính bền vững của môi
trường, hiệu quả kinh tế xã hội và hiệu quả
quản lý. Cùng với cách tiếp cận này, năm
2005, các thành viên của Uỷ ban quốc tế về

thuỷ lợi và thoát nước (ICID) đã xuất bản
cuốn cẩm nang chỉ dẫn các tổ chức quản lý
và sử dụng nước một khung chung để đánh
giá hiệu quả hệ thống thuỷ lợi (Bos và cộng
sự 2005), 77 chỉ số (trong đó có 23 chỉ số
khuyến nghị sử dụng và 54 chỉ số lựa chọn)
được chia thành bốn nhóm:
Cân bằng nước, dịch vụ và bảo trì. Các chỉ
số trong nhóm này đề cập đến chức năng
chính của cấp và thốt nước cho người dùng;
duy tu bảo dưỡng hệ thống cơng trình.
Mơi trường. Cả tưới tiêu và thoát nước đều
là những can thiệp có chủ đích của con người
tới mơi trường để tạo điều kiện cho sự phát
triển của cây trồng. Nhóm này xem xét các
tác động không cố ý (chủ yếu là tiêu cực) của
thuỷ lợi tới mơi trường.
Kinh tế. Nhóm này chứa các chỉ số định
lượng năng suất cây trồng và các giá trị liên
quan (được tạo ra) để quản lý và duy trì
hệ thống.
Các chỉ số khác. Nhóm này bao gồm các
chỉ số có sử dụng cơng nghệ cảm biến từ xa
để định lượng các dữ liệu.
Số lượng các chỉ số cần thiết cho một đánh
giá phụ thuộc vào phạm vi và mục đích của
đánh giá. Các chỉ số linh hoạt không bị ràng
buộc với bất kỳ bộ chỉ số nhất định nào miễn
là các chỉ số phản ánh rõ ràng mục tiêu được
đặt ra.

Mục đích chính của loại đánh giá quy trình
vận hành và quản lý nội bộ là hỗ trợ các nhà
quản lý hệ thống cải thiện dịch vụ cung cấp
nước cho người dùng. Các mục tiêu được đặt
ra liên quan đến các mục tiêu của quản lý hệ
thống và các phương pháp đo lường hiệu quả

440


Tuyển tập Hội nghị Khoa học thường niên năm 2019. ISBN: 978-604-82-2981-8

cho biết hệ thống hoạt động tốt như thế nào so
với các mục tiêu. Khi hiệu quả không đạt được,
quá trình vận hành và quản lý hệ thống phải
được thay đổi để đạt được mục tiêu hoặc chính
mục tiêu phải được thay đổi để phù hợp với hệ
thống và quy trình quản lý. Các chỉ số đánh giá
nội bộ hỗ trợ các nhà quản lý hệ thống thủy lợi
trả lời câu hỏi “Tơi có đang làm đúng khơng?”
(David Molden và cộng sự 1998).
3.2. Các chỉ số so sánh
Theo các nghiên cứu, các bộ chỉ số đo
lường quy trình nội bộ của hệ thống có rất ít
cơng cụ để so sánh hoặc phân tích chéo giữa
các hệ thống (Bos và Nugteren 1974; Murray
Rust và Snellen 1993; Merrey, Valera và
Dassenaike 1994). Để khắc phục những hạn
chế này, một số tác giả đã chuẩn hóa và bổ
sung các chỉ số cho phép so sánh tốt hơn giữa

các hệ thống (Bos và cộng sự 1994). Các chỉ
số cho thấy những quan niệm chung về năng
lực tương đối của hệ thống tưới tiêu, chúng
cho phép so sánh giữa các quốc gia và khu
vực, giữa các loại cơ sở hạ tầng và quản lý
khác nhau, giữa các môi trường khác nhau và
để đánh giá theo thời gian về xu hướng thực
hiện của một dự án cụ thể (Molden và cộng
sự., 1998). Năm 1998, nhóm tác giả của Viện
quản lý nước quốc tế (IWMI) đã công bố và
xem xét một bộ gồm 9 chỉ số hiệu quả so
sánh liên quan đến đầu ra của sản xuất nơng
nghiệp từ các đầu vào chính là nước, đất đai
và tài chính. Chín chỉ số được chia thành các
nhóm bao gồm: Sản lượng canh tác, khả
năng đáp ứng nhu cầu tưới và tài chính.
Vận dụng các bộ chỉ số trong các nghiên
cứu lý thuyết, hàng loạt các nghiên cứu
thực nghiệm của các tác giả ở các quốc gia
khác nhau trên thế giới đã đề xuất những bộ
chỉ số đo lường hiệu quả hoạt động ở một
hoặc một số hệ thống thuỷ lợi hoặc hệ
thống thuỷ lợi của quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ,
Trung quốc, Ấn độ, Sri Lanka (Bouml và
cộng sự., 2009; M. Sener., 2011;
Wijesekera., 2016; Alcon và cộng sự.,
2017; Abebech Abera và cộng sự,. 2018).
Ở Việt Nam, một số tác giả cũng đã
nghiên cứu và đề xuất bộ tiêu chí đánh giá


hiệu quả hoạt động của các cơng trình thuỷ
lợi mà đáng chú ý là TS Trần Sỹ Vinh (2018)
với 5 tiêu chí: Dịch vụ thuỷ lợi, duy tu và bảo
trì hệ thống, sửa chữa hệ thống, kinh tế và tài
chính, tiêu chí khác. Đồng thời tác giả cũng
đề xuất một bộ chỉ số chi tiết cho mỗi tiêu
chí. Mỗi chỉ số được xác định điểm đạt được
theo thang 100 và là cơ sở để đánh giá và xếp
hạng doanh nghiệp thuỷ lợi. Tuy nhiên, các
bộ tiêu chí của tác giả được xây dựng dựa
trên ý kiến chủ quan sau khi nghiên cứu các
văn bản quy phạm pháp luật của ngành thuỷ
lợi mà khơng có sự tham gia của các bên liên
quan: Cơ quan quản lý thuỷ lợi, doanh nghiệp
quản lý hệ thống, các bên liên quan khác và
đặc biệt là người sử dụng nước.
4. KẾT LUẬN

Có thể nói đánh giá hiệu quả của các cơng
trình thuỷ lợi có tính chất quyết định để đảm
bảo sự phát triển bền vững của sản xuất nông
nghiệp. Các tài liệu nghiên cứu trước đó đã
cung cấp các khái niệm, khung đánh giá và
các bộ chỉ số chi tiết để đánh giá. Tuy nhiên,
vẫn khơng có một bộ chỉ số nào được cho là
duy nhất và áp dụng chung cho tồn bộ các
cơng trình. Việc lựa chọn những chỉ số chi
tiết phần lớn phụ thuộc vào bản chất của hệ
thống và mục đích của việc đánh giá.
Để lựa chọn được các chỉ số phù hợp đánh

giá hệ thống các cơng trình thuỷ lợi ở Việt
Nam chắc chắn cần tiến hành nhiều nghiên
cứu hơn nữa trong thời gian tiếp theo.
5. TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Murray-Rust, H., Snellen, W.B., 1993.
Irrigation System Performance Assessment
and Diagnosis. IWMI.
[2] Bos, M.G.,1997. Performance indicators for
irrigation and drainage. Irrig. Drain. Syst.
11, 119–137.
[3] Molden, D.J., Sakthivadivel, R., Perry, C.J.,
De Fraiture, C., 1998. Indicators for
Comparing Performance of Irrigated
Agricultural Systems. IWMI.
[4] Bos, M.G., Burton, M.A.S., Molden, D.J.,
2005. Irrigation and Drainage Performance
Assessment: Practical Guidelines. CABI.

441



×