Tải bản đầy đủ (.pdf) (349 trang)

Thần tích ở Nghệ An và tục thờ thần: Phần 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (28.19 MB, 349 trang )


TỤC THỜTHẦN và
ru. \N t íc h ở n g h ệ a n


SỞ VĂN HĨA THƠNG TIN N G H Ệ AN

NINH VIẾT GIAO

TỤC THỜ THẦN VÀ
THẦN TÍCH ở NGHÊ AN

VINH - 2000


L Ờ I G IỚ I T IỈỈỆ U
^ /T

GHỆ AN lả địa plìiioiií’ co bề dày lịch sử và truyền
llinnụ cách mạ MỊ, có một kho tàng văn hóa phong phú

vù da dạnq. Trong quá trình phát triển, tuy bị chiến
trah. thiền tai và nhũn ạ biến động xã hội tàn phá nặng nề,
nh“iig nhờ truyền thống tôn trọng di sản lịch sử - văn hóa
củ nhân dân các địa pliưrmq, .sự quan tâm của Đáng và Nhà
niơc, đến nay Nghệ An cịn giữ được trên 1000 di tích lịch
sử- văn hóa - kiến trúc nghệ thuật... Trong đó, có hon 100
di ích được xếp hạng quốc gia. Đây là tài sản vỗ giá, là linh
hổ', và cũng là niềm tự hào của nhân dân xứ Nghệ.
Trong các iịiá trị văn hóa, cần phải'kể đến các giá trị của
cá di tích, bao gồm nhũng ngơi đình, đền, chùa, miếu, văn


ch. lăni’ mộ... và cũng không thể không nhắc đến một lĩnh
vụ dang được nhiều nhà nghiên cứu, nhiều nhà khoa học quan
tân - đó là văn hỏa tâm linh.
Khơn ọ có tham vụn ạ đi sâu lý giải các vấn đề về văn hóa
tân linh, cuốn sách " Tục thờ thần và thần tích ở Nghệ An "
ch đề cập đến một phần nhỏ, nhưng lại là phần cơ bán trong
lĩth vực này. Hy vọng, cuốn sách sẽ giúp bạn đọc hiếu được
phin nào về sự rích của các Thành hồng, các nhân vật lịch
sù danh nhân vãn hóa gắn liền với các di lích lịch sử - vùn
hơ ờ các địa phưonq trong tinh Nghệ An và các Nhiên thần,
Tiiêìì thần, Nhân thần đã từng được nhân dân Nghệ An
thr phụng.
3


Bên cạnh việc xuất bản các cuốn sách " Hlitnĩg ước Nghệ
An " (1997), "Khoa báng Nghệ An " (2000), cuốn sách
" Tục thở thần và thần tích ở Nghệ An " cùa PGS Ninh Viết
Giao là cơng trình được ngành Văn hóa (hỏng tin quan tâm
chì đạo biên soạn từ nhiều năm nay.
Xin trăn trọng gi (Ti thiệu cuốn sách cùng bạn đọc.
HÔ HỮU THỚI
Nhạc sỹ - Giám.đốc Sở VHTT Nghệ An

4


L Ờ I NĨ I ĐẨU
Tục thờ thần đã có từ lâu, nhưng vấn đề tìm hiểu sự
tích các thần ở các làng xã mới được đặt ra từ đời Lê. Từ

đó về sau, qua các đời vua, triều thần đều có sắc chỉ cho
các xã thơn tiếp tục kê khai sự tích các thần để triều đình
phong sắc.
Từ cách mạng tháng Tám 1945 cho đến cuối những
năm bảy mươi của thế kỷ này, nhiều đền, nghè, miếu,
đình, phủ thờ các vị thần, phần do giặc phá hoại, phần do
ta phá dỡ, nên việc cúng tế các thần bị phế khống. Thời
gian khơng là bao lâu song do sự lơ là của chúng ta, các
bản thần phả, thần tích, thần sắc cịn lưu giữ tại các xã
thơn phần lớn đều để thất lạc. Hiện tượng đó diễn ra do
một thời, trong số cán bộ của chúng ta, có người cho tục
thờ cúng các thần hồn tồn là mê tín dị đoan.
Gần đây vấn đề thờ cúng thần linh mà chủ yếu là
Thành'hoàng được quan niệm lại. Nhất là từ ngày có
pháp lệnh số 14LC/HĐNN ngày 04-4-1984 của Chủ tịch
Hội đồng Nhà nước về việc bảo vệ và sứ dụng các di tích
lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh để "Giáo dục
truyền thống dựng nước và giữ nước của nhân dân Việt
Nam, góp phần giáo dục tinh thần yêu nước, yêu chủ
nghĩa xã hội và lòng tự hào dân tộc, nâng cao kiến thức
phục vụ công tác nghiên cứu khoa học, đáp ứng nhu cầu

5


về thẩm mỹ 'và văn hoá của nhân dân, xây dựng nền vãn
hoá mới và con người mới xã hội chủ nghĩa, làm giàu
đẹp kho tàng di sản văn hoá dân tộc và góp phần làm
phong phú văn hố thế giới" thì khơng chỉ di sản lịch sử,
văn hóa được coi trọng, mà sự tích các Thần các Thành

hồng, các nhân vật lịch sử, danh nhân văn hoá gắn với
các di tích lịch sử, văn hố ấy cũng được đặt ra. Nó nằm
trong phong trào "Trở về nguồn" của "Thập kỷ văn hoá
thế giới" (1987 - 1997).
Biên soạn cuốn "Tục thị thần và thần tích ở Nghệ
An" này, ngồi tìm hiểu sự tích các Thành hồng, nhán
vật lịch sử, danh nhân vãn hố gắn liền với các di tích
lịch sử, văn hố ở Nghệ An, chúng tơi cịn muốn tìm
hiểu toàn bộ các Nhiên thần, Thiên thần và Nhân thần đã
từng được nhân dân Nghệ An thờ phụng, ngõ hầu giải
thích thế giói tâm linh, văn hố tâm linh mà chủ yếu là
thế giới tâm hồn của con người.
Thế giới tâm linh, văn hoá tâm linh là vấn đề rất lớn.
Tìm hiểu tục thờ thần và thần tích ở một địa phương chỉ
là một phần nhỏ, nhưng lại là phần cơ bản, trong lĩnh vực
bao la của vấn đề tâm linh. Tìm hiểu tục thờ thần và thần
tích là vấn đề vừa thuộc phạm trù văn hoá, vừa thuộc
phạm trù khoa học xã hội và nhân văn. Nó khơng chỉ đơn
thuần là văn hố tín ngưỡng, văn hố dân gian mà còn
thuộc dản tộc học, x ã hội học, sử học, thần học... Riêng
mặt thần tích đối vói nước ta, thần tích đã có từ lâu song
thần tích học mới là bước đầu còn đối với một địa
phương như Nghệ An, nó lại là bước sơ khai, vì sơ khai
nên tài liệu vô cùng quan trọng song lại vô cùng thiếu
thốn.
6


Sách xưa chỉ để lại:
1. Một số bản sao thần tích bằng chữ Hán có chứng

thực "Y sao bản chính" cua chức dịch xã thôn, đã được
gộp thành bộ, mang ký hiệu AE, còn lưu giữ tại thư viện
Viện nghiên cứu Hán nôm, Hà Nội.
2. Một số tờ khai nhưng kỳ thực là bản trả lời các
câu hỏi về thần tích, thần sắc cũng của các chức dịch xã
hơn Nghệ An, do trường Viễn Đông Bác c ổ điều tra
lăm 1937.
3. Một số bản khai của các xã thôn từ trước cho đến
lầu thế kỷ XIX, nhà Nguyễn đã cho tu sửa và viết lại
rong nhiều tập, gọi chung là "Bách thần lục".
Như vậy, qua thư tịch cũ, Nghệ An cịn lại khoảng
250 thần tích, trong đó có hơn một nửa là trùng lặp. Số
;ịn lại, nhiều bản lại khơng có nội dung cụ thể, chỉ là lời
truyền ngơn một cách mơ hổ, nghĩa là gần như khơng có
sự tích.
Thư tịch gần đây là bộ "Thành hoàng Việt Nam" (2
tập hơn 1.000 trang) của Nhà xuất bản Văn hóa - thông
tin (Phạm Minh Thảo, Trần Thị An, Bùi Xuân Mỹ biên
soạn) in 1977 thì như "Lời nói đầu" của các soạn giả:
"Chúng tơi cũng chỉ mới sơ bộ tìm hiểu được một số ít
thần tích ở Bắc bộ và vài ba bản từ Quảng Bình trở ra.
Nghệ An chỉ có 4 bản. Hai tập "Thờ thần ở Việt Nam
của Nhà xuất bản Hải Phòng in 1996 do Lê Xuân Quang
biên soạn, trong đó Nghệ An khơng có thần tích nào.
Như vậy là tư liệu rất hiếm hoi. Bổ sung cho những
thiếu sót, chúng tơi đã dựa vào các thư tịch khác nhau
như Lĩnh nem chính quái, Việt điện u linh, Đại Việt sử ký
7



tồn thư, Đ ại N am nhất thống chí, Từ điển nhàn vật lịch
sư, T ừ đ iên văn hóci Việt N am , C ác nhà khoci bảng Việt
Ncitỵi,... và nhiêu sách khác ở đia phương đẽ biên soan
Điều chủ yếu là chúng tôi dựa vào tư liệu đi điền dã
trong những năm viết địa chí văn hóa một số huyện và tư
liệu về văn hóa làng xã. Bảo tàng tổng hợp Nghệ An
Thư viện Nghệ An cũng cung cấp cho chúng tơi một số
tư liệu về di tích lịch sử, văn hóa và địa chí.
Thâm ý của chúng tơi là muốn qua thần tích, phác
họa lại diện mạo các thần đươc thờ tai các làng xã ở
Nghệ An, nên đã cố cơng đi đây đó tìm hiểu, hoi han,
điều tra, ghi lại cụ thể các thần được thờ ở đền nào, làng
nào, xã nào trước kia qua các bản tổng họp của từng
huyện. Thần nào có cả thần tích, chúng tơi ghi, dịch đầy
đủ rồi cho vào một phần riêng. Khơng có thần tích thì chỉ
ghi thờ thần nào thơi. Khơng biết thì để trống hoặc ghi
chưa rõ thờ ai. Đối với các bản thần tích, thần sắc đã sưu
tập được bằng chữ Hán, chúng tôi nhờ dịch nguyên văn.
Co nhiên la phai lược đi những chỗ dài địng khơng cần
thiết. Trong các bản thần tích có gặp điều gì linh dị xin
ra ở chỗ đó tư duy về tâm linh, về cội
nguồn, về lịch sử của cha ông ta.
Thâm ý là thế song sức có hạn, nên một số huyện
như Thanh Chương, Đô Lương, Anh Sơn, Nghĩa Đàn,
chúng tơi mói đưa ra được một số thần tích cụ thể. Bản
tơng hợp các đền, miếu, đình tại các làng xã với các
nhiên thần, nhân thần được thờ, chúng tơi chưa có điều
kiẹn đi điên dã lại đê tìm hiểu, ghi chép được. Đó quả là
một khiếm khuyết, nhất là đối với miền núi.
8



Tại một sô làng, bà con theo đạo Công giáo, khơng
ó đền, đình, miếu, chúng tơi ghi có nhà thờ đức chúa
(iê-su, thì đó chì là lấp kín mặt bằng làng xã ở Nghệ An
ố i với vấn đề tín ngưỡng mà thơi. Chẳng lẽ các làng ấy
Inơng có một tín ngưỡng nào, mọt kiến trúc tơn giáo
lào. Bản tổng hợp đầy đủ các đền, miếu, phủ, đình, chùa,
ihà thánh, nhà thờ họ, nhà thờ (của bà con theo đạo
Tiiên chúa), chúng tơi đã và sẽ điều tra, tìm hiểu để
ỏng bố trong “địa chí văn hóa” của từng huyện như
‘Địa chí văn hóa huyện Ọuỳnh Lưu”, hoặc một cơng
tình khác.
Trong phần nghiên cứu, giới thiệu, tạm gọi là "Tổng
liận về tục thờ thần và thần tích ở xứ Nghệ", chúng tơi
ố gắng đưa ra:
A. Trước khi tìm hiểu thần tích: Thần tích là gì?
Tiần và Thành hồng. Thờ thần và việc nhà vua phong
ác cho thần. Thần và thần tích.
B. Cội nguồn và lịch trình của tục thờ thần. Tín
Igưỡng Tơ-tem. Tín ngưỡng nhiên thần. Tín ngưỡng
ihân thần.

c.

Phân loại và tìm hiểu một số thần được thờ phổ
liến ở Nghệ An.
D. Đôi điều rút ra.
Cả phần sưu tập, tổng hợp theo từng huyện, biên
.oạn, dịch thuật các thần tích và nghiên cứu, giới thiệu

(ủa chúng tôi trong tập sách này, sai lầm và thiếu sót là
tiều khơng tránh khỏi. Rất mong được sự chỉ giáo và bổ
ung của các bục cao minh, của các cụ và của bạn bè xa
,;ần.
9


Biên soạn tập "Tục thờ thần và thần tích ở Nghệ An"
này, chúng tơi muốn kính cẩn dâng một nén tâm hương
trước anh linh cậc tôn thần đã và đang dược thờ khắp
làng xã Nghệ An. Các vị đã hộ quốc tí dân và chở che
cho dân làng được bình an thịnh vượng. Sự tích của các
vị đã bao năm cất kín trong cõi u minh và lung linh hiển
hách trong đầu óc người dân, nay tập hợp lại và cơng bơ'
rộng rãi, nếu có gì khơng phải, cúi lạy xin các vị hãy
rộng lòng tha thứ cho cái tội bất kính của kẻ hậu sinh
này.
Cuối cùng xin chân thành cảm ơn Viện Nghiên cứu
Hán nôm, Viện thông tin khoa học xã hội, Thư viện
Nghệ An và đông đảo bạn bè xa gần đã giúp đỡ việc tìm
kiếm tư liệu cũng như đóng góp ý kiến cho tập sách này.
Xin cảm ơn hai thầy giáo Phạm Nhượng và Nguyễn Sĩ
Cẩn đã không ngại tuổi già sức yếu dịch cho chúng tơi
những bản thần tích bằng chữ Hán. Xin cám ơn các bạn
Trần Minh Siêu, Đào Tam Tịnh, Trương Đức Thành,
Nguyễn Doãn Hương đã cung cấp cho một số tư liệu và
viết cho một số bản thần tích.
Vinh, tháng 3 năm 2000
Ninh Viết Giao


10


PHẦN MỘT:

TỔNG LUẬN VỀ TỤC THỊ THẦN VÀ
THẦN TÍCH Ở NGHỆ AN

11


PHẦN MỘT:

TỔNG LUẬN VỂ TUC THỜ THẦN VÀ
THAN TÍCH Ở NGHỆ AN
A. TRƯỚC KHI TÌM HIỂU THẨN TÍCH.

I. THẨN TÍCH LÀ GÌ?
a) Thần tích và thần thoại.
Nói ngắn gọn, thần tích là sự tích về các thần.
Nguyễn Đổng Chi trong “Lược khảo về thần thoại Việt
Nam ” cũng định nghĩa: “Thần thoại là sự tích về các
thần”(,). Nhưng thần trong thần thoại với thần trong thần
tích có gì khác nhau.
Thần trong thần thoại của người nguyên thủy là do
quan niệm vạn vật đều có linh hồn mà xuất hiện. Thần là
lực lượng siêu tự nhiên đối với con người. Hoạt động của
thần thường là tự do, phóng khống, chất phác, vơ tư.
Nhưng rồi xã hội ngày càng tiến triển thì bộ mặt thần
thoại cũng có sự thay đổi. Tri thức con người ngày một

(1) Ban V ă n s ử Địa, H à Nội xuất bàn n ă m 1956, trang 10.

13


phát đạt, đời sống đỡ chật vật, con ngưòi dần dần trở
thành trung tâm của vạn vật. Lúc bấy giờ, thiên nhiên
phải phục vụ cho con người. Nhất là khi xã hội có giai
cấp thì thần được tơ điểm lại. Thần khơng cịn như trong
thần thoại mà phần nhiều chịu sự chi phối của tín ngưỡng
tơn giáo, của sự lễ bái. Tiếng “thần” hay đi đôi với tiếng
“thiêng”. Tuy vẫn cịn mang ít nhiều yếu tố hoang
đường, qi đản, song hoạt động của thần khơng cịn
chất phác, vơ tư mà thường là hẹp hịi, ích kỷ, thiếu tự
nhiên, vì đã bị xuyên tạc, tô vẽ lại. Thần lúc này cũng có
đẳng cấp. Thần cũng có những tính tình u ghét, mừng
giận như con người. Một sơ thần lại có những tính xấu
như thích cúng lễ, thích đền thờ to, đồ tế khí đẹp, ưa cầu
cạnh. Người ta nói đến thần, vì thần vẫn khơng những
mang tính cơng minh chính trực mà cịn là niềm hy vọng
khơng giáng tai họa và tiến lên một bước là có thể ban
cho họ phúc huệ. Thần đã trở thành kẻ bảo hộ cho con
người. Đó là thần trong thần tích. Thần trong thần tích
khơng cịn là do trí tưởng tượng lãng mạn của con người
sáng tạo ra mà đã thuộc về thế giới tâm linh.
Chúng ta biết: “Thế giới tâm linh là thế giới của cái
thiêng liêng, mà ở đó chỉ có cái cao cả, lương thiện và
đẹp đẽ mới có thể vươn tới. Cả cộng đổng tôn thờ và cô
kết nhau lại trên cơ sở của cái thiêng liêng ấy".(1)
Cái thiêng liêng ấy chính là thần.


(1)

Vũ T ự Lập ch ủ biên - V ã n h ó a và c ư dân đ ồ n g b ằ n g s ô n g Cửu Long

N h à xuất bản K H X H , Hà N ội, 1991

14


Trong sách L ễ ký có một đoạn viết về thần mà định
nghĩa như sau: "Nguời ta chí chét thể xác, cịn lại tinh
anh, tinh thần. Nếu là người bình thường thì tinh thần đó
tan biến vào khơng trung, nếu là người khi sống có nhiêu
tài ba cơng đức, thì tinh thần đó sẽ thành thần, mãi mãi
có tác động phù trợ ngưòi sống, nên người sống phải thờ
tế thần"<2).
"Người sống phải thờ tê thần", đó là một mặt của văn
hóa tâm linh.
^
Trong "Văn hóa tâm linh", Nguyễn Đăng Duy cho
rằng tâm linh thể hiện ở những điểm:
1. "Tâm linh là những cái trừu tượng thiêng liêng,
thanh khiết, giá trị tâm linh bắt nguồn từ cái thiêng liêng.
2. Tâm linh là cái nguồn vững chắc, là hằng số và
vĩnh cửu trong nhiều mối quan hệ con người(3)".
Từ đó, ơng cho rằng khái niệm tâm linh có thể nêu
như sau:
"Tâm linh là cái thiêng liêng cao cả trong đời sống
đời thường, là niềm tin thiêng liêng trong CU Ộ C sống tín

ngưỡng tơn giáo. Cái thièng liêng cao cả, niêm tin thiêng
liêng ấy được đọng lại ờ những biểu tượng, hình ảnh, ý
niệm .
Định nghĩa tâm linh như vậy, ông suy ra:
1.
Tâm linh là một hình thái ý thức, tâm linh gắn liền
với ý thức con người, khơng có ý thức con người không

(2) T h e o " V ã n h ó a t â m linh" của N g u y ỗ n Đ ă n g Duy, N hà xuất bản Hà
Nội, 1998, t r a n g 95.
(3) T h e o " V ã n hóa t â m linh" củ a N g u y ễ n Đ ã n g Duy, N h à xuất bản Hà
Nội, 1998, t r a n g 14.
(4) T h e o " V ă n hóa t â m linh" củ a N g u y ẻ n Đ ă n g Duy, N h à xuất bản Hà
Nội, 1998, t r a n g 14.

15


có tâm linh. Một người mất trí khơng cịn khả năng suy
nghĩ, thì trong đầu người ấy chẳng có cái gì, cũng chẳng
có tâm linh.
2.
Tâm linh là phần thiêng liêng trong ý thức con
người. Y thức con người có nhiều, ý thức vể cộng đồng
ý thức về vãn học, ý thức về tốn học,... Cịn ý thức tâm
linh là ý thức về cái thiêng liêng cao cả.(".
Như vậy, thần thuộc về thê giới thiêng liêng cao cả
thế giới trừu tượng vơ hình, nhưng có sức mạnh lạ kỳ, có
nhiều linh dị lại cơng minh chính trực, sáng suốt; thế giới
mà con người phải có niềm tin để cầu mong phù hộ cho

ban thân mình, gia đình mình, cộng đồng mình được
bình n, mạnh khỏe, ăn nên làm ra, khơng ốm đau bệnh
tật, không gặp nhiều điều bất hạnh. Thần phải phán xét
trừng trị những kẻ độc ác, bất nhân làm những điều sai
trái tội lôi, đổng thời báo mộng, hiển ứng cho dân làng
biêt trước đê tránh những tai họa đang dẫn tới và điều
lanh, điêu tôt đẹp sẽ thăng hoa. Nói chung là như vây.
Thần được thể hiện ở một biểu tượng cụ thể.
Vậy thần tích là những sự tích thuộc về quỉ thần từ
những sự tích của quí thần ấy ta hiểu về thế giới tâm
linh, về cái thiêng liêng cao cả, về niềm tin, về những
quan niệm, về lòng cầu mong, niềm biết ơn, về sự gắn bó
giữa những người trong một cộng đồng cùng thờ một VỊ
thần hay những vị thần để mong được bảo trợ, phù hộ.
Mn hiểu thần và Thành hồng phải biết thần tích. Có

(1) T h e o "V ăn h ó a tâm linh" củ a N g u y ề n Đ ă n g Duy, N hà xuất bán Hà
Nội, 1998, tra ng \5

16


thân và Thành hồng mới có thán tích. Thần tích không
phái là một thể loại văn học như thần thoại, ít nhiều nó
có màu sác vãn học dân gian mà chúng tơi sõ nói sau.
b) Thần, thánh, ma, quỉ.
Trong ngơn ngữ thông thường của nhân dân ta, từ
“thần” thường đi đơi với qui thần, thần thánh.
Phải nói nga} rằng, người ta ai chết đi đều hóa thành
ma, Theo “Từ điển tiếng Việt” : “ Ma là sự hiện hình của

người chết, theo mê tín”m. Từ ma thường có ý nghĩa xấu:
“xấu như m a”, ‘ Bói ra ma, quét nhà ra rác”, “ Sợ ma
không dám đi đêm” ,... Những từ đồng nghĩa với “m a” là:
quỉ, tà, tinh, quái.... khi phát ngôn, nhân dân thường ghép
các từ trên như ma quỉ, ma tà, ma quái, tinh ma,...
Nguyễn Du nói về Hoạn Thư, vợ Thúc Sinh trong truyện
Kiều: “ Vợ chàng quỉ quái tinh ma...”. Riêng từ “quỉ”
thường được ghép với từ “thần”, đó là “quỉ thần” như đã
nói trên.
Theo tư duy của người xưa: “ Quỉ thần là những sinh
linh thánh thán hoặc có một quyền lực nào đó, giống như
những vị thần.(2). Qui thần của một người nào đó cũng
được đồng nhất hóa với ý chí của thượng đế, với số mệnh
của người ấy. Về sau, từ này được dùng để chỉ những vị
thần hạ đẳng và cuối cùng để chí những tà ma... Đối với
nhiều dân tộc, “quỉ thần là những sinh linh tồn tại riêng
biệt và nhiều vô kể, quay cuồng ở khắp mọi nơi, làm cả
điều hay và điều dở, khác với quan niệm về quỉ thần bên

(1) N h à xuất b á n Khoa học xã hội, Hà Nội, 19X8, H o à n g Phê c h ủ biêr
(2 ) T ừ diên văn h ó a biếu tượng t h ế giới, N X B Đà N ẵ n g , 1997


trong con người, coi như biểu tượng của mối liên hệ đặc
biệt giữa con người với một lương tri cao cấp hơn, đơi
khi đóng vai trị hộ mệnh”(3). Như vậy quỉ là ma mà thần
cũng là ma. Nhưng “quỉ” đặc biệt là quỉ dữ là biểu tượng
của cái ác, “tượng trưng cho tất cả những sức mạnh gây
rối loạn, làm mờ ám, suy yếu lương tri và làm thoái lui
về tình trạng bất dịch của xã hội”(4). Quỉ dữ là trung tâm

đen tối, là lực lượng gây tội ác, chết chóc, gieo bất hạnh
cho con người. Quỉ dữ như quỉ nhập tràng, quỉ hút máu,
quỉ Phạm Nhan, quỉ Ngô Bát Ngạo,... đối lập với thượng
đế với thánh thần, là trung tâm của ánh sáng, là lực lượng
bảo trợ, phù hộ cho con người.
Theo “Từ điển văn hóa biểu tượng thế giới” : “Thần
xuất hiện như một bản sao của cái tơi và cịn có thể như
.nột con người tách rời bảo vệ cho cái tôi”, “thần là trực
giác của người đó, là tiếng nói của một lương tri siêu lý
trí”. Như vậy thần cũng là người, cái “bản thể tinh thần
tồn tại trong mỗi con người. Người chết ra ma, nhưng
khơng phải ai cũng thành thần, phải có bản lĩnh cao
cường, có cơng đức lớn lao hoặc chết vào giị' thiêng mới
thành thần. Nho giáo căn cứ vào thuyết “âm dương” mà
giải thích sự hình thành Trời, Đất, mn vật; trong mn
vật có thánh, thần, người, ma, quỉ,... “Trong vũ trụ lúc
âm dương đã phân định thì cái khí khinh thanh (nhẹ và
trong) lên làm trời, cái khí trọng trọc (nặng và đục)
xuốr, ĩ làm đất, ở giữa khoảng trời đất âm dưưng điéu hịa
với nhau sinh ra mn vật. Vật nào bẩm thụ được nhiều
(3) T ừ đ i ế n vãn hóa hiếu tư ợng t h ế giới, N X B Đà N ẵng , 1997.
(4) T ừ đ i ể n văn hóa biếu tư ợng t h ế giới, N X B Đ à Nẵng, 1997.

18


thanh khí thì làm thần, làm thánh, vật nào bẩm thụ được
ít thì làm người hay các lồi khác” (Theo Nho giáo của
Trần Trọng Kim)1' 1. Maspéro tong “Đạo giáo và các tôn
giáo Trung Quốc” viết: “ Mọi vị thần, lớn hay nhỏ, đều là

những con rmười, mà sau khi chết, vì những lý do khác
nhau, được đưa lên làm thần”(l). Đó là ơng nói về các
nhân thần.
Cịn thánh, theo “Hán Việt từ điển” của Đào Duy
Anh: “Thánh là người hiểu thấu mọi việc, là người có
học thức và đạo đức rất thâm cao” . Nhân dân thường tôn
xưng những người này là thánh hiền, thánh nhân. Từ
thánh còn được dùng để tơn xưng ơng vua, vị Hồng đế
nào đó, như: Thánh hoàng, thánh đế, thánh thượng,...
Như vậy thần và thánh, trước hết là những con người.
Quả như dân gian đã nói:
Thần là ai, thần là ta,
C ịno minh chính trực chết ra ma được làm thần.
Cũng theo Maspéro trong sách đã dẫn, ông chia các
vị thần thánh các bậc như sau:
Ngọc Hoàng: Ngọc Hoàng hay Ngọc Hoàng
Thượng Đ ế là vị thần tối cao, người chủ tối thượng của
các vị thần khác. Ngọc Hồng được hình dung như người
ngồi trên ngai vàng, mặc đại triều phục: áo dài thêu rồng,
đội miện Hoàng Đế tựa như một miếng ván nhỏ có treo
( 1 ) Sự th ờ c ú n g thần linh
Sĩ C ấ n , in t r o n g Kỷ yếu hội
Bắc T r u n g B ộ ” , N X B K hoa
( 1 ) “ Đ ạ o g i á o và c á c tôn
hợi, H à N ội, 2 0 0 0 , tr. 157.

và tổ tiên, đ i ề u nên, điéu k h ô n g nên, N g u y ễ n
th ảo k h o a h ọ c “ Văn hóa truyền th ịng các tinh
h ọ c xã hội, H à Nội, trang. 312.
g i á o T r u n g Q u ố c " N hà xuất b ả n K hoa học xã


19


13 chuỗi ngọc màu. xáu chỉ đỏ ở đàng trước và đàng sau,
hai tay bưng một bài vị theo nghi lễ Hồng Đế gọi là
“Kh” .
Ngọc Hồng thường có một triều đình với những
quan chức cao cấp như Nam Tào, Băc Đẩu, những viên
tướng, nhân viên, lính gác,... Như vậy, Ngọc Hồng mà
nhân dán thường gọi là Ơng Trời, đã được hình dung như
một thần linh cá nhân, một Hồng Đế thiên giới rất hùng
mạnh cai quản cả tam thế giới là Thiên giới, Địa giới và
Ảm giới.
-

Dưới Ngọc Hoàng Thượng Đế có các vị thần như
thần Mặt Trời, thần Mặt Trăng. Hai thần này đều được
gọi là Thánh Vương. Ngồi ra có các Lơi Cơng, Điện
Mẫu, Vũ Sư, Phong Bá và các Long Vương, v.v...
Để giúp Ngọc Hoàng Thượng Đ ế cai quản mặt đất
có các vị Thánh Đế, thần núi Thái Nhạc, thần núi Ngũ
Lĩnh, thần núi Hoa Sơn, thần núi Hàng Sơn, v.v...
Maspéro cho đều là những Thánh Đế. Các Thánh Đê này
được coi như những thần chủ trì địi sống con người nơi
trần giới theo quyền trượng của Ngọc Hồng. Dưới các
Thánh Đ ế có các vị thần cai quản, chăm sóc dân chúng «
các địa hạt hành chính nhất định tức thán - thành hồng
mà chúng tơi sẽ nói sau.
Nằm trong hàng thánh cịn có những thần siêu việl

như Khổng Tử, Lão Tử,... Khổng Tử được coi lì' ơng
thánh chí nhân trong đạo Nho. Trong quan niệm của dân
gian, Thánh ở vị trí cao hơn Thần. Ở Việt Nam, Tản
Viên, Ơng Gióng, Trần Hưng Đạo,... đều được tôn là bậc
thánh. Trong đời sống hàng ngày, nhân dân làng nào đổ
20


cũng thường tơn xưng vị thần thờ ó' làng mình là “thánh”
như đức thánh đền Cờn (Tứ Vị Thánh Nương), đức thánh
đền Quả, đức thánh đền Bạch Mã,... Ròi trong giao tiếp
hai tiếng “thần thánh” thường đi đôi với nhau. Nhưng
tiếng “thần” được nói tới nhiều hơn, bởi vì thần tượng
trưng cho tia sáng không thê bị khống chế và tạo niềm
kiên tin sâu kín, mãnh liệt mà con người coi đó là chỗ
dựa của tâm linh, có điện thờ, có lễ bái cầu cúng để
mong được chở che, được ban phúc huệ. Cho nên nói
thần cũng là thánh mà nói thánh cũng là thần, dù thánh ở
vị trí cao hơn thần.
Như vậy ta có thể tạm xếp hạng thần thánh ma quỉ
như sau (chủ yếu về nhân thần).

I

- Đai Thánh

Thánh

- Thánh


- Á Thánh
Thần

Người chết -> Ma

I
Quỉ
Quái

(Yêu quái)

21


II. THẨN VÀ THÀNH HỒNG.
Khơng phải các thần được thờ trong một làng đều là
Thành hồng. Thành hồng là gì? Sách "Trung quốc thần
bí văn hóa" viết:
"Thành hồng tức ỉà thành hào, hào có nước gọi là
trì, khơng có nước gọi là hoàng. Đắp đất làm thành, đào
hào làm hoàng"(I)
Vậy Thành hoàng là thần bảo vệ thành lũy. ở Trunự
Quốc cũng như Việt Nam cùng có một lịch sử về vấn đề
thờ Thành hoàng. "Thành hoàng là một phạm trù thần
linh bảo hộ thành trì của phong kiến Trung Quốc, được
du nhập vào nước ta từ thời Đường rồi phát triển trong
các triều đại độc lập ở nước ta. Tại kinh đơ có miếu thờ
Thành hồng cả nước, các tỉnh có miếu Thành hồng...
Đó đều là các vị thần bảo hộ một tịa thành của trung
ương hay của tỉnh. Đó là hệ thống Thành hoàng kiểu

phong kiến Truung Quốc mang ba đặc trưng cơ bản là:
bảo vệ thành trì, vơ nhân xưng, do vua phon[ "n\
Nhưng ở Việt Nam nói chung, Nghệ An nói riêng,
các vị Thành hồng đều bảo hộ làng, nơi khơng có thành
trì nào cả, chỉ có luỹ tre bao quanh một khoảng không
gian nhất định hoặc khơng có luỹ tre. Đó là Thành hồng
làng. "Thành hồng làng người Việt là một vị thẩn được
dân thờ từ trước, sau đó mới được vua phong tước vương
với chức danh Thành hồng"(3). Như vậy Thành hồng

(1)

(2) (3) Xem "Tín n g ư ỡ n g T h à n h h o à n g Việt N a m ” củ a N g u y ễ n Duy

Hinh, N h à xuất bản K H X H , Hà Nội 1996.

22


làng được quan chức hóa, thường được vua (thiên tứ)
thay trời phong là Đại vương.
Như cac vị thần khác, Thành hoàng thuộc về thê giới
tâm linh, là những vị thần cai quán thôn xã bảo vệ cho
dân lànc, phù hộ cho dân làng được an khang thịnh
vượng. Còn đối với dân làng, Thành hoàng là biểu hiện
của lịch sử, phong tục cùng đạo đức, pháp luật, hy vọng
của cả làng (có khi nhiều làng), lại cũng là một thứ
quyền uy siêu việt, một mối liên hệ vơ hình nhưng vơ
cùng chặt chẽ, khiến cho cả làng thành một cộng đơng
có tổ chức và hê thống gắn bó giữa bao mối quan hệ trên

dưới về tuổi tác. trong ngồi (chính cư, ngụ cư); giữa quá
khứ, hiện tại và tương lai.
Jean Coulet, một tác giả Pháp khi tìm hiểu về tín
ngưỡng Việt Nam cíã viết: "Sự thờ phụng tổ tiên là tượng
trưng cho gia đình và việc nối dõi tổ tỏng, sự thờ phụng
Thành hoàng tượng trưng cho làng xã và sự trường tồn
của thôn dân,,(4).
III.
THỜ THẨN VÀ VIỆC NHÀ VUA PHONG SẮC
CHO THẨN.
Xem trong lịch sử, chúng ta thấy việc thờ thần chỉ có
ở các làng và xã. Tại kinh đơ hay các thành tỉnh, phủ,
huyện, khơng thấy nói đến việc thị bách thần. Theo ơng
Nguyễn Duy Hinh thì: "Cho đến năm 1449, lẫn đầu tiên
mới dựng dàn thờ ba loại thần ỏ' kinh đơ: Dơ đại Thành
hồng để bảo vệ kinh đơ; các thần gió, mây, sấm, mưa để
(4)

C u l t e s et R é li s i o n s d e r I n d o c h in e A nnam ite I m p Ardon. Sài G ò n ,

d ẫ n t h e o T o a n Á n h trong " N ế p cũ", N h à xuál bán TP. H ổ C h í Minh. 1993.

23


đảo vũ cầu mưa như đàn xã tắc; các quí vô tự tức tất cá
các âm hồn vô thừa nhận (cô hồn)(l). Cho nên Phan Huy
Chú mới nhận xét: "Lễ tê ngày xưa chỉ tê hai vị thần Gió
và thần Mưa, đến nhà Đường mới tế thần Sấm, rồi đến
nhà Minh lại thêm thần Mây, hợp làm một đàn. Nay lập

đền Đại Thành hoàng ớ kinh, các đời trước chưa từng
thờ. Các đàn và đền thờ đời Lê sơ đều theo điển lễ của
nhà Minh cả"<2). Đó là ở kinh đơ và vào thời Lê sơ.
Cịn ở các tỉnh thành thì có hoăc khơng và nếu có thì
dựng vào năm nào chưa rõ. Thành Nghệ An ở Lam
Thành vào đời Lê, khơng thấy có đền hoặc miếu thờ
Thành hồng với chức năng bảo vệ thành ]uỹ. Khi Gia
Long cho xây dựng thành Nghệ An tức thành Vinh hiện
tại (1804) thì đồng thời cũng cho xây dựng miếu Thành
hoàng. Miếu này ở địa phận xã Yên Trường thuộc huyện
Chân Lộc, phía tây bắc tỉnh thành, thờ Thành hoàng bản
cảnh (dựng năm Gia Long thứ 3). Sau đó nhà Nguyễn
cịn cho xây đàn Xã tắc thờ thần Đất và thần Lúa, hai vi
thần giữ gìn cho nước nhà được ổn định tại địa phận xã
Yên Ttrường ở phía tây tỉnh thành, (dựng năm Minh
Mệnh thứ 13(1832), đàn Tiên Nông thờ thần Nông,
người sáng lập ra nghề cày cấy cũng tại địa phận xã n
Trường ở phía đơng tỉnh thành, (dựng năm Minh Mệnh
thứ 18 (1837). Các đời sau, nhà Nguyễn vào năm Tự Đức
thứ 5 (1852) lại cho xây dựng ở xã Yên Dũng (nay là

(1) 'Tín n g ư ỡ n g T h à n h h o à n g Việt N a m " , N g u y ê n Duy Hinh, Nhà xuất
bán K H X H , H à Nội, 1996, trang 74.
(2) "Lịc h triều hiến c h ư ơ n g loại chí", “ Lề nghi c h í ” của Phan Huy Chú.
Bán dịch, N h à xuất bản K H X H , Hà Nội, 1961, tập II, trang 201.


phường Trung Đơ) ở phía nam tỉnh thành, đàn Sơn
Xun thờ thán Núi và thần Sông.
Điếu c h ú r^ ta lưu ý là miếu Thành hồng. Miếu

Thành hồng khơng chí ở thành Nghệ An, một số huyện
cũng có miếu Thành hoàng. Huyện Quỳnh Lưu lập miếu
thờ Thành hoàng năm Tự Đức thứ 7 (1854) ỏ làng Tiên
Yên. Mặc dù huyện khơng có thành mà chỉ có hàng rào
tre bao bọc xung quanh. Thành phủ Diễn Châu cũng có
miếu Thành hoàng ở xã Cao Xá, dựns năm Minh Mệnh
13 (1832) cùng năm với việc xây thành bằng gạch vỏ sò;
Huyện lỵ Nam Đường trước kia ở làng Thịnh Lạc cũng
có miếu Thành hồng, có điều miêu lập năm nào khơng
rõ, v.v...
Trong khi đó thì việc thờ thần ớ các làng xã đã có từ
lâu, tuy khơng được hoặc chưa được Nhà nước thừa nhận
bằng cấp sắc phong. Theo một số tư liệu thì việc lập hồ
sơ (thần tích, thần phả, ngọc phả) về sự tích các thần để
Nhà nước xél duyệt phong sắc được tiến hành qui mô lần
đầu tiên có ghi chép trong các thần tích là năm v in h Hựu
thứ nhất (1572)<3) Người được triều đinh nhà Lê giao làm
việc này là Nguyễn Bính. Nguyễn Bính làm Lễ bộ Hàn
lâm viện, Đông các học sĩ, một chức quan chuyên việc từ
chương. Chức quan chuyên phụ trách các thần tích là
Nguyễn Hiền. Nguyễn Hiền làm Quản giám bách thần tri
điện hay còn gọi là Quản giám tri điện bách thần vào đời
Lê Thần Tông (1649-1662), quản lý các hổ SƯ về các

(3 )

"Tín n g ư ỡ n g T h à n h h o à n g Việt N a m " , N g u y ề n Duy Hinh, N hà xuất

hán K H X H . H à N ội, 1 9 % , trang 74.



×