Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

KTCT maclenin nhóm 13

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (331.1 KB, 19 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN LANG
KHOA KHCB


TÊN ĐỀ TÀI
PHÂN TÍCH ẢNH HƯỞNG CỦA DỊCH COVID-19 ĐẾN MÔI
TRƯỜNG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC DOANH NGHIỆP TẠI
VIỆT NAM

Giảng viên hướng dẫn : ĐỖ CAO TRÍ
Nhóm thực hiện

: NHĨM 13

Lớp

: 212_71POLE10022_29

Năm học

: 2022-2023

... tháng 3 năm 2022


LỜI CẢM ƠN
Đầu tiên, nhóm em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Khoa KHCB - Trường Đại
Học Văn Lang đã tạo điều kiện thuận lợi cho chúng em học tập và hồn thành mơn
học Kinh tế chính trị Mác - Lênin. Đặc biệt, chúng em xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc
đến Thầy Đỗ Cao Trí đã dày công truyền đạt kiến thức và hướng dẫn cho chúng em


trong suốt q trình thực hiện bài tiểu luận.
Nhóm em đã cố gắng vận dụng những kiến thức học được trong học kỳ vừa qua để
hoàn thành bài tiểu luận này. Kiến thức của chúng em vẫn còn hạn chế và chưa có
nhiều kinh nghiệm thực tiễn nên khơng tránh khỏi những thiếu sót trong q trình
nghiên cứu cũng như trình bày. Nhóm em sẽ chân thành tiếp thu và kính mong sự góp
ý của Thầy để bài tiểu luận được hoàn thiện hơn.
Một lần nữa, chúng em xin trân trọng cảm ơn sự quan tâm và giúp đỡ của Thầy.
Điều này đã giúp đỡ chúng em rất nhiều trong quá trình thực hiện bài tiểu luận.
Xin trân trọng cảm ơn Thầy.


MỤC LỤC
Phần 1: Lời mở đầu: Lí do chọn đề tài.........................................................................
Phần 2: Nội dung .........................................................................................................
1. Trước khi dịch hoạt động của các doanh nghiệp Việt Nam.......................................
1.1. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước.................................................................
1.2. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản.................................................................
1.3. Sản xuất công nghiệp............................................................................................
1.4. Hoạt động của doanh nghiệp.................................................................................
2. Khi dịch môi trường hoạt động của các doanh nghiệp...............................................
2.1. Tác động của dịch đến việc thành lập mới và tồn tại của doanh nghiệp..............
2.2. Tác động của dịch đến các hoạt động cụ thể của doanh nghiệp............................
2.3. Dịch Covid-19 tác động đến dòng tiền của doanh nghiệp.....................................
2.4. Kết quả sản xuất kinh doanh bị ảnh hưởng nghiêm trọng ....................................
3. Hậu quả ....................................................................................................................
4. Khắc phục .................................................................................................................


LỜI MỞ ĐẦU
Khủng hoảng COVID-19 đã thay đổi nhiều khái niệm cũng như mơ hình về chi phí.

Một số chi phí từng được các nhà lãnh đạo cho là cố định thì nay lại là chi phí biến đổi
(ví dụ: chi phí th văn phịng). Trong khi đó, một số năng lực vốn được xem như kiến
tạo khác biệt thì giờ đây đã trở thành điều kiện tối thiểu trong vận hành doanh nghiệp
(ví dụ: tự động hóa và cơng nghệ giúp phối hợp làm việc).
Trong bối cảnh đại dịch Covid-19 gây tác động lớn đến nền kinh tế thời gian vừa
qua, tiến trình hồi phục của doanh nghiệp (DN) nói riêng và các ngành sản xuất nói
chung địi hỏi cần có quyết tâm mạnh mẽ hơn trong việc cắt giảm thủ tục hành chính,
tạo mơi trường thơng thống, thuận tiện cho quá trình phục hồi và phát triển.
Hoạt động kinh tế quý III/2021 suy giảm mạnh chủ yếu do các biện pháp ngăn chặn
nghiêm ngặt được áp dụng trên phạm vi rộng, thời gian kéo dài theo Chỉ thị 16 để
kiểm soát dịch bệnh, đặc biệt tại các tỉnh Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông Cửu Long
và Hà Nội; tổng GRDP của 20 tỉnh, thành phố này chiếm gần 57% GDP (Thành phố
Hồ Chí Minh chiếm 17%; Hà Nội chiếm 12,6%; Bình Dương 4,8%; Đồng Nai chiếm
4,5%; Bà Rịa-Vũng Tàu chiếm 3,8%). Trong đó khu vực cơng nghiệp, xây dựng
chiếm gần 53% khu vực công nghiệp và xây dựng của cả nước; khu vực dịch vụ
chiếm hơn 63%. Do chiếm tỷ trọng lớn nên mỗi biến động trong tăng trưởng GRDP
của các tỉnh, thành phố trọng điểm này đều có ảnh hưởng khơng nhỏ tới GDP của tồn
nền kinh tế. Khi đại dịch bùng phát, giãn cách xã hội kéo dài dẫn đến đứt gãy lưu
thông, sản xuất kinh doanh bị đình trệ. Nhiều doanh nghiệp đã buộc phải lựa chọn
phương án sản xuất “3 tại chỗ” hoặc “1 cung đường, 2 điểm đến” nhằm ngăn chặn sự
lây lan của dịch bệnh, nếu không sẽ phải tạm ngừng hoạt động làm ảnh hưởng đến các
đơn hàng đã ký kết trước đó. Tuy nhiên, để hoạt động như vậy các doanh nghiệp cũng
phải chịu chi phí vận hành rất lớn, lực lượng lao động thiếu hụt do nghỉ việc, cung
ứng nguyên vật liệu bị gián đoạn nên nhiều doanh nghiệp xuất khẩu đã khơng thể
hồn thành đơn hàng đúng hạn, phải giãn hoặc hủy bỏ hợp đồng. Nhiều doanh nghiệp
bị phá sản, giải thể do kiệt quệ, không đủ lực để chống chịu dịch bệnh kéo dài. Một số
doanh nghiệp phải tạm ngừng kinh doanh hoặc kinh doanh cầm chừng, trì hỗn việc
sản xuất do khơng hiệu quả, thua lỗ trong điều kiện rất khó khăn.



PHẦN NỢI DUNG
I – TÌNH HÌNH HOẠT ĐỢNG TRƯỚC DỊCH COVID-19 CỦA CÁC DOANH
NGHIỆP VIỆT NAM
Năm 2019 là năm “bứt phá” phấn đấu thực hiện thắng lợi Kế hoạch phát triển kinh tế
– xã hội 5 năm 2016-2020 với phương châm hành động “Kỷ cương, liêm chính, hành
động, sáng tạo, bứt phá, hiệu quả” Nhờ đó, tình hình kinh tế – xã hội quý IV và cả
năm 2019 tiếp tục chuyển biến tích cực, đạt nhiều kết quả nổi bật như sau:
1. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý IV/2019 ước tính tăng 6,97% so với cùng kỳ
năm trước, trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 1,62%; khu vực công
nghiệp và xây dựng tăng 7,92% và khu vực dịch vụ tăng 8,09%. Trên góc độ sử dụng
GDP quý IV/2019, tiêu dùng cuối cùng tăng 7,29% so với cùng kỳ năm trước; tích lũy
tài sản tăng 8,28%; xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tăng 5,05%; nhập khẩu hàng hóa và
dịch vụ tăng 6,71%. (*)
2. Sản xuất công nghiệp
Ngành công nghiệp năm 2019 duy trì tăng trưởng khá với tốc độ tăng giá trị tăng thêm
so với năm trước đạt 8,86%, trong đó cơng nghiệp chế biến, chế tạo giữ vai trò chủ
chốt dẫn dắt mức tăng trưởng chung của ngành cơng nghiệp và tồn nền kinh tế (tăng
11,29%); sản xuất và phân phối điện bảo đảm cung cấp đủ cho sản xuất và tiêu dùng
của nhân dân; khai khoáng bước đầu có mức tăng nhẹ 1,29% sau ba năm liên tiếp
giảm nhờ khai thác than tăng cao, bù đắp cho sự sụt giảm của khai thác dầu thô.
3. Hoạt động của doanh nghiệp
Năm 2019, doanh nghiệp thành lập mới tăng cả về số lượng, vốn đăng ký và số lao
động so với năm 2018. Trong đó, số doanh nghiệp thành lập mới năm nay đạt mức kỷ
lục 138,1 nghìn doanh nghiệp, vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp đạt 12,5 tỷ
đồng, mức cao nhất trong những năm trở lại đây, dự báo sức khỏe tốt hơn của các
doanh nghiệp mới ra nhập thị trường. Kết quả điều tra xu hướng kinh doanh của các


doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo cho thấy doanh nghiệp tiếp tục lạc

quan về tình hình sản xuất kinh doanh trong quý I/2020 với 84,9% doanh nghiệp đánh
giá sẽ ổn định và tốt hơn.
a) Tình hình đăng ký doanh nghiệp
Trong tháng 12/2019, cả nước có 11.418 doanh nghiệp thành lập mới với số vốn đăng
ký là 155,8 nghìn tỷ đồng và số lao động đăng ký là 117,3 nghìn lao động, giảm 6,9%
về số doanh nghiệp, tăng 11,3% về vốn đăng ký và tăng 4,2% về số lao động so với
tháng 11/2019. Vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới trong tháng
đạt 13,6 tỷ đồng, tăng 19,6% so với tháng trước và giảm 43,9% so với cùng kỳ năm
trước. Trong tháng, cả nước còn có 3.466 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng
4,2% so với tháng trước và tăng 2,1% so với cùng kỳ năm trước; 2.050 doanh nghiệp
đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, giảm 3,3% và tăng 8,2%; 6.504 doanh
nghiệp ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể, tăng 53,8% và tăng 60,6%; 1.868
doanh nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể, tăng 25,7% và tăng 28,6%; 6.026 doanh nghiệp
không hoạt động tại địa chỉ đã đăng ký, tăng 95,6% và tăng 67,4%.
b) Xu hướng kinh doanh của doanh nghiệp
Kết quả điều tra xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế
biến, chế tạo trong quý IV/2019 cho thấy: Có 46,7% số doanh nghiệp đánh giá tình
hình sản xuất kinh doanh quý IV năm nay tốt hơn quý trước; 17% số doanh nghiệp
đánh giá gặp khó khăn và 36,3% số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh
doanh ổn định. Dự kiến quý I/2020 so với quý IV/2019, có 48,1% số doanh nghiệp
đánh giá xu hướng sẽ tốt lên; 15,1% số doanh nghiệp dự báo khó khăn hơn và 36,8%
số doanh nghiệp cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh sẽ ổn định. Trong đó, khu vực
doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi lạc quan nhất khi có tới 88,6% số
doanh nghiệp dự báo tình hình sản xuất kinh doanh quý I/2020 tốt hơn và giữ ổn định
so với quý IV/2019; tỷ lệ này ở khu vực doanh nghiệp Nhà nước và ngoài Nhà nước
lần lượt là 81,1% và 83,7%.


4. Hoạt động dịch vụ
a) Bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng

Hoạt động thương mại, dịch vụ của cả nước năm 2019 tiếp tục phát triển ổn định và
tăng trưởng khá. Lượng cung hàng hóa trên thị trường dồi dào, đáp ứng đầy đủ, kịp
thời cho nhu cầu sản xuất và tiêu dùng. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch
vụ tiêu dùng năm 2019 tăng cao 11,8% so với năm trước, mức tăng cao nhất giai đoạn
2016-2019
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng Mười Hai ước tính
đạt 433,2 nghìn tỷ đồng, tăng 1% so với tháng trước và tăng 12% so với cùng kỳ năm
trước. Tính chung quý IV/2019, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu
dùng ước tính đạt 1.287,5 nghìn tỷ đồng, tăng 2,8% so với quý trước và tăng 12,5% so
với cùng kỳ năm trước, trong đó: Doanh thu bán lẻ hàng hóa đạt 971,5 nghìn tỷ
đồng, tăng 2,6% và tăng 13,1%; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống đạt 152 nghìn tỷ
đồng, tăng 2,6% và tăng 10,4%; doanh thu du lịch lữ hành đạt 12,4 nghìn tỷ
đồng, tăng 5,8% và tăng 11,7%; doanh thu dịch vụ khác đạt 151,6 nghìn tỷ đồng, tăng
4,2% và tăng 11,3%.
b) Vận tải và viễn thông
Hoạt động vận tải năm 2019 đạt mức tăng khá so với năm trước, trong đó vận tải
đường bộ và hàng không đều tăng trên 10% do được chú trọng đầu tư về cơ sở hạ
tầng, đảm bảo kết nối thuận tiện giữa các địa phương và chất lượng dịch vụ ngày càng
được nâng cao. Hoạt động viễn thông năm 2019 đạt mức tăng khá về doanh thu nhờ
thị trường những tháng cuối năm sôi động trở lại sau thời gian dài ở trạng thái bão
hòa.
c) Khách quốc tế đến Việt Nam
Năm 2019 đánh dấu thành công của du lịch Việt Nam với lượng khách quốc tế đạt trên
18 triệu lượt người, cao nhất từ trước đến nay. Bên cạnh việc đẩy mạnh công tác xúc


tiến, quảng bá, chất lượng du lịch đang có những cải thiện tích cực nhằm tạo sức hút
đối với khách quốc tế, Việt Nam tiếp tục giữ vững danh hiệu “Điểm đến hàng đầu
châu Á” năm thứ hai liên tiếp do Giải thưởng Du lịch Thế giới (WTA) 2019 bình
chọn.

Tính chung năm 2019, khách quốc tế đến nước ta ước tính đạt 18.008,6 nghìn lượt
người, tăng 16,2% so với năm trước, trong đó khách đến bằng đường hàng khơng đạt
14.377,5 nghìn lượt người, chiếm 79,8% lượng khách quốc tế đến Việt Nam, tăng
15,2%; bằng đường bộ đạt 3.367 nghìn lượt người, chiếm 18,7% và tăng 20,4%; bằng
đường biển đạt 264,1 nghìn lượt người, chiếm 1,5% và tăng 22,7%.
II – TÌNH HÌNH HOẠT ĐỢNG SAU DỊCH COVID-19 CỦA CÁC DOANH
NGHIỆP VIỆT NAM
1. Tác động của dịch Covid-19 đến việc thành lập mới và tồn tại của doanh
nghiệp
Sự bùng phát mạnh của dịch Covid-19 cùng với việc áp dụng các biện pháp giãn cách
xã hội nhằm kiểm soát tốc độ lây lan của dịch bệnh tại nhiều tỉnh, thành phố như Hà
Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai và 16 tỉnh, thành phía Nam đã
ảnh hưởng tới lưu thơng hàng hóa, kéo theo sự gián đoạn của các chuỗi cung ứng và
tác động tới hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Không tiếp cận
được khách hàng, đứt gãy chuỗi cung ứng, doanh thu giảm mạnh, phải cho nhiều lao
động nghỉ việc, đến nay vẫn lao đao.
Cùng với đó tình hình sản xuất kinh doanh ở hầu hết các nhóm ngành đều gặp khó
khăn, cùng với tâm lý e ngại, thận trọng của các nhà đầu tư khi dịch bệnh diễn biến
phức tạp, nên số lượng doanh nghiệp thành lập mới giảm đáng kể.
Theo số liệu thống kê từ Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp (2020),
trong 9 tháng đầu năm 2020, số doanh nghiệp đăng ký mới sụt giảm nghiêm trọng,
giảm 3,2% so với cùng kỳ. Trong đó, lĩnh vực giảm mạnh mẽ nhất là nhóm doanh


nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật, vui chơi và giải trí (giảm 22,5% trong quý
I/2020 so cùng kỳ 2019, tổng 9 tháng năm 2020 giảm 37,2% so cùng kỳ 2019); kinh
doanh bất động sản 9 tháng đầu năm 2020 giảm 19,2% so cùng kỳ 2019 (quý I/2020
giảm 11,9% so cùng kỳ 2019); trong khi đó, các doanh nghiệp lĩnh vực hoạt động dịch
vụ khác trong 9 tháng đầu năm 2020 có số lượng đăng ký mới giảm 32,1% so cùng kỳ
2019 (quý I/2020 giảm 12,2% so cùng kỳ 2019), dịch vụ lưu trú, ăn uống giảm 13%

so với năm trước; du lịch lữ hành giảm nặng tới 59,5% so với năm trước; vận tải hành
khách và vận tải hàng hóa lần lượt giảm 29,6% và 5,2%...
Theo Tổng cục Thống kê, năm 2020 Việt Nam có 101,7 ngàn doanh nghiệp tạm
ngừng kinh doanh có thời hạn, ngừng hoạt động chờ làm thủ tục giải thể và hoàn tất
thủ tục giải thể, tăng 13,9% so với năm trước. Trung bình mỗi tháng có 8,5 ngàn
doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường. Đây là con số cao nhất trong 10 năm nay (trong
khi mục tiêu phấn đấu 1 triệu doanh nghiệp của cả nước vào năm 2020 khơng hồn
thành). Số lượng doanh nghiệp đã hoàn thành xong thủ tục giải thể trong 9 tháng đầu
năm 2020 là 12.089 doanh nghiệp. Phần lớn là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực
dịch vụ lưu trú và ăn uống, lĩnh vực giáo dục và đào tạo, lĩnh vực dịch vụ việc làm và
du lịch, kinh doanh bất động sản.
Tại Đồng Nai, theo Cục Thống kê tỉnh, năm 2020 đã có 349 doanh nghiệp giải thể với
số vốn 5,5 ngàn tỷ đồng và 360 chi nhánh, địa điểm kinh doanh chấm dứt hoạt động;
679 doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh. Các doanh nghiệp này chủ yếu là doanh
nghiệp nhỏ và vừa và thuộc khu vực kinh tế tư nhân. Lý do giải thể và chấm dứt hoạt
động và tạm ngừng kinh doanh chủ yếu là do kinh doanh không hiệu quả
2. Tác động của dịch Covid-19 đến các hoạt động cụ thể của doanh nghiệp
Việt Nam
Đa số doanh nghiệp cho biết dịch COVID-19 đã ảnh hưởng tới việc tiếp cận khách
hàng, đến dòng tiền và nhân công của họ. Số lượng lao động phải cho nghỉ việc ở mỗi
doanh nghiệp do dịch bệnh COVID-19 theo khu vực kinh tế được tính tốn từ số liệu
các doanh nghiệp có cung cấp thơng tin. Ơng Vũ Thế Bình, Phó Chủ tịch Hiệp hội Du


lịch Việt Nam cho biết, nếu như số lao động trong ngành du lịch năm 2019 cả nước là
2,9 triệu người thì kể từ khi dịch COVID bùng phát đến nay, gần 90% đã nghỉ việc
hoặc tạm thời ngừng làm việc.
Với thị trường bất động sản, đại dịch COVID-19 đã tác động mạnh mẽ đến lĩnh vực
này suốt gần hai năm qua. Ơng Lê Hồng Châu, Chủ tịch Hiệp hội Bất động sản TP
Hồ Chí Minh cho biết, nhiều cổ phiếu bất động sản bị giảm sàn, nằm sàn, tất cả các

doanh nghiệp bất động sản đều bị tác động rõ rệt, các sự kiện đông người như quảng
bá tiếp thị bán hàng đều bị hủy bỏ. Thị trường bất động sản du lịch nghỉ dưỡng và thị
trường bất động sản cho thuê bị ảnh hưởng nặng nề, nhất là tình trạng các mặt bằng
cho thuê tại khối đế các tòa nhà cao tầng và nhiều mặt bằng nhà phố cho thuê bị nhiều
khách thuê trả lại

Các khó khăn doanh nghiệp gặp phải do ảnh hưởng của dịch Covid


Một số ngành có thể thấy ngay mức độ ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 như: Ngành
dịch vụ, du lịch, nhà hàng, tuy nhiên một số ngành bị ảnh hưởng gián tiếp do thu
nhập người dân giảm, giảm mua sắm như bất động sản, thời trang… Những doanh
nghiệp có nguồn vốn lớn có thể cầm cự được nhưng với những doanh nghiệp nhỏ
và siêu nhỏ, hộ kinh doanh nhỏ lẻ, nguồn vốn cịn hạn chế thì đây là khó khăn lớn.
Khi dịch Covid-19 xuất hiện ở Việt Nam, Tổng cục Thống kê đã tiến hành khảo sát
các doanh nghiệp và kết quả cho thấy có tới 85,7% số doanh nghiệp được khảo sát
chịu tác động bởi dịch Covid-19. Lĩnh vực công nghiệp - xây dựng và lĩnh vực
dịch vụ chịu tác động đến 86,1% và 85,9% tổng số doanh nghiệp. Lĩnh vực nơng,
lâm, thuỷ sản chịu ảnh hưởng ít hơn với 78,7%.
Ngành Hàng không chịu tác động 100%, dịch vụ lưu trú 97,1%, dịch vụ ăn uống
95,5%, hoạt động của các đại lý du lịch 95,7%, giáo dục đào tạo 93,9%, dệt may,
sản xuất da, các sản phẩm từ da, sản xuất các sản phẩm điện tử, sản xuất oto đều
có tỷ lệ chịu tác động lên tới hơn 90% (Tổng cục Thống kê, 2020). Cụ thể:
Dịch Covid-19 tác động đến đầu vào nguyên vật liệu:
Nhiều lĩnh vực sản xuất của Việt Nam phụ thuộc nhiều vào nguồn nguyên, nhiên
liệu nhập khẩu, chủ yếu là Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Mỹ, EU... Khi dịch
Covid-19 xảy ra, việc hạn chế đi lại, thông thương đã ảnh hưởng đến nguồn
nguyên, vật liệu đầu vào của doanh nghiệp, bao gồm các doanh nghiệp sản xuất
hố chất nơng nghiệp như phân bón, thuốc bảo vệ thực vật; các doanh nghiệp dệt
may, da giầy, sản xuất giấy, sản phẩm từ gỗ, sản xuất kinh doanh thép; các doanh

nghiệp khai khoáng xây dựng...
Các doanh nghiệp này thiếu hụt nguồn nguyên liệu đầu vào đã ảnh hưởng đến hoạt
động sản xuất kinh doanh, hoàn thành các đơn hàng đã đặt trước, từ đó ảnh hưởng
đến doanh thu và uy tín của doanh nghiệp.


Dịch Covid-19 tác động đến thị trường tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ:
Dịch Covid-19 xảy ra và nhanh chóng lan rộng trên toàn thế giới làm sức mua của nền
kinh tế toàn cầu giảm, hoạt động giao thương hạn chế, dẫn đến việc giãn, huỷ, hoãn
các đơn đặt hàng, gây sụt giảm kim ngạch xuất khẩu và làm giảm sản lượng, doanh
thu của doanh nghiệp. Điều này ảnh hưởng đến nhiều doanh nghiệp ở nhiều ngành,
lĩnh vực khác nhau.
Dịch Covid-19 tác động đến lĩnh vực nông lâm nghiệp thuỷ sản:
Covid-19 hạn chế hoạt động xuất khẩu hàng hoá của các doanh nghiệp trong lĩnh vực
này. Trong quý I/2020 nhiều mặt hàng nơng - thuỷ sản gặp khó khăn khi xuất khẩu ra
các thị trường Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Mỹ, EU, ASEAN.
Nguyên nhân do lệnh phong toả, hạn chế đi lại, nhiều hợp đồng bị huỷ bỏ. Kim ngạch
xuất khẩu các mặt hàng nông lâm sản giảm 4,5%, thuỷ sản giảm 11,2% trong quý
I/2020 so với cùng kỳ, trong đó có nhiều mặt hàng giảm mạnh như cao su (-26,1%),
rau quả (-11,5%), cafe (-6,4%)... Từ giữa tháng 4/2020, nhiều quốc gia dần kiểm soát


được dịch bệnh, từng bước mở cửa trở lại nền kinh tế cùng với các gói kích cầu cải
thiện kim ngạch xuất khẩu.
Với các doanh nghiệp dệt may, da giầy, sản xuất giấy, sản phẩm từ gỗ thì đầu ra cho
sản phẩm chịu ảnh hưởng nghiêm trọng do sụt giảm nhu cầu tiêu dùng trong nước và
quốc tế, nhất là từ Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Mỹ, EU. Trong tháng 3/2020,
nhiều doanh nghiệp của Mỹ, EU đã tuyên bố tạm ngừng nhận các đơn hàng dệt may,
đồ gỗ từ Việt Nam. Các doanh nghiệp Hàn Quốc dù không tuyên bố chính thức nhưng
cũng đã chủ động tạm ngừng các đơn hàng của các doanh nghiệp Việt Nam. Trong

khi, các doanh nghiệp dệt may chuyển hướng sang sản xuất khẩu trang, đồ bảo hộ
trong bối cảnh dịch bệnh bùng phát thì một số ngành khác như da giày vẫn chưa tìm
được sản phẩm thay thế.
Mặc dù vậy, do ảnh hưởng của dịch bệnh liên tiếp, tình hình sản xuất, xuất khẩu
ngành Dệt may tiếp tục gặp nhiều khó khăn do thiếu hụt đơn hàng xuất khẩu. Nhiều
doanh nghiệp dệt may gần như chưa có đơn hàng tiếp theo cho hai quý cuối năm
2020. So với 9 tháng đầu năm 2019, giá trị xuất khẩu 9 tháng đầu năm 2020 của
ngành Dệt may và giày dép đều giảm 1- 2%.
Nhóm ngành dịch vụ như du lịch, vận tải, kho bãi, bán lẻ, tài chính ngân hàng bảo
hiểm, kinh doanh bất động sản, dịch vụ y tế, giáo dục và đào tạo chịu ảnh hưởng mạnh
do biến động về tổng cầu. Ảnh hưởng mạnh mẽ nhất là ngành Du lịch (dịch vụ du
lịch, lưu trú, ăn uống và lữ hành). Do dịch bệnh lan rộng, nhiều quốc gia thực hiện các
biện pháp phong toả, hạn chế đi lại, tăng cường kiểm dịch nên nhu cầu du lịch xuyên
biên giới sụt giảm. Nhu cầu du lịch trong nước cũng giảm do lo ngại dịch bệnh và do
thu nhập của người dân giảm. Làn sóng dịch bệnh thứ 2 xảy ra với diễn biến phức tạp
đã tiếp tục gây ảnh hưởng đến các doanh nghiệp. Doanh thu du lịch lữ hành 8 tháng
năm 2020 ước tính đạt hơn 13.000 tỷ đồng, giảm 54,4% so với cùng kỳ năm trước
(Tổng cục Thống kê).
Theo Hiệp hội doanh nghiệp Dịch vụ Logistics Việt Nam (VLA), các doanh nghiệp
ngành vận tải kho bãi cũng chịu tác động không nhỏ bởi dịch bệnh. Các đường bay


trong nước, quốc tế đóng cửa, doanh thu ngành vận tải hàng không, đường sắt, đường
bộ giảm mạnh.

Lĩnh vực kinh doanh bất động sản cũng chịu ảnh hưởng mạnh của đại dịch Covid-19,
trong đó có lĩnh vực cho thuê mặt bằng thương mại, văn phòng cho thuê, khách sạn,
căn hộ. Nhân viên tại các sàn giao dịch bất động sản thiếu nguồn cung để chào hàng
và cả nguồn cầu để giao dịch, dẫn đến khơng có doanh thu. Nhiều mặt bằng kinh
doanh bị trả lại hoặc giảm giá thuê. Nhiều doanh nghiệp bất động sản lâm vào tình

trạng phải tạm dừng hoạt động...
3. Dịch Covid-19 tác động đến dòng tiền của doanh nghiệp:
Các doanh nghiệp chịu ảnh hưởng mạnh của đại dịch do gặp khó khăn trong tiêu thụ
sản phẩm nên doanh nghiệp chịu căng thẳng về dòng tiền. Nhiều doanh nghiệp chỉ
quan tâm đến các biện pháp cắt giảm dòng tiền chi ra trong bối cảnh doanh thu hạn
chế.


Kết quả khảo sát của Ban nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân cho thấy, có hơn 60%
doanh nghiệp được khảo sát chịu ảnh hưởng giảm hơn 50% doanh thu, 28,9% doanh
nghiệp chịu ảnh hưởng giảm từ 20-50% doanh thu (Báo cáo kết quả khảo sát lần 1 của
Ban nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân). Có đến 74% số doanh nghiệp trả lời khảo
sát có nguy cơ phá sản do doanh thu không thể bù đắp chi phí hoạt động, chi lương
cho người lao động, chi trả tiền lãi vay ngân hàng, chi phí thuê mặt bằng, các khoản
thuế, phí... cho hoạt động sản xuất kinh doanh và các chi phí khác. Đợt khảo sát lần
thứ 3 của Ban nghiên cứu phát triển Kinh tế tư nhân vào tháng 8/2020 về những khó
khăn mà doanh nghiệp phải đối mặt trong thời gian tới cho thấy, có tới 76% doanh
nghiệp được khảo sát trả lời hiện nay không cân đối được thu chi, trong đó 54% có
dịng tiền vào chỉ đáp ứng dưới 50% chi phí.
4. Kết quả sản xuất kinh doanh bị ảnh hưởng nghiêm trọng:
Gánh nặng lớn nhất của các doanh nghiệp dưới tác động của dịch

Dịch bệnh đã làm cho các doanh nghiệp cùng một lúc phải đối mặt với rất nhiều khó
khăn. Khảo sát 5 khó khăn lớn nhất mà các doanh nghiệp gặp phải cho thấy nhiều
doanh nghiệp đang phải đối mặt với việc sụt giảm nguồn thu để bù đắp cho các chi phí
khác (60,2%); hay hoạt động dưới mức bình thường (51,8%). Bên cạnh đó, 43,4%
khơng có nguồn thu; 39,4% khơng thực hiện được hoạt động. Ngoài ra, 31,2% doanh
nghiệp trả lời do hàng hóa sản xuất khơng tiêu thụ được trong nước; 17,20% không
xuất khẩu được. Các vấn đề về thiếu hụt vốn (36,7%), thiếu hụt nguyên liệu sản xuất



cũng là một khó khăn lớn, đặc biệt nguồn nguyên liệu từ nhập khẩu (29,1%). Sụt giảm
doanh thu đang là khó khăn lớn nhất. Cụ thể, 20,2% cho rằng doanh thu sụt giảm từ
80% trở lên; 28,4% bị sụt giảm từ 50% đến 80%; 34,9% sụt giảm từ 30% đến 50%;
13,9% sụt giảm từ 10% đến 30%; và chỉ có 2,7% sụt giảm dưới 10% doanh thu. Bên
cạnh đó các doanh nghiệp vẫn phải gánh chịu nhiều khoản chi phí lớn. Kết quả khảo
sát cho thấy, chi phí nhân cơng đang là gánh nặng lớn nhất của 34,5% doanh nghiệp
dưới tác động của dịch Covid-19. Tiếp theo là khoản chi trả lãi vay ngân hàng
(25,0%), chi phí hoạt động thường xuyên (20,6%), chi phí thuê mặt bằng (17,9%).
III – HẬU QUẢ:
Chỉ số tồn ngành cơng nghiệp ước tính q III/2021 tăng trưởng âm, giảm 4,4% so
cùng kỳ năm trước (tháng 7 giảm 0,3%, tháng 8 giảm 7,8%, tháng 9 ước tính giảm
5,5%), trong đó ngành khai khống giảm 7,2% so cùng kỳ (tháng 7 giảm 10,9%, tháng
8 giảm 2,8%, tháng 9 ước tính giảm 7,5%); ngành chế biến, chế tạo giảm 4,6% (tháng
7 tăng 0,7%, tháng 8 giảm 9,3%, tháng 9 ước tính giảm 4,9%); sản xuất và phân phối
điện giảm 1% (tháng 7 tăng 1,7%, tháng 8 giảm 1,9%, tháng 9 ước tính giảm 9,6%);
cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải giảm 0,4% (tháng 7 tăng 1%, tháng 8 giảm
0,1%, tháng 9 ước tính giảm 2%).
Tính chung 9 tháng năm 2021, chỉ số sản xuất toàn ngành cơng nghiệp ước tính tăng
4,1% so với cùng kỳ năm trước, cao hơn 1,6 điểm % so với mức tăng cùng kỳ năm
2020 (quý I tăng 5,7%; quý II tăng 12,4%; quý III ước tính giảm 4,4%). Trong các
ngành công nghiệp, ngành chế biến, chế tạo tăng 5,5% (quý I tăng 8,0%; quý II tăng
14,8%; quý III ước tính giảm 4,6%), đóng góp lớn nhất với 4,70 điểm phần trăm vào
mức tăng chung; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 4,3% (quý I tăng 3,3%; quý II
tăng 12,4%; q III ước tính giảm 1,0%), đóng góp 0,39 điểm phần trăm; ngành cung
cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 3,6% (quý I tăng 6,4%; quý II tăng 5,1%;
q III ước tính giảm 0,4%), đóng góp 0,06 điểm phần trăm; ngành khai khoáng giảm
6,4% (quý I giảm 8,1%; quý II giảm 3,9%; quý III ước tính giảm 7,2%), làm giảm 1,0
điểm phần trăm mức tăng chung.



Kết quả khảo sát đánh giá cho thấy 87,2% doanh nghiệp chịu tác động tiêu cực bởi
dịch bệnh, chỉ có 11% khơng ảnh hưởng gì, và gần 2% vẫn kinh doanh tốt. Trong số
8.633 doanh nghiệp tư nhân trong nước tham gia khảo sát có 87,1% doanh nghiệp cho
biết chịu ảnh hưởng tiêu cực, 11% doanh nghiệp không bị ảnh hưởng, 2% doanh
nghiệp hoạt động tích cực.
Lĩnh vực chịu ảnh hưởng lớn nhất là may mặc (97% doanh nghiệp), thông tin, truyền
thông (96% doanh nghiệp), thiết bị điện (94% doanh nghiệp), sản xuất xe có động cơ
(93% doanh nghiệp)…Tương tự, kết quả khảo sát 1.564 doanh nghiệp FDI tại Việt
Nam cũng ghi nhận 87,9% chịu tác động tiêu cực từ dịch bệnh, 11,4% khơng ảnh
hưởng gì, chỉ có 0,8% vẫn kinh doanh tốt. Do ảnh hưởng của dịch COVID-19, 35%
doanh nghiệp tư nhân trong nước, 22% doanh nghiệp FDI cho biết phải sa thải lao
động do tình hình kinh doanh suy giảm. Số lao động buộc phải nghỉ việc xấp xỉ 30%
tổng số lao động làm việc tại doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp tham gia khảo sát cho biết bốn ảnh hưởng lớn của dịch bệnh tới
hoạt động kinh doanh là khó tiếp cận khách hàng, thiếu hụt dịng tiền, phải giảm lao
động và đứt gãy chuỗi cung ứng.
IV – KHẮC PHỤC:
Mục tiêu đặt ra đối với Việt Nam hiện nay là chúng ta phải kiểm sốt tốt dịch bệnh
COVID-19, khơng để lây nhiễm trong cộng đồng, đồng thời chủ động chuẩn bị các
kịch bản, phương án, kế hoạch phục hồi nhanh và phát triển kinh tế - xã hội bền vững
trong và ngay sau khi kết thúc dịch bệnh COVID-19. Khắc phục, tháo gỡ nhanh
những khó khăn trong sản xuất, kinh doanh; bảo đảm an sinh xã hội, đời sống, sinh kế,
việc làm đối với người lao động, người nghèo, người yếu thế.
Tìm kiếm và phát huy các động lực tăng trưởng mới có thể thay thế, bù đắp những tổn
thất do dịch bệnh gây ra. Xây dựng các chính sách đặc biệt, chuẩn bị nguồn lực để hỗ
trợ một số ngành kinh tế nhằm củng cố và nâng cao năng lực cạnh tranh, tận dụng cơ
hội chiếm lĩnh thị trường.



Xác định rõ các cơ hội và thách thức để đưa ra các giải pháp tận dụng, chuyển hóa cơ
hội và thách thức thành các động lực tăng trưởng mới, thúc đẩy nhanh hơn quá trình
cơ cấu lại nền kinh tế, trong đó có chuyển đổi số. Nâng cao năng lực nội tại và sức
cạnh tranh của nền kinh tế, nâng tầm và cải thiện thứ hạng quốc gia trên một số ngành,
lĩnh vực.
Dịch bệnh COVID-19 và tác động của nó là chưa từng có trên tồn cầu, các quốc gia,
ngay cả các cường quốc kinh tế đang phải có các biện pháp mạnh, vượt ra khỏi các
quy định bình thường. Đối với Việt Nam trong thời gian tới, phải triển khai thực hiện
nghiêm túc, quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả các chủ trương, đường lối, nhiệm vụ, giải
pháp đề ra trong Lời kêu gọi của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước về phòng, chống đại dịch
COVID-19, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc
hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; trong đó cần thực hiện ngay các chính sách,
giải pháp mạnh, áp dụng các quy trình thủ tục đặc thù trong bối cảnh đại dịch COVID19; với một số nhiệm vụ trọng tâm sau:
Thứ nhất, cần tập trung đẩy nhanh tiến độ và triển khai hiệu quả các gói hỗ trợ,
chủ yếu bao gồm gói chính sách tiền tệ - tín dụng, gói hỗ trợ về tài khóa, gói hỗ trợ an
sinh xã hội. Các gói này đang được tích cực triển khai, nhưng còn chậm, còn nhiều rào
cản; nên cần tháo gỡ ngay những điểm nghẽn này, đề xuất mở rộng gói tài khóa phù
hợp, tăng khả năng tiếp cận vốn, hỗ trợ cả doanh nghiệp nhỏ, siêu nhỏ và doanh
nghiệp lớn có đóng góp, lan tỏa, tạo nhiều việc làm. Kiên quyết khơng để tình trạng
chậm trễ và hành vi trục lợi đối với nhiệm vụ cấp bách này.
Thứ hai, thúc đẩy mạnh mẽ cỗ máy tăng trưởng kinh tế của nước ta được ví như
cỗ xe tam mã, bao gồm xuất khẩu, đầu tư và tiêu dùng; làm sao để các lĩnh vực này
kéo cỗ máy tăng trưởng đạt mức cao nhất có thể.
Chuẩn bị và xây dựng kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021 - 2025, phục vụ
phương hướng, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội theo tinh thần Nghị quyết Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng; trong đó tập trung nguồn vốn đầu tư các


cơng trình trọng điểm, có sức lan tỏa lớn, giải quyết nút thắt về kết cấu hạ tầng, ứng
phó với biến đổi khí hậu, sạt lở, xâm nhập mặn và giải quyết các vấn đề phát triển của

quốc gia, vùng và liên kết vùng, tạo thuận lợi thu hút đầu tư tư nhân, đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI); tiếp tục xem xét, chuyển đổi hình thức đầu tư một số dự án đầu tư
theo hình



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×