Phần thứ ba
XÂY DỰNG SỨC MẠNH TINH THẨN
CỦA QUÂN ĐỘI TRONG TÌNH HÌNH MĨI
I.
Nhũng nhân tố tác động chủ yếu đối vối việc xây dựng
sức mạnh tinh thần của quân dội trong tình hình mói
Trong hai thập kỷ đầu của thế kỷ XXI, chúng ta đã và
đang chứng kiến một thế giới hết sức phức tạp, đầy biến động
với những nét đặc trưng do nhiều yếu tố về kinh tế, chính trị,
văn hố, xã hội, qn sự, quốc phịng, an ninh, mơi trường tự
nhiên đã tích luỹ, "chuẩn bị" từ trước. Chúng đan xen, hòa
quyện và tác động lẫn nhau trong khơng gian tồn cầu hóa
ngày càng sâu rơng, tác động manh mẽ, đa dạng, nhiêu chieu
đến toàn bộ các lĩnh vực đời sống của các quốc gia dân tộc và
tồn nhân loại.
Cách mạng khoa học cơng nghệ hiện đại, kinh tế tri thức
và xu thế tồn cầu hóa là những nhân tơ mang tính thời đại
sâu sắc mà bất cứ một nghiên cứu khoa học nào cũng cần đều
phải quan tâm và tính đến. Đối vói sự nghiệp xây dựng Quân
đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ,
từng bước hiện đại nói chung, xây dựng sức mạnh tinh thần
của quân đội nói riêng càng cần phải xem xét kỹ sự tác động
của nó, để làm cơ sở xác định rõ hơn những yêu cầu, nội dung
xây dựng cho phù hợp.
138
Người ta đã thừa nhận rằng, thế kỷ XXI đã và vẫn sẽ là
thế kỷ mà thành tựu của cách mạng khoa học công nghệ
hiện đại, kinh tế tri thức sẽ tiếp tục có bước phát triển nhảy
vọt và được ứng dụng rộng rãi trong mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội. Cách mạng khoa học công nghệ hiện đại xâm
nhập ngày càng sâu vào từng ngành sản xuất, trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp. Cách mạng khoa học cơng nghệ
hiện đại, bản thân nó là lực lượng sản xuất mới hiện đại,
đồng thời là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển
nhảy vọt, làm cho trình độ lực lượng sản xuất ở thế kỷ XXI
sẽ có những thay đổi nhảy vọt mà đến nay chúng ta chưa có
thể dự lường hết được.
Dưới sự tác động của cách mạng khoa học công nghệ hiện
đại, nền kinh tế tri thức ra đời và phát triển. Đó là nền kinh tế
dựa chủ yếu vào năng lực trí tuệ của con người, sản phẩm làm
ra có hàm lượng trí tuệ rất cao không chỉ nhằm phục vụ cho
mục tiêu phát triển kinh tế mà còn được ứng dụng, sử dụng
trong nghiên cứu phát triển khoa học công nghệ quân sự,
công nghiệp quốc phịng, trang bị vũ khí kỹ thuật của lực
lượng vũ trang và trở thành lực lượng chiến đấu trực tiếp.
Những sản phẩm thông minh do cách mạng khoa học công
nghệ và kinh tế tri thức tạo ra là nền tảng cho sự ra đời các thế
hệ vũ khí tinh khơn của một nền quốc phịng hiện đại.
Tồn cầu hố là khái niệm được Đảng ta thể hiện chính
thức trong Văn kiện Đại hội XI, phản ánh tính chất hết sức
sâu rộng của xu thế tồn cầu hố hiện nay và trong thcd gian
tới. Trong q trình tồn cầu hoá, mỗi quốc gia dân tộc đều
phải đối mặt với một mơi trường mới, vừa có thời cơ vừa có
thách thức, vừa thúc đẩy hợp tác vừa có cả sức ép cạnh tranh.
Đây cũng là vấn đề gây nhiều khó khăn và thách thức to lớn
đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam.
Trong điều kiện tồn cầu hóa, đã xuất hiện những mưu đồ lấy
139
"làng toàn cầu" thay thế cho quốc gia dân tộc; lấy sự tùy
thuộc lân nhau giữa các nước để hạ thấp chủ quyền quốc gia;
lấy tính quốc tế và thị trường "khơng biên giới" để phủ nhận
tính bất khả xâm phạm về chủ quyền và tồn vẹn lãnh thơ
quốc gia; lấy những quy định thể chế, công ước quốc tế thay
the cho luật pháp đat nước, bản sắc dân tộc; lấy những giá tTỊ
toan eau" thay thế cho giá trị dân tộc, kể cả hệ tư tưởng và thê
chế chính trị. Trong điều kiện đó, nếu khơng bảo đảm được
độc lập, tự chủ, định hướng chính trị, chủ quyền quốc gia dân
tộc quyen quyết định chính sách đối nội đối ngo^ và thếchế
chính tri đất nước, thì hội nhập quốc tế không thế đem lại
hiệu quả thiết thực, quyền lực quốc gia trong các cơ quan
quyen lực khu vực, quốc tế khơng được bảo đảm và phát huy;
trái lại có thể dẳn đến tình trạng bị phụ thuộc, bị "hịa tan".
Điều này càng trở nên đặc biệt nguy hiểm đối với các nước
chậm phát triển, đang phát triển bởi vì họ thiếu những đ êu
kiện va phương tiện để chống đỡ trước những tác động tiêu
cực của tồn cau hóa và sự lợi dụng q trình này đế chơng
phá của các thế lực đế quốc, thù địch.
Cach mạng khoa học cơng nghệ hiện đại, tồn cầu h o á v à
kinh tế tri thức ngày càng quan hệ chặt chẽ với nhau như một
"CÔ xe tam mã" cùng vận động, tác động thúc đẩy sự phát
trien lưc lượng sản xuất tồn cầu, lơi kéo tất cả các nên kmh
te cae khu vực, các quốc gia trên thế giới, thúc đẩy văn minh
nhân loại, làm cho trai đất dường như trở nên nho bé hơn, tính
tuy thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia dân tộc càng gia tăng,
sir gắn kết đó là một đặc điểm nổi bật của sự xã hội hóa khoa
hoc hóa, tri thức hóa đời sống kinh tế thê giới, lực Ịượng sản
xuất xã hôi và các mối quan hệ cộng đồng nhân loại trên quy
mơ tồn cầu. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triến năm 2011):
"Cuọc each mạng khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức và
140
c |U ã t r i n h t o a n c a u h o a d i ê n r a m a n h m e v à t á c đ ô n g s â u s ắ c
sự p h á t t r i ể n c ủ a n h i ề u n ư ớ c " 1.
Sự tác động của "cỗ xe tam mã" này đến lĩnh vực quân
sự, quốc phong, an ninh, xây dưng quân đội của moi quốc
gia trên thế giới là trực tiếp và rất sâu sắc. Nhiều vấn đe cơ
ban ve chien tranh, quân đôi, quốc phịng có sư thay đổi và
phát tnên mạnh mẽ. Trong bối cảnh đó, sư nghiêp xây dưng
quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuẹ, tưng
bước hiện đại, gia tãng sức mạnh tinh thần, nâng cao chất
lượng tông hợp và sức chiến đấu của quân đội vừa có thuận
lợi vừa gặp khơng ít khó khăn, thách thức; đặt ra yêu cầu
phải tiếp tục đẩy mạnh, thực hiện những nội dung, biện pháp
mới cho phù hợp.
Trong bối cảnh mới, lợi ích quốc gia dân tộc ln là lợi
ích chủ đạo chi phối hoạt động của các nước trong giải quyết
và xử lý các quan hệ quốc tế. Người ta có thể cùng nhau cấm
kết giải quyết vấn đề nào đó có lợi ích chung va cùng mối
quan tâm, kể cả những vấn đề toàn cầu, nhưng lại bất đồng
mâu thuẫn và xung đột khi va chạm lợi ích. Lợi ích dân tộc
ngày càng "vượt ra ngoài" phạm vi biên giới lãnh thổ quốc gia
và người ta đang cố gắng "bảo vệ" cái lợi ích "vượt ra ngoai"
phạm vi biên giới lãnh thổ quốc gia ấy bằng mọi giá, kể cả
bằng biện pháp vũ lực. Những va chạm, xung đột, tranh chấp
về lợi ích ngày càng trở nên khó kiểm sốt và khó phân biệt
đúng - sai, chính - tà. Người ta có thể bắt tay nhau trên các
diễn đàn song phương, đa phương, ký kết với nhau những hiệp
ước, nghị định, nhưng lại vẫn có thể can thiệp vào công việc
nội bộ của nước khác, đe dọa sử dụng vũ lực, hoặc sử dụng vũ
lực nếu thấy là "cần thiết".
đến
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứXI,
Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tr.67.
141
Đằng sau những tuyên bố về việc phải giải quyết các
tranh chấp, mâu thuẫn bằng thương lượng hịa bình, thì lại thấy
những hoạt động chạy đua vũ trang, chuẩn bị chiến tranh. Sự
không thành công trong thực hiện sứ mạng hịa bình ở Syria,
Trung Đơng của cựu Tổng Thư ký Liên hợp quốc K.P.Annan
trong năm 2012; sư phức tap cua tmh hình Syna nam 2013, sự
nóng lên của các "điểm nóng" ở các khu vực và tình hình phức
tạp ở Ucraina, ở Biển Đơng năm 2014, đã cho thấy tính chât
phức tạp của tình hình. Đằng sau những tuyên bố về việc tơn
trọng hịa bình, độc lập, chủ quyền của các quốc gia dân tộc, thì
lại thấy thực hiện những biện pháp "trừng phạt", sử dụng vũ lực,
những nguy cơ đe dọa độc lập, chủ quyền, an ninh và thể chế
chính trị đat nước. Người ta cố gắng tìm ra các giải pháp để vực
dậy các nền kinh tế thoát khỏi tình trạng suy thối, khủng
hoảng, thì cũng là lúc độc lập, chủ quyền quốc gia trở nên mong
manh và bị đặt lên bàn cân tính tốn.
Tinh hình đã, đang buộc các nước phải hợp tác với nhau,
cạnh tranh quyết liệt và vẫn phải cảnh giác với nhau. Không
thể phát triển nếu khơng có chiến lược phát triển phù hợp và
không hội nhập, hợp tác; cũng không thể yên ổn làm ăn nếu
khơng có sức mạnh và biết tự bảo vệ. Nhiều vấn đề thuộc lĩnh
vực quốc phòng, an ninh hoặc liên quan mà một quốc gia đơn
lẻ không thể tự đứng ra giải quyết được, địi hỏi phải có sự
hợp tác khu vực và quốc tế, sự nỗ lực chung của cộng đông
nhân loại. Xu hướng hợp tác, hợp tác trong đấu tranh, cạnh
tranh cùng tồn tại, tránh đối đầu là xu hưóng chủ đạo. Những
quan hệ đối tác - đối tượng trở nên đan xen và rất phức tạp,
gây nhiều khó khăn đối với các quốc gia dân tộc trong việc
nhìn nhận và xử lý các quan hệ quốc tế trong khơng gian tồn
cầu hóa sâu rộng. Các quốc gia dân tộc trên thế giới đang ra
sức nắm bắt, tận dụng mặt tích cực và thời cơ do tồn cầu hóa,
hội nhập quốc tế đem lại để đẩy mạnh phát triển kinh tế và
142
củng cố quốc phòng, an ninh. Những thách thức về quốc
phịng, an ninh đối với nước ta mang tính nguy hiểm cao.
Tinh nguy hiẹm cua những thách thức về quốc phịng, an ninh
khong chi bơi sự phưc tạp cua tình hình quốc tế, khu vưc bởi
sự chống phá của các thế lực thù địch; mà cịn có thể bơi do
chính chúng ta, có thể do sự bức bách về sự phát triển kinh tế
sự mong muốn nhanh chóng khắc phục nguy cơ tụt hậu về
kinh tế, đẩy nhanh công nghiệp hố, hiện đại hố, mằ dẫn đến
xem nhẹ, khơng chu y, lơ là, mất cảnh giác đối với âm mưu
thủ đoạn phá hoại của các thế lực thù địch.
Dù muốn hay không, quan hệ giữa chủ nghĩa xã hội và
chủ nghĩa tư bản vẫn là quan hệ chủ đạo trong thời đại ngày
nay. Hiện nay, quan hệ giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư
bản tuy khơng cịn đóng vai trò và biểu hiện như trươc nữa
như thời kỳ Chiến tranh lạnh, nhưng vẫn rất quan trọng và có
nhiều nét mới trong bức tranh tổng thể của cuọc đấu tranh dân
tộc, đấu tranh giai cấp trên phạm vi toàn cầu.
ờ đây, cần làm rõ thêm những biểu hiện mới về mâu
thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản trong tình
hình mới:
Từ khi có chủ nghĩa xã hội, thì mâu thuẫn giữa chủ nghĩa
xã hội và chủ nghĩa tư bản luôn luôn là mâu thuẫn cơ bản của
thời đại, chi phối và quy định các mâu thuẫn khác. Tuy nhiên
sự biểu hiện của mâu thuẫn cơ bản ấy trong mỗi giai đoạn
khác nhau có sự khác nhau; mức độ và tính chất gay gắt sự
quyết liệt, các hình thức và sắc thái biểu hiện cung khơng
giống nhau.
Thời kỳ từ Chiến tranh lạnh kết thúc trở về trước, mâu
thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản biểu hiện
gay gắt và quyết liệt. Hệ thống xã hội chủ nghĩa đối đầu
một cách toàn diện với chủ nghĩa tư bản; mang tư duy coi
bất cứ cái gì, việc gì, ý định gì của chủ nghĩa tư bản đều là
143
xấu, đều là phản động, coi chủ nghía xã hội là khơng đội
Irời chun° với chủ nahĩa tư bản. Có người phê phán đo la tư
duy lạc hạu, nhưng tư duy đó là sự phản ánh một hiện thực
khacti quan là: chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản tôn tại
thực tế với tư cách là hai hệ thống xã hội đối lập nhau; va
đấu tranh để loại bỏ nhau giữa hai hệ thống xã hội đôi lập
này cũng là một hiện thực khách quan. Chiến tranh lạnh,
chiến tranh nóng (chiến tranh thế giới và cục bộ); chạy đua
vũ trang; bất hợp tác... là những hình thức đấu tranh trực
tiếp giữa hai hộ thống xã hội đối lập ấy ở thời kỵ này. Cuộc
đau tranh của nhân dân các dân tộc; sự xuất hiện và hoạt
động của các phong trào chính trị - xã hội, của các đang
phái chính trị; việc giải quyết các mâu thuân giai câp, mâu
thuẫn dân tộc trên binh diện thế giới cũng như trong từng
quốc gia dân tộc, trong từng loại hình nước ở thời kỳ này,
đều chịu sự chi phối, quy định và xoay quanh mâu thuân
giữa hai hệ thống xã hội đối lập ấy.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nshĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng ta
nhận định: "Các mâu thuần cơ bản trên thế giới biểu hiện dưới
những hình thức và mức độ khác nhau vẫn tồn tại và phát
triển"1. Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghía tư ban
vẫn tồn tại và phát triển, vẫn là mâu thuẫn cơ bản. Và do đó,
đau tranh để giải quyết mâu thuẫn cơ bản ấy vẫn là tất yếu
khách quan, nhưng với nội dung và hình thức mới.
Chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản vừa hợp tác vừa đáu
tranh, kiềm chế lẫn nhau trong cùng tồn tại hịa bình
Đây là đặc điểm nổi bật, là nội dung và hình thức đấu
tranh mới giưa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản trong
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Vãn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứXI,
Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tr.67.
144
giai đoạn hiện nay. "Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện
nay của thời đại là các nước với chế độ xã hội va trình đọ phat
triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vira đấu tranh cạnh
tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc"1. Trong thơi đại
ngay nay, mau thuan giưa chu nghía xã hơi và chủ nghĩa tư
bản xét về lâu dài và toàn cục vẫn là mâu thuẫn cơ bản nhất.
Đã nói thời đại ngày nay là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư
bản lên chủ nghĩa xã hội, thì bản chất xuyên suốt của thời kỳ
quá độ ấy là cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa tư bản. Nhưng giai đoạn hiện nay của thời đại đã có
nhiều thay đổi.
Chủ nghĩa xã hội hiện thực trong gần 100 nãm tồn tại
đã đạt những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử, làm thay
đổi bộ mặt thế giới hiện đại: góp phần quan trọng đánh
thắng chiến tranh đế quốc, chiến tranh phát xít, bảo vệ hồ
bình thế giới; là chỗ dựa cho phong trào giải phóng dân tóe
la niềm cổ vũ cho phong trào cách mạng thế giới; là tấm
gương và niềm tin ở tương lai tươi sáng cho lồi người. Các
nước xã hội chủ nghĩa cịn lại với những đặc điểm, đặc thù
khác nhau, mạnh yếu khác nhau, đang ra sức tìm tịi, sáng
tạo, hồn thiện mơ hình mới của chủ nghĩa xã hội trong
thời đại ngày nay. Một thực tế là, số nước xã hội chủ nghĩa
chỉ cịn rất ít, thế giới đã đi vào tồn cầu hoá, chủ nghĩa xã
hội và chủ nghĩa tư bản cùng tồn tại trong hồ bình, cùng
hợp tác để phát triển, hai bên cùng có lợi, khơng cịn ở thế
đối đầu, đối kháng quyết liệt như trước. Sự hợp tác đó diễn
ra trên mọi lĩnh vực, ở cấp song phương, đa phương cũng
như ở phạm vi toàn cầu.
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứXI, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tr.69.
10,70NQĐNDVN
145
Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bải
biểu hiện trong từng chế độ xã hội với những nội dung và hìm
thức khác nhau.
- Trong các nước xã hội chủ nghĩa:
+ Tìm tịi, sáng tạo, hồn thiện mơ hình mới của ch'
nghĩa xã hội.
"Một số nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, trong đ
có Việt Nam, vẫn kiên định mục tiêu, lý tưởng, tiến hành ả
cach đoi mới, giành được những thành tựu to lớn, tiếp tụ
phát ’triển"1. Các nước xã hội chủ nghĩa đang ra sức tìm tị
sang tạo, hồn thiện mơ hình mới của chủ nghĩa xã hội, tạ
nên một diện mạo mới cho sự phát triển của chủ nghía X
hơi trong thế ky XXL Các nước xã hội chủ nghĩa đã tr
thanh mọt lực lượng chính trị mang ý nghĩa định hướng qua
trong trong đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc và chủ quyé
quốc gia của các nước trên thế giới trước tác động tiêu cụ
tồn cầu hố.
Các Đảng Cộng sản ờ các nước xã hội chủ nghĩa phân tíc
và nắm bắt tình hĩnh thế giới, các xu thế thời đại, cùng v<
những đặc điểm, "màu sắc-; giá trị dân tộc kết hợp với việc di
vào tư tưởng và lý luận của những lãnh tụ tiêu biêu của Đar
minh. Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lêrũn,
tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam ct
hành động, coi đó là bước phát triển quan trọng trong nhĩ
thức và tư duy lý luận của Đảng. Đảng Nhân dân cach mại
Lào dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hô c
Minh và tư tưởng Cayxỏn Phơmvihản làm kim chỉ nam cl
hanh động. Đó là con đường, cách thức vận dụng và phát tri«
chu nghĩa Mác - Lênin phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn, là
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thử
Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tr.68.
146
cho chủ nghĩa xã hội hiện thực phát triển năng động và sán«
tạo hơn. Bởi vì, những ngun lý của chủ nghĩa Mác - Lenin ve
chủ nghĩa xã hội mang tính phương pháp luận và tồn nhân
loại, việc kiến tạo mơ hình và xác định con. đường đi tới chủ
nghĩa xã hội ở mỗi quốc gia có sự khác nhau.
Đó là trách nhiệm sáng tạo của các Đảng Cộng sản của
các thế hệ kế tiếp. V.I.Lênin đã từng nói: "Tất cả các dân tộc
đều sẽ đi lên chủ nghĩa xã hội, đó là điều khơng tránh khỏi
nhưng các dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội khơng phải một
cách hồn toàn giống nhau, mỗi dân tộc sẽ đưa đặc điểm của
mình vào hình thức này hay hình thức khác của chế độ dân
chủ, vào loại này hay loại khác của chun chính vơ sản, vào
nhịp độ này hay nhịp độ khác của việc cải tạo xã hội xã hội
chủ nghĩa đối với các mặt khác nhau của đời sống xã hội"1.
+ Hợp tác, mở cửa làm ăn với thế giói tư bản.
Hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là Trung
Quốc và Việt Nam đều chú trọng mở rộng quan hệ hợp tác
với tất cả các nước, các tổ chức trên thế giới, kể cả các nước
tư bản phát triển. Đảng Cộng sản Việt Nam xác định quan
điểm: "chủ động và tích cực hội nhập quốc tế"; "là bạn, là đối
tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng
quốc tế; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã
hội chủ nghĩa giàu mạnh"12. Và "Trên cơ sở giữ vững độc lập,
tự chủ, phát huy tối đa nội lực, giữ gìn và phát huy bản sắc
dân tộc; chủ động ngăn ngừa và giảm thiểu tác động tiêu cực
của quá trình hội nhập quốc tế"1. Đến nay, Việt Nam đã tham
gia vào hầu hết các tổ chức quốc tế lớn và khu vực, các tổ
chức, thiết chế tài chính, thương mại thế giới, quan hệ hợp tác
1. V.I.Lênin, Toàn tập, tập 30, Nxb Tiến bộ, M.1979, tr. 160.
2, 3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứXI, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tr.235-236.
147
với hơn 180 quốc gia và vùng lãnh thổ; quan hệ đối ngoại n
rộng và ngày càng đi vào chiều sâu, góp phần tạo ra thế và h
mới cho đất nước. Hợp tác và cạnh tranh, đặc biệt về kinh
giữa Mỹ và Trung Quốc ngày càng tăng. Đến nay, Trur
Quốc đã tham gia 266 công ước đa phương và hầu hết các 1
chức liên chính phủ trên thế giới; thể hiện rõ sự chuyển đ<
căn bản từ một quốc gia "đứng ngồi" trở thành một quốc g
"có trách nhiệm" và tích cực hơn trong việc tạo lập luật ch
phù hợp lợi ích của mình, chứ khơng đơn giản là chấp nhỗ
lut chi do cỏc nc khỏc ỏp t1.
+ Chp nhn tạm thịi tình trạng bóc lột để học hỏi kir
nghiệm quản lý, thu hút đầu tư và chuyển giao công nghệ.
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhiều nước ?
hội chủ nghĩa như Việt Nam và Trung Quốc ó chp nhỗ
tm thi tỡnh trng búc lt phỏt triển. Việc mở rộng CÍ
thành phần kinh tế, phát triển kinh tế tư nhân; cùng với vit
đẩy mạnh thu hút các nguồn đầu tư bên ngoài, đặc biệt từ cế
nước tư bản phát triển như Mỹ, EU, Nhật Bản, về khách quai
đó là sự chấp nhận tình trạng bóc lột, tuy là tạm thời, để phi
triển nhưng không ảnh hưởng tiêu cực đến bản chất chế đ<
Đó là sự lựa chọn cần thiết, phù hợp với tình hình. Trong qi
trình đó, các nước xã hội chủ nghĩa khơng chỉ đơn giản th
hút đầu tư, nguồn vốn, mà qua đó cịn để học hỏi kinh nghiệi
quản lý, cách thức tổ chức lao động và chuyển giao côn
nghệ. Hoa Kỳ và Việt Nam đẩy mạnh quan hệ trên nhiều lĩn
vực, tuy vẫn đấu tranh với nhau. Sau hơn mười năm, đê
năm 2008 đã có 381 dự án của các cơng ty Mỹ đầu tư ở Vi<
Nam với tổng số vốn đãng ký khoảng 4,9 tỷ USD12. Nhật Bải
1. Tạp chí Khoa học Quân sự, số 9/2011, tr. 104.
2. Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, cập nhật ngày 9 tháng 4 nă
2008.
/
Hàn Quốc, EU... là những nước chiếm vị trí hàng đầu trong
đâu tư vào Việt Nam.
5
+ Đấu tranh chống "diễn biến hịa bình".
Hiện nay, các nước xã hội chủ nghĩa "cịn gặp nhiều khó
khăn, các thế lực thù địch tiếp tục chống phá, tìm cách xóa bo
chu nghĩa xã hội"1. Kể từ khi chủ nghía xã hội ra đời và trơ
thành hệ thống thế giới đến nay, mục tiêu chiến lược nhát
quán, xuyên suốt của chủ nghĩa đế quốc là xóa bỏ chu nghía
xã hội. Để thực hiện mục tiêu đó, chúng khơng từ mọt âm
mưu, thủ đoạn nào, từ việc thực hiện những biện phẩp vu
trang, phát động chiến tranh chống chủ nghĩa xã hội đen viec
thực hiện những biện pháp phi vũ trang, tiến hành nhưng
"cụộc chiến tranh khơng khói súng", thực hiện chiến lược
"diễn biến hịa bình" để thủ tiêu chủ nghĩa xã hội là mọt
nguy cơ đối với chủ nghĩa xã hội. Do đo, trong khi van hợp
tac VƠI cac nươc tư ban, các nước xã hội chủ nghĩa vẫn phải
đấu tranh phòng, chống âm mưu, thủ đoạn "diễn bien hoa
bình". Đó là một nhiệm vụ cấp bách nhằm bảo vệ phát trien
những tư tưởng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa Mác - Lênin
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, đưa đất nứơc
tiến lên trên con đường xã hội chủ nghĩa.
- Trong xã hội tư bản chủ nghĩa:
+ Bộc lộ những khiếm khuyết không thể vượt qua.
Chủ nghĩa tư bản hiện đại trong thời đại ngày nay đã khác
nhiều so với chủ nghĩa tư bản đầu thế kỷ XX, càng khac xa so
với chủ nghĩa tư bản cổ điển ở thế kỷ XIX mà C.Mác
Ph.Ảngghen đã từng chứng kiến. Chủ nghĩa tư bản thờỉ
C.Mác là thời kỳ tiền độc quyền, thời V.I.Lenin là độc quyên
và bây giờ là tập trung tài chính, tư bản mang tính tồn cầu.
1. Đàng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần
thứXI, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011 tr.68.
149
Chủ nghĩa tư bản có bộ mặt mới, có những điều chinh lớn,
đang nắm ưu thế về tài chính, khoa học và cơng nghệ, thị
trường, cịn nhiều tiềm năng phát triển, song không thê khăc
phục nổi những mâu thuẫn vốn có của nó. Đại hội XI cua
Đảng Cộng sản Việt Nam nhận định: "Hiện tại, chủ nghĩa tư
ban vẫn con tiềm năng phát triển, nhưng về bản chất vẫn là
một chế độ áp bức, bóc lột và bất cơng. Những mâu thuẫn cơ
bản vốn có của chủ nghĩa tư bản, nhât la mâu thuan giua tinh
chat xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với
che độ chiếm hữu tứ nhân tư bản chủ nghĩa, chẳng những
không giải quyết được mà ngày càng trở nên sâu sắc. Khủng
hoảng kinh tế, chính trị, xã hội vân tiếp tục xay ra ; Chinh
sự vận động của những mâu thuẫn nội tại đó và cuộc đấu
tranh của nhân dân lao động sẽ quyết định vận mệnh của chủ
nghĩa tư bản"2.
ở trong lòng xã hội tư bản hiện đại, đời sống của người
lao động tuy có được cải thiện, nhưng đó là sự cải thiện do
tiến bộ chung xã hội, số người lao động bị hất ra hè phố, số
người nghèo khổ vẫn ngày càng tăng. Khủng hoảng, suy
thối, nợ cơng những năm gần đây ờ các quốc gia tư bản cho
thấy những giới hạn, những khiếm khuyết không thể vượt
qua của chủ nghĩa tư bản hiện đại. Năm 2011, nợ công cua
My da vượt mức 238 tỷ USD/ngày, đạt 14.580 7 tỷ USD vượt
GDP của Mỹ năm 2010 (14.526,5 tỷ USD). Theo Quỹ Tiên
tê quốc tế (IMF), Mỹ đã gia nhập lại nhóm nước có nợ cao
hơn GDP, gom Nhật Bản (229%), Hy Lạp 152%), Italia (120%),
Mỹ đã vượt quá 100% GDP3. ở Mỹ, tỷ suất giá trị thặng dư
trong các nganh sản xuất công nghiệp trong mấy thập kỷ
1 2 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu tồn qũc
lần thửXI, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tr.68-69.
3. Báo Nhân dân, sô' ra ngày 5 tháng 8 năm 2011, tr.8.
150
qua đã tăng nhanh: năm 1950: 241%, năm 1960: 247 6%
năm 1970: 255%, năm 1980: 289%, những nãm 1990khoảng 300%, những năm đầu thế kỷ XXI: khoảng 307%.
Ợ các nước Tây Âu cũng có mức tăng tương tự... Số người
sống dưới mức nghèo khổ ở Mỹ khoảng 30 triẹu, ở Tay Au
khoảng 40 triệu1. Tất cả điều đó đã nói lên tính Chat an
bám, bóc lột, phản động và tất yếu diệt vong của chủ nghĩa
tư bản, chủ nghĩa đế quốc.
+ Buộc phải điều chỉnh hướng tói các giá trị tiến bộ.
Hiện nay, chủ nghĩa tư bản buộc phải điểu chỉnh chính
sách phát triển hướng tới các giá trị của xã hội xã hội chủ
nghĩa, đó là một tất yếu, nhưng đó là tất yếu ngẫu nhiên
ngồi sự "kiểm sốt" của nó. Những điều chỉnh lơn của chu
nghĩa tư bản thuộc lĩnh vực kinh tế là chế độ sở hữu chế đơ
phân phối thu nhập, chế độ tài chính, tiền tệ, tín dụng giá cả'tăng cường các hoạt động điều tiết thị trường để cho nó sống
động- hơn, áp dụng các thành tựu khoa học và công nghệ hiên
đại, hội nhập sâu vào sinh hoạt toàn cầu.
Cho dù chủ nghĩa tư bản có những biến đổi, thích nghi và
phát triển như thế nào, nhưng bản chất bóc lột của nó vẫn
không hề thay đổi, vẫn đúng với phát hiện của C.Mác trước
đay. Khong nhưng thc, ban chât phan đông của nó đang đươc
chủ nghĩa tư bản ra sức mở rộng đến các nước đang phát triển
băng các hình thức nơ dịch và chủ nghĩa cường quyền mới về
chính trị, kinh tế và cả quân sự. Mâu thuẫn cơ bản giữa giai
cấp những người vô sản và giai cấp những người hữu sảngiữa những người nghèo và người giàu không chỉ trong phạm
vi một quốc gia, nó đã phát triển ở tầm quốc tế, đó là mâu
1. Thong tin Lý luạn chinh trị, Ban tin của Hôi đồng Lý luận Trung ương
sô'39 (112), 10/2011, tr. 28.
151
thuẫn giữa các nước nghèo và các nước giàu, mâu thuân Nam Bắc, Đông - Tây.
Đi từ kinh tế thị trường tự do đến chủ nghĩa tự do mới,
chủ nghĩa tư bản vẫn khơng thể tìm ra lối thốt bởi tính chất
ăn bám, bóc lột của nó. Cuộc khủng hoảng tài chính, suy
thối kinh tế tồn cầu, tình hình nợ công ở các quốc gia châu
Âu và Mỹ, phong trào chiếm phơ n ở Mỹ, các cuộc biêu
tình ở các nước châu Âu diễn ra gần đây đã chứng minh rõ
cho nhận định trên. Chính quyền và cơ chế "của 1%, do 1%
và vì \%" la thể hiện sự tập trung cao độ quyền lực và lợi ích
kinh tế, chính trị vào thiểu số rất ít người, sự bất bình đẳng
và mâu thuẫn xã hội sâu sắc không thể điều hịa của chủ
nghĩa tư bản. Trong tình hình đó, đã thấy rõ sự lung tung
trong phương hướng và mơ hình phát triển của nhiều quốc
gia tư bản, vai trò can thiệp kinh tê dịch chuyên dần từ nhà
nước quốc gia sang "nhà nước quốc tê như nhom G7, Nghị
viện châu Âu, G20, IMF, WB. Những thành tựu cách mạng
khoa học công nghệ hiện đại mà chủ nghĩa tư bản đang lợi
dụng để kéo dài tuổi thọ của nó, đang dần vượt ra khỏi "sự
kiểm sốt của chính nó".
+ Hợp tác cùng các nước xã hội chủ nghĩa để phát triển và
giải quyết các vấn đề toàn cầu.
Trường hợp quan hệ Mỹ - Trung Quốc là một ví dụ điển
hình. Hiện nay, Chính phủ Mỹ cho rằng: "Thực tế, sự thịnh
vượng của Mỹ có lợi cho Trung Quốc và sự thịnh vượng của
Trung Quốc cũng có lợi cho Mỹ"1. Mỹ đang điều chỉnh chính
sách đối với Trung Quốc theo hướng tích cực, thúc đẩy quan hệ
phát triển ổn định, đó khơng phải là một biện pháp nhất thời,
mà là xu hướng chính do thực tế khách quan và sự vận động tự
1. Tạp chí Kiến thức quốc phịng hiện đại, số 8 năm 2011, tr.19.
152
thân về lợi ích đem lại, và xu hướns này sẽ cịn tiếp diễn tron°
thời gian tới nhưng có những biểu hiện phức tạp mới. Tuy
nhiên, những điều chỉnh trong chính sách đối với Trunơ Quốc
của Mỹ là có mức độ, quan hệ Trung - Mỹ vẫn tồn tại nhiều
vân đề và xung đột lợi ích khơng dễ dàng giải quyết.
Trong tình hình mới, nhân dân thế giới đang đứng trước
những vấn đề toàn cầu cấp bách liên quan đến vận mệnh
lồi người. Đó là giữ gìn hịa bình, đẩy lùi nguy cơ chiên
tranh, chống khủng bố, những thách thức an ninh phi
truyền thống, bảo vệ môi trườnư và ứns phó với biến đổi
khí hậu tồn cẩu, hạn chế sự bùng nổ về dân số, phòng
ngừa và đẩy lùi những dịch bệnh hiểm nghèo. Việc giải
quyết những vấn đề đó đòi hỏi sự hợp tác và tinh thần trách
nhiệm cao của tất cả các nước. Các quốc gia dân tộc, đặc
biệt là các nước tư bản phát triển đã hợp tác với các nước xã
hội chủ nghĩa với nhiều cấp độ khác nhau, nhất là đối với
Trung Quốc, để giải quyết những vấn đề toàn cầu. "Mỹ và
Trung Quốc đều là các cường quốc Thái Bình Dương và
chúng tơi (Mỹ) chào đón sự vươn lên của một nước Trung
Quốc giàu mạnh và thành cơng, để Trung Quốc đóng vai
trị to lớn hơn đối với hịa bình và an ninh khu vực"1. Sự hợp
tác giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội trong giải
quyết các vấn đề toàn cầu thể hiện trách nhiệm của hai loại
nước này đối với cuộc sống nhân loại, làm gia tăng sự hiểu
biết lẫn nhau, học hỏi lần nhau, bổ sung cho nhau những
cái hay, tuy vẫn đấu tranh và cạnh tranh nhau.
- Trong các nước đang phát triển:
Đại hội XI của Đủng nhận định: "Các nước đang phát
triển, kém phát triển tiến hành cuộc đấu tranh rất khó khăn,
1. Tạp chí Quan hệ quốc phòng, Viện Quan hệ quốc tế về quốc
phòng, số 18, quý 11/2012, tr. 16.
153
phức tạp chống nghèo nàn, lạc hậu, chống mọi sự can thiệp,
áp đặt và xâm lược để bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia,
dân tộc"1. Vấn đề quan trọng trước hết đối với các nước đang
phát triển là bảo vệ, giữ gìn và củng cố độc lập dân tộc, chủ
quyền quốc gia, tránh bị lệ thuộc và phụ thuộc vào bên ngồi
dưới mọi hình thức. "Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước
vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã
hội dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng sẽ có bước
tiến mới"2.
Lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội với sắc thái
mói - chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI ở Mỹ Latinh - là một xu
hướng mới. Trên bản đồ chính trị thế giới hiện nay nếu tơ
màu hồng cho xu hướng cánh tả đang cầm quyền lãnh đạo
xây dựng xã hội mới tiến bộ và phát triển, được lịng dân, thì
Mỹ Latinh là một khu vực khá rực rỡ gam màu này. Trào lưu
cánh tả ở Mỹ Latinh là một nhân tố mới tác động tích cực tới
cục diện khu vực và thế giới; tạo thuận lợi cho sự hồi phục và
phát triển của các đảng cộng sản ở khu vực cũng như cho
phong trào cộng sản và cơng nhân quốc tế nói chung; cổ vũ
cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hịa bình, độc lập dân
tộc, dân chủ, công bằng và tiến bộ xã hội; thúc đẩy xu thế hịa
bình, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới; làm suy
giảm vị trí độc tơn của Mỹ ở ngay khu vực "sân sau" truyền
thống. Tuy nhiên, trào lưu cánh tả ở Mỹ Latinh đứng trước
nhiều khó khăn và thử thách.
Triển vọng chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI tùy thuộc rất
nhiều vào khả năng chèo lái của các lãnh tụ, vào việc tiếp tục
đẩy mạnh cải cách cả về kinh tế - xã hội và chính trị, việc xẩy
dựng những chính đảng tiền phong cách mạng vững mạnh
1, 2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thửXI, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tr.69.
154
lam nịng cốt, củng cơ khối đồn kết tồn dân, xây dựng và
cung cô khôi liên kết, hợp tác, hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa
các nưóc, cũng như sự ủng hộ của các lực lượng cách mạng
cánh tả và tiến bộ trên thế giới.
Như vậy, hiện nay mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và
chủ nghĩa tư bản vẫn tồn tại và phát triển, vẫn là mâu thuẫn
cơ bản; đấu tranh để giải quyết mâu thuẫn này vẫn là khách
quan, nhưng với nội dung và hình thức biểu hiện mới. Sự
hợp tác giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản diễn ra
trên mọi lĩnh vực, ở cấp song phương, đa phương cũng như
ở phạm vi toàn cầu, thể hiện rõ nét qua sự hợp tác ở từng
nước. Các thế lực đế quốc hiếu chiến và thù địch bao giờ
cũng coi sự tồn tại của chủ nghĩa xã hội là sự uy hiếp đối
với chúng, vì thế, chúng khơng chấp nhận sự hiện diện của
chủ nghĩa xã hội.
Hình thái vừa hợp tác vừa đấu tranh và đầy biến động ấy
làm cho vấn đề bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, tồn
vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia dân tộc và chế độ xã hội chủ
nghĩa của nhân dân ta tuy có những thuận lợi, nhưng cũng
gặp nhiều khó khăn, thách thức rất phức tạp. Say sưa tìm kiếm
sự phat tnên ma không quan tâm đúng mức đến vấn đề quốc
phịng, an ninh, thì đó là một hành động tự làm suy yếu sức
mạnh của bản thân mình và sẽ dẫn đến hậu quả nguy hai. Vấn
đề quan trọng là, trong từng giai đoạn cụ thể, phải nhận rõ
được tính chất và các hình thức, sắc thái biểu hiện mới có
chiến lược và đối sách đúng đắn, phù hợp, tiếp tục đưa sự
nghiệp cách mạng tiến lên.
Quan hệ giữa cúc nước lớn. Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc
Nga... là các nước lớn đóng vai trị chủ chốt "chi phơi các
quan hệ quốc tế". Nhiều người cho rằng, thực chất bàn cờ
chính trị thế giới là bàn cờ của các nước lớn. Những vấn đề
tồn cầu, những điểm nóng trên thế giói trong thời gian gần
155
đây, như bán đảo Triều Tiên, Bắc Phi, Trung Đông, Syria...,
đều thấy sự hiện diện và vai trò rõ rệt của các nước lớn, đặc
biệt là Mỹ, Nga và Trung Quốc.
Đối với Mỹ, nếu như thế kỷ trước Mỹ mải mê với cuộc
chạy đua trong Chiến tranh lạnh, thì hiện nay đã điều chỉnh
chiến lược, tuy vẫn coi trọng châu Âu, song đang chuyển
trọng tâm sang châu Á - Thái Bình Dương, tăng cường can dự
ngoại giao, chính trị và quân sự, bố trí lại thế trận, nhằm thực
hiện quyền lãnh đạo khu vực1. Mỹ triệt để lợi dụng các vấn đề
"chống khủng bố", dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền...
tạo cớ can thiệp vào công việc nội bộ của các nước, gây áp lực
buộc các nước trong khu vực lệ thuộc vào Mỹ và hỗ trợ, phối
hợp tiếp tay cho Mỹ ngăn chặn ảnh hưởng của Trung Quốc và
các nước lớn khác.
Trung Quốc, sau gần 40 năm cải cách mở cửa, đã thốt
khỏi thế cơ lập về chính trị lẫn ngoại giao, tạo ra được một
mơi trường hịa bình xung quanh biên giới quốc gia cũng
như trong khu vực để tập trung xây dựng và phát triển kinh
tế. Ưu thế của một nước đơng dân nhất, có tốc độ kinh tế
tăng trưởng cao và là cường quốc thứ hai về kinh tế, Trung
Quốc tham vọng muốn tham gia sâu hơn vào đời sống quốc
tế, nhằm tạo dựng vị trí vững chắc ở nhiều khu vực và nâng
tầm ảnh hưởng đối với thế giới12. Những hành động khá ráo
riết gây căng thẳng ở Biển Đông những năm gần đây, đã
cho thấy rõ tham vọng trên.
Nga là một cường quốc trong quá khứ, nhất là về quân sự,
đặc biệt là về vũ khí chiến lược và với sự phục hồi, phát triển
1. Chính sách của các nước lớn, Thơng tin Khoa học quân sự, 9/2013,
tr.16.
2. Chiến lược trỗi dậy của Trung Quốc, Thông tin Khoa học quân sự,
9/2013, tr. 51.
156
kinh tê khá nhanh trong những năm gần đây, n"ày càn"
mn khàng định vị thế và ảnh hưởng của mình tron« đời
sõng nhân loại; củng cố và khẳng định vị trí cườn" quốc
Đối với ASEAN, Nga ngày càng thấy lợi ích ở khu vực chú
trọng thực hiện chiến lược cạnh tranh gây ảnh hưởn". N"a
tăng gấp đôi ngân sách quốc phòng trong 10 năm tới để xay
dựng "một quân đội hiện đại, linh hoạt trong mọi lúc". N"ấ
khẳng định chính sách hướng Đơng trong thế kỷ XXI "iữ vi
trí cường quốc trên thế giới; khẳng định sự can thiẹp bên
ngoài vào q trình chính trị xã hội của Nga là "khôn" thể
chấp nhận được"1. Nga tham gia hợp tác trên nhiều lĩnh vực
tiến sâu hơn vào Đông Nam Á; tieng nói ngày càng quan
trọng trong các cơng việc và các diễn đàn khu vực, như diễn
đàn ASEAN+, ARF..., nổi lên là một thách thức cạnh tranh
lớn đối với các đối thủ khác.
Các nước lớn điêu chỉnh chính sách đối ngoai và cố
gắng cải thiện quan hệ với nhau là xu thế chính hiện nay.
Trong quan hệ, các nước đều chủ trương tránh đoi đầu
xung đột, tích cực khai thác và phát huy những điểm tươn"
đồng, những mặt tích cực, góp phần vào việc duy trì mơi
■trường hồ bình, ổn định và hợp tác trong khu vực và quốc
tế. Tuy nhiên, sự cạnh tranh, kiềm chế lẫn nhau giữa các
nước lớn có xu hướng ngày càng trở nên quyết liệt hơn.
Điều đáng chú ý là năm 2014, Mỹ và Trung Quốc đã cùng
thống nhất xây dựng "quan hệ nước lớn kiểu mới", tron"
điều kiện quan hệ Mỹ - Nga trở nên xấu hơn bao giờ hêt
xung quanh sự kiện Ucraina.
Tác động từ quan hệ giữa các nước lớn đối với sự nghiệp
bảo vệ và xây dựng đất nước của Việt Nam là rất to lớn và sẩu
sắc, đòi hỏi Việt Nam phải có chiến lược, chính sách phù hợp
1. Báo Nhân dân, số ra ngày 13 tháng 12 năm 2012 tr.8.
157
để giữ vững độc lập, chủ quyền, chế độ xã hội và phát triển
đất nước theo mục tiêu của mình.
An ninh phỉ truyền thống là một khái niệm mới xuất hiện
và được bàn đến khá nhiều trong thời gian gần đây. Một số
nghiên cứu viện dẫn quan niệm của Liên hợp quốc về vấn đề
an ninh phi truyền thống trong 7 lĩnh vực chính: kinh tế,
lương thực, sức khỏe, mơi trường, con người, cộng đồng và
chính trị. Có nghiên cứu lại quy vấn đề an ninh phi truyền
thống vào 5 lĩnh vực cơ bản: kinh tế, mơi trường, xã hội,
chính trị và văn hóa. Một quan điểm khác phân chia các vấn
đề an ninh phi truyền thống thành 6 nhóm chính: ơ nhiễm
mơi trường, tình trạng thiếu hụt tài ngun, tội phạm xuyên
quốc gia, nạn khủng bố, dịch bệnh truyền nhiễm và thảm
họa địa chất.
Năm 2002, Hội nghị thượng đỉnh lần thứ 6 giữa các nước
thuộc khối ASEAN và Trung Quốc tại Phnôm Pênh (Campuchia)
đã ra Tuyên bố chung ASEAN - Trung Quốc về hợp tác trên
lĩnh vực an ninh phi truyền thống, xác định an ninh phi truyền
thống là những vấn đề: tội phạm xuyên quốc gia, khủng bố,
ma túy, buôn bán phụ nữ và trẻ em, buôn lậu vũ khí, rửa tiền,
tội phạm kinh tế quốc tế, tội phạm công nghệ cao. Đại hội XI.
của Đảng nhận định: "Các yếu tố đe dọa an ninh phi truyền
thống, tội phạm công nghệ cao tiếp tục gia tăng. Những vấn
đề tồn cầu như an ninh tài chính, an ninh năng lượng, an
ninh lương thực, biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh... sẽ
tiếp tục diễn biến phức tạp"1. Từ nãm 2004, Sách trắng Quốc
phòng Việt Nam xác định: "Những vấn đề chưa được giải
quyết, liên quan đến tranh chấp biên giới, lãnh thổ trên bộ,
trên biển cùng những vấn đề an ninh phi truyền thống khác
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứXI, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tr.28.
158
như bn bán và vận chuyển trái phép vũ khí, ma túy cướp
biên, tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, khủng bố, nhập cư
và di cư trái phép, suy thối mơi trường, sinh thái... cũng là
những mối quan tâm an ninh của Việt Nam"1. An ninh phi
truyền thống là khái niệm chỉ các mối đe dọa an ninh khác
với truyền thống, nảy sinh từ các yếu tố tự nhiên và xã hội
diên ra và tác động trên nhiều lĩnh vực của đời sống mang
tính tổng hợp, xuyên quốc gia và tính nguy hiểm cao.
Các mối đe dọa an ninh phi truyền thống mang tính nguy
hiểm cao, có sức ảnh hưởng lớn, trong điều kiện mới thì các
tính chất đó của nó càng gia tăng. Trong bối cảnh bùng nổ
cuộc cách mạng khoa học cơng nghệ hiện đại, q trình tồn
cầu hóa diễn ra mạnh mẽ, làm cho biên giới địa lý giữa các
quốc gia trở nên "mềm" hơn, dễ vượt qua hơn; mạng Internet
đã tạo ra một "thế giới ảo" với các xa lộ thơng tin tồn cầu
hồn tồn khơng cịn biên giới ngăn cách. Cùng với đó là sự
hủy hoại của chính con người đối với tự nhiên, mơi trườngsự phát triển kinh tế thiếu kiểm sốt, chạy theo lợi nhuận
thuần túy, lợi ích trước mắt; sự chi phối của những tư tưởng
chính trị cực đoan, sự tha hóa và suy thối về đạo đức của
bản thân con người... đã làm cho những vấn đề mà ngày nay
được gọi là các mối nguy cơ an ninh phi truyền thống, càng
trở nên trâm trọng, phức tạp hơn, có quy mô lớn hơn rất
nhiều.
Phạm vi tác động của các mối đe dọa an ninh phi truyền
thống là toàn thế giới, khơng kể riêng một quốc gia nào, nó
trở thành những thách thức mang tính tồn cầu, bởi hoạt
động của tội phạm xuyên quốc gia, khủng bố quốc tế, nhất
là khủng bơ bằng vũ khí sinh học, hóa học, bệnh dịch, nước
1. Bộ Quốc phòng, Quốc phòng Việt Nam những năm đầu thế kỷ XXI,
Nxb Thế giới, H.2004, tr.11.
159
biển dâng là khơng biên giới, nó vượt ra khỏi biên giới lãnh
thổ và lợi ích an ninh quốc gia dân tộc của một nước. Vấn đề
môi trường, cạn kiệt nguồn tài nguyên, nguồn nước sạch,
biến đổi khí hậu, nước biển dâng, sóng thần, bão lụt... đơi
khi lại đe dọa nhiều hơn đối với cuộc sống của người dân ở
những quốc gia không phải là "thủ phạm" gây ra những biến
đổi, cạn kiệt đó. Các hoạt động tội phạm, khủng bố quốc tế,
nhất là khủng bố bằng vũ khí sinh học, hóa học, các bệnh
dịch..., có quy mơ xun biên giới. Nhiệt độ tăng, mực nước
biển dâng gây ngập lụt, gây nhiễm mặn nguồn nước, ảnh
hưởng đến nông nghiệp, gây rủi ro lớn đối với công nghiệp
và các hệ thống kinh tế - xã hội trong tương lai của nhiều
quốc gia, khu vực. Vấn đề biến đổi khí hậu đã, đang và sẽ
làm thay đổi toàn diện và sâu sắc q trình phát triển và an
ninh tồn cầu.
Tính chất nguy hiểm của các mối đe dọa an ninh phi
truyền thống không chỉ biểu hiện ở mức độ hủy hoại, sự tàn
phá của nó đối với cuộc sống của con người, mà cịn đối vói
sự ổn định xã hội, sự an nguy của chế độ chính trị, sự tồn
vong của cả cộng đồng. Nhiệt độ trái đất gia tăng, bùng nổ
về dân số và đơ thị có thể dẫn đến nhiều căn bệnh mới do
các vi rút mới gây ra lây lan khắp toàn cầu. Các thảm họa
thiên tai, động đất, sóng thần, bão lụt, dịch bệnh, cạn kiệt tài
nguyên thiên nhiên... ngày càng thách đố các thành tựu của
khoa học kỹ thuật hiện đại và sự nỗ lực cố gắng của con
người. Khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm cơng
nghệ cao, những vấn đề tài chính, năng lượng, lương thực...
ngày càng thử thách nghiệt ngã năng lực điều hành của các
chính phủ, sự vững chắc của các thể chế chính trị và các nền
kinh tế, kể cả nền kinh tế giàu mạnh nhất và tính khả thi của
các liên kết quốc tế, làm cho không một quốc gia nào có thể
yên ổn làm ăn.
160
Sự ảnh hưởng và tính chất nguy hại của các mối đe dọa an
ninh phi truyền thống đã đặt ra yêu cầu bức xúc phải «ia tăn«
hợp tác quốc tế, sự cố gắng của mỗi cộng đổng, quốc «ia con
người, với những giải pháp và bước đi phù hợp, kết hợp ton«
lực các biện pháp kinh tế, chính trị, quoc phòng, an ninh đoỉ
ngoại, pháp luật, khoa học, kỹ thuật, văn hoa, xa hội.
^ Đối với Việt Nam, các mối đe dọa an ninh phi truyền thốn«
ngày càng trở nên nghiêm trọng. Việt Nam được đánh giá là mọt
trong những quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề bởi các moi đe dọa
an ninh phi truyền thống, nhất là của sự biến đổi khí hậu, tron« đo
đồng bằng sơng Cửu Long là một trong ba đồng bằng trên thế
giới dễ bị tổn thương nhất do nước bien dâna, bên cạnh đồn«
bằng sơng Nile (Ai Cập) và đồng bằng sơng Ganges (Băn«lađétX
Biến đổi khí hậu hiện hữu ở nước ta có nguy cơ tác độn« n«ày
càng lớn hơn. Trong những năm qua, dưới tác động của biến đổi
khí hậu, tần suất và cường độ thiên tai ngày càng gia tăn« «ây
ra nhiều tổn thất to lớn về người, tài sản, các cơ sở hạ tần« lanh
tế, văn hóa, xã hội, tác động xấu đến mơi trườn«.
Các mối đe dọa an ninh phi truyền thống đã và đan« thách
thưc nen đọc lạp dan tọc cua nươc ta, đăc biêt là sư vữn« chắc
cua nen kinh te, sự on đinh chính tri - xã hôi, đôc lâp, chủ quyền
quốc gia, an ninh đất nước và cuộc sống của các tan« lớp nhân
dân. Đáng, Nhà nước đã thực hiện nhiều chủ trương, biện pháp
không chỉ để đối phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền
thống mà còn để bảo vệ, củng cố nền độc lập dân tộc giữ vun«
chủ quyền quốc gia, thể chế chính trị, nền kinh tế đât nước trước
cac moi đe dọa đo. Đây con là môt nôi dung, yêu cầu quan
trọng của việc giải quyết mối quan hệ lớn "giữa độc lập tư chu
và hội nhập quốc tế1" mà Đảng ta đa xác định can phai 'nhạn
thức đúng và giải quyết tốt trong tình hình hiện nay.
1. Đang Cộng san Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứXI, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011 tr.73.
11.70NQĐNDVN
161
Tình hình kìm vực. Trong khơng gian tồn cầu hóa và xu
thế hội nhập quốc tế hiện nay, châu Á - Thái Bình Dương tuy
cịn tiềm ẩn nhữns nhân tố gây mất ổn định, nhưng vãn là khu
vực "tiếp tục phát triển năng động và đang hình thành nhiều
hình thức liên kết, hợp tác đa dạng hơn"1, vị thế "trong nền
kinh tế thế giới đang tăng lên". ASEAN là một nhàn tố quan
trọng trong sự "phát triển năng động" và "đang tăng lên" ấy.
Những yếu tố địa - chính trị, địa - quân sự, kinh tê, văn hóa,
dân cư và nội lực của khối cũng như của từng quốc gia thành
vicn đã và đang tạo cho ASEAN vị thế, vai trò ngày càng
quan trọng trong đời sống khu vực châu A - Thái Bình Dương
và thế giới.
ASEAN là tổ chức khu vực gồm 10 thành viên, có diện
tích đất liền khoảng 4,46 triệu knT chiếm 3% tổng diện tích
đất trái đất; có khoảng 600 triệu người chiếm 8,8% dân số
thế giới; vùng biển gấp ba lần so với đất; đến nay GDP của
ASEAN đạt hơn 1,8 nghìn tỷ USD, nếu là một thực thể,
ASEAN đứng trong các nền kinh tế lớn thế giới, sau Mỹ,
Trung Quốc, Nhật Bản, Ân Độ, Đức, Nga, Pháp, Canada,
Tây Ban Nha, Brazil, Anh và Italia. Hiện nay, ASEAN đang
bước vào thời kỳ hợp tác, phát triển mới theo Hiến chương
ASEAN và xây dựng cộng đồng dựa trên ba trụ cột: chính trị an ninh, kinh tế, văn hóa - xã hội, hợp tác với các đối tác tiếp
tục phát triển và đi vào chiều sâu. Trong bối cảnh kinh tế thế
giới đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, các nước
ASEAN vẫn có sự phát triển ổn định. Bằng nội lực và đường
hướng phát triển của mình, rõ ràng ASEAN có vị trí, vai
trị ngày càng quan trọng ở châu Á - Thái Bình Dương, "đang
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần
thứXI, Nxb Chính trị quốc gia, H.2011, tr.96, 97.
162