MỞ ĐẦU
Lịch sử phát triển xã hội loài người, đặc biệt là sự phát triển xã hội đương
đại cho thấy, nhân tố con người là nhân tố quyết định của mọi hoạt động. Sinh
thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng nhân tố con người. Người khẳng
định, “cán bộ là gốc của mọi công việc”, “muôn việc thành công hay thất bại
đều do cán bộ tốt hay kém... Công tác cán bộ là vấn đề rất trọng yếu, rất cần
kíp”. Thực tế, con người ln là nhân tố số một của lực lượng sản xuất; đầu tư
cho con người là đầu tư cho phát triển lâu dài và bền vững. Với tinh thần đó,
thực hiện thắng lợi đột phá chiến lược phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn
nhân lực chất lượng cao là một trong những ưu tiên hàng đầu ở nước ta hiện nay.
Tuy nhiên, trong q trình phát triển nguồn nhân lực vẫn cịn có những bất cập,
hạn chế nhất định. Vì vậy, vấn đề “Giải pháp khắc phục những bất cập, hạn
chế ở địa phương (ngành) trong việc thực hiện đường lối của Đảng về nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực” hiện là vấn đề cấp thiết hiện nay.
Hiện nay, học viện đang công tác tại Tòa án nhân dân huyện Bắc Quang,
tỉnh Hà Giang. Với vị trí cơng tác của mình và trong khuôn khổ bài tiểu luận kết
thúc môn học, học viên xin được trình bày vấn đề “Giải pháp khắc phục
những bất cập, hạn chế trong việc thực hiện đường lối của Đảng về nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực” trong phạm vi ngành Tòa án.
NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận
1. Khái niệm nguồn nhân lực
Theo Liên Hợp quốc, “Nguồn nhân lực là tất cả những kiến thức, kỹ năng,
kinh nghiệm, năng lực và tính sáng tạo của con người có quan hệ tới sự phát
triển của mỗi cá nhân và của đất nước”. Nguồn lực con người được coi như một
nguồn vốn bên cạnh các loại vốn vật chất khác: vốn tiền tệ, cơng nghệ, tài
ngun thiên nhiên
Như vậy, có thể hiểu: Nguồn nhân lực là tổng hoà thể lực và trí lực tồn tại
trong tồn bộ lực lượng lao động xã hội của một quốc gia, trong đó kết tinh
truyền thống và kinh nghiệm lao động sáng tạo của một dân tộc trong lịch sử
được vận dụng để sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần phục vụ cho nhu cầu
hiện tại và tương lai của đất nước. Nguồn nhân lực không chỉ bao hàm những
người trong độ tuổi lao động, cũng không chỉ bao hàm về mặt chất lượng, mà
còn chứa đựng các hàm ý rộng hơn, gồm tồn bộ trình độ chun mơn mà con
người tích luỹ được, có khả năng đem lại thu nhập trong tương lai
2. Khái niệm chất lượng nguồn nhân lực
Chất lượng nguồn nhân lực là toàn bộ năng lực của lực lượng lao động
được biểu hiên thông qua ba mặt: thể lực, trí lực, tinh thần. Ba mặt này có quan
hệ chặt chẽ với nhau cấu thành chất lượng nguồn nhân lực. Trong đó, thể lực là
nền tảng, là phương tiện để truyền tải tri thức, trí tuệ là yếu tố quyết định chất
lượng nguồn nhân lực, ý thức tác phong làm việc là yếu tố chi phối hoạt động
chuyển hóa của thể lực trí tuệ thành thực tiễn.
3. Các tiêu chí đánh giá chất lượng nguồn nhân lực
- Thể lực: Là tình trạng sức khỏe của nguồn nhân lực bao gồm thể chất
lẫn tinh thần. Thể lực tốt thể hiện ở sự nhanh nhẹn, tháo vát, bền bỉ, dẻo dai của
sức khỏe cơ bắp trong công việc; thể lực là điều kiện quan trọng để phát triển trí
lực. Thể lực của nguồn nhân lực được hình thành, duy trì và phát triển bởi chế
độ dinh dưỡng, chế độ chăm sóc sức khỏe. Vì vậy, thể lực của nguồn nhân
lực phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế-xã hội, phân phối thu nhập cũng
như chính sách xã hội của mỗi quốc gia. Thể lực được phản ánh bằng một hệ
thống các chỉ tiêu cơ bản như: chiều cao, cân nặng, tuổi thọ, các chỉ tiêu về tình
hình bệnh tật, các chỉ tiêu về cơ sở vật chất và các điều kiện bảo vệ và chăm sóc
sức khỏe.
- Trí lực: Tri thức là yếu tố cơ bản của trí lực, là sự tổng hợp khái quát
kinh nghiệm cuộc sống, là nhận thức lý tính. Trí lực được phân tích ở hai góc độ
sau:
+Về trình độ văn hóa, trình độ chun mơn nghiệp vụ: Trình độ văn hóa là
khả năng về tri thức và kỹ năng để có thể tiếp thu những kiến thức cơ bản, thực
hiện những việc đơn giản để duy trì sự sống. Trình độ văn hóa được cung cấp
thơng qua hệ thống giáo dục chính quy, khơng chính quy; qua quá trình học tập
suốt đời của mỗi cá nhân.
+ Kỹ năng mềm: Kỹ năng mềm là thuật ngữ dùng để chỉ các kỹ năng như:
kỹ năng sống, giao tiếp, lãnh đạo, làm việc theo nhóm, kỹ năng quản lý thời
gian, tin học, ngoại ngữ ... là những kỹ năng thường không phải lúc nào
cũng được học trong nhà trường, không liên quan đến kiến thức chuyên môn.
- Ý thức của người lao động: Ý thức tổ chức kỷ luật, tự giác trong lao
động, biết tiết kiệm, có tinh thần trách nhiệm trong việc nghiên cứu các sản
phẩm, có tinh thần hợp tác, tác phong làm việc khẩn trương, chính xác, có lương
tâm nghề nghiệp.... là những yếu tố rất quan trọng đóng vai trị quyết định sự
phát triển bền vững.
II. Quan điểm, chủ trương của Đảng về nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực
Trải qua các kỳ Đại hội, Đảng ta đã tiến một bước dài trong tư duy phát
triển nguồn nhân lực, là nguồn lực cơ bản, quan trọng trong tăng trưởng và phát
triển đất nước. Phát triển nguồn nhân lực là một trong ba đột phá xuyên suốt của
“Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020” và “Chiến lược phát triển
kình tế - xã hộỉ 2021- 2030: “Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân ỉực
chất lượng cao; ưu tiên phát triển nguồn nhân lực cho công tác đào tạo, quản lý
và các lĩnh vực then chốt trên cơ sở nâng cao, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ,
toàn diện cơ bản về chất lượng giáo dục và đào tạo gắn với cơ chế tuyển dụng,
sử dụng, đãi ngộ nhân tài, đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng và phát
triển mạnh khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo”; “Phát triển đội ngũ
chuyên gia, nhà khoa học đầu ngành, chú trọng đội ngũ nhân lực kỹ thuật, nhân
lực số, nhân lực quản trị công nghệ, nhân lực quản lý, quản trị doanh nghiệp;
nhân lực quản lý xã hội và tổ chức cuộc sống, chăm sóc con người”. Khơi dậy
khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, ý chí tự cường dân tộc, khát
vọng phát triển và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; phát huy dân chủ xã hội
chủ nghĩa; sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nền vãn hóa, con
người Việt Nam, bồi dưỡng sức dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, thu
hút, trọng dụng nhân tài, thúc đẩy đổi mới sáng tạo. “Phát huy tối đa nhân tố con
người, coi con người là trung tâm, chủ thể, nguồn lực quan trọng nhất và mục
tiêu của sự phát triển; lấy giá trị văn hóa, con người Việt Nam là nền tảng, sức
mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững. Phải có cơ chế, chính
sách phát huy tinh thần cống hiến vì đất nước; mọi chính sách của Đảng, Nhà
nước đều phải hướng vào nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và hạnh phúc của
nhân dân”.
III. Thực trạng thực hiện việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
của ngành Tòa án
1. Kết quả đạt được
Những quan điểm mang tính nền tảng tư tưởng chính trị cho việc xây
dựng và phát triển nguồn nhân lực của ngành Tòa án được thể hiện trong Nghị
quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Cải cách tư pháp đến
năm 2020, được triển khai thực hiện và đã thu được những kết quả nhất định.
Dựa vào đó, các đề án phát triển nguồn nhân lực ngành Tòa án được xây dựng
và tổ chức thực hiện. Trong giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2020, việc phát triển
nguồn nhân lực của ngành Tòa án đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ:
- Toà án nhân dân tối cao đã tổ chức các kỳ thi quốc gia và tuyển chọn
được những người đủ tiêu chuẩn để trình Chủ tịch nước xem xét, bổ nhiệm
Thẩm phán sơ cấp, Thẩm phán trung cấp, Thẩm phán cao cấp. Tòa án nhân dân
tối cao cũng đã tổ chức thi nâng ngạch, thi tuyển chọn cán bộ lãnh đạo cấp vụ
theo chủ trương thí điểm của Bộ Chính trị. Cơng tác thi tuyển được thực hiện
nghiêm túc, cơng khai, đã chọn được những cán bộ có trình độ, năng lực tốt để
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.
- Công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho Thẩm phán, cán bộ, cơng
chức đã có nhiều đổi mới mang tính chiến lược, bám sát yêu cầu thực tiễn với
nhiều hình thức đa dạng. Từ năm 2016 đến nay, Tòa án nhân dân tối cao đã tổ
chức đào tạo nghiệp vụ xét xử cho hàng nghìn học viên; đào tạo nghiệp vụ, bồi
dưỡng cho hàng nghìn Thẩm tra viên và Thư ký Tồ án…. Bên cạnh đó, Tồ án
nhân dân tối cao đã tổ chức nhiều khoá tập huấn định kỳ qua hệ thống truyền
hình trực tuyến đến 778 điểm cầu trong hệ thống Tòa án với sự tham gia thường
xuyên của trên 10.000 cán bộ có chức danh tư pháp. Tham gia giảng dạy là các
chuyên gia đầu ngành của Tồ án, các chun gia có uy tín trong và ngồi nước.
- Với mục tiêu xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao, Tòa án nhân dân
tối cao đã tuyển dụng đối với những người có trình độ Tiến sỹ luật hoặc Thủ
khoa các trường đào tạo chuyên ngành luật trong nước và những người đạt Bằng
giỏi chuyên ngành luật ở nước ngoài. Xem xét tuyển chọn Thẩm phán, cán bộ,
công chức đi đào tạo dài hạn tại nước ngoài, đáp ứng yêu cầu giải quyết các vấn
đề tranh chấp có yếu tố quốc tế phát sinh trong tình hình mới.
- Học viện Tồ án cũng được hoàn thiện về cơ cấu tổ chức, nhân sự; hoàn
chỉnh Bộ giáo trình các mơn học và Bài giảng chun biệt về cải cách tư pháp;
Tăng cường thực hành diễn án, nâng cao năng lực thực tiễn cho học viên, sinh
viên.
- Thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW và các văn bản của Bộ Chính trị,
Ban Bí thư, Tịa án 02 cấp các tỉnh đã làm tốt công tác lựa chọn, giới thiệu nhân
sự để tham gia Ban chấp hành Đảng bộ cấp tỉnh và cấp huyện. Cho tới nay, hầu
hết Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện tham gia cấp ủy cùng cấp.
Trong công tác đề bạt, bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, các Tòa án đều phối hợp chặt
chẽ với cấp ủy địa phương, đảm bảo thực hiện đúng quy định của Đảng và Nhà
nước về công tác cán bộ.
- Quán triệt quan điểm “Cán bộ là cái gốc của mọi sự thành bại”; năng lực
và đạo đức của cán bộ, Thẩm phán là yếu tố quyết định chất lượng xét xử, hiệu
quả công tác. Từ đó, Tịa án nhân dân tối cao đã ban hành và triển khai thực hiện
Quy định số 120 về “Xử lý trách nhiệm người giữ chức danh tư pháp trong Tòa
án nhân dân”. Xây dựng và tham mưu cho Hội đồng tuyển chọn và giám sát
Thẩm phán quốc gia ban hành “Bộ quy tắc đạo đức và ứng xử của Thẩm phán”,
từ đó nâng cao trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp của người Thẩm phán, yêu cầu
Thẩm phán khi xét xử từng vụ án phải thực hiện nhiệm vụ vô tư, khách quan,
thượng tôn pháp luật; địi hỏi các Thẩm phán phải ln tự rèn luyện mình, giữ
chuẩn mực đạo đức thanh liêm, chính trực, đưa ra những phán xét cơng minh.
Cùng với đó, công tác tác kiểm tra chuyên môn, nghiệp vụ được đẩy mạnh và có
nhiều đổi mới, kịp thời chấn chỉnh những hạn chế, khuyết điểm của Tòa án.
Hàng năm, Tòa án nhân dân tối cao thành lập các đồn cơng tác tiến hành kiểm
tra công tác xét xử tại các Tòa án để kịp thời nắm bắt, phát hiện, xử lý và rút
kinh nghiệm, chấn chỉnh đối với những sai sót, khó khăn, vướng mắc trong hoạt
động của Tịa án.
- Công tác tập huấn và đối thoại trực tuyến định kỳ giữa Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao và Thẩm phán Tòa án nhân dân các cấp lần đầu
tiên đã được triển khai thực hiện, có ý nghĩa thiết thực trong việc giải đáp những
vướng mắc trong thực tiễn xét xử và tăng cường công tác bảo đảm áp dụng
thống nhất pháp luật của Hệ thống Tòa án. Việc tổ chức phiên tòa rút kinh
nghiệm cũng đã lần đầu tiên được thực hiện đồng bộ trong toàn Hệ thống Tịa
án, qua đó để các Thẩm phán nâng cao tinh thần trách nhiệm, tích lũy kiến thức,
kinh nghiệm xét xử, tự đào tạo, học tập thông qua việc rút kinh nghiệm từ chính
thực tiễn xét xử, giải quyết các loại vụ việc.
2. Hạn chế, bất cập
- Về đội ngũ cán bộ, Thẩm phán:
+ Số lượng biên chế, Thẩm phán của Tòa án nhân dân các cấp chưa bảo
đảm đáp ứng yêu cầu theo cơ cấu tổ chức, bộ máy, nhiệm vụ, thẩm quyền của
các Tòa án nhân dân được quy định trong Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm
2014 và các đạo luật về tố tụng tư pháp. Chưa có chính sách cụ thể thu hút người
có năng lực vào làm việc ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn.
+ Chất lượng, cơ cấu đội ngũ cán bộ, cơng chức, viên chức trong Tịa án
nhân dân các cấp chưa đáp ứng yêu cầu; đội ngũ cán bộ, cơng chức nịng cốt kế
cận có trình độ chuyên môn cao và đội ngũ chuyên gia đầu ngành đủ sức giải
quyết những vấn đề pháp lý đặt ra trong điều kiện hội nhập quốc tế còn hạn chế;
còn thiếu các chức danh tư pháp, nhất là Thẩm phán ở các Tịa án nhân dân cấp
huyện. Trình độ, năng lực và phẩm chất đạo đức của một bộ phận cán bộ còn
hạn chế, trình độ ngoại ngữ, kiến thức pháp luật quốc tế chưa được cập nhật
thường xuyên.
- Về công tác cán bộ:
+ Công tác quản lý, quy hoạch, luân chuyển, bố trí, sắp xếp cán bộ, cơng
chức chưa đáp ứng được yêu cầu của cải cách tư pháp. Việc xây dựng và thực
hiện quy hoạch cán bộ có lúc, có nơi chưa căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ và năng
lực thực tiễn của cán bộ; chưa gắn quy hoạch với đào tạo, bố trí, sử dụng cán bộ.
Việc thực hiện quy hoạch cán bộ lãnh đạo ở một số cơ quan, tổ chức chưa theo
đúng quy định của Đảng.
+ Việc xây dựng cơ chế thi tuyển để chọn người bổ nhiệm vào các chức
danh tư pháp chậm được thực hiện, chủ yếu thực hiện trong ngành mà chưa thực
hiện được chủ trương “mở rộng nguồn để bổ nhiệm vào các chức danh tư pháp
không chỉ là cán bộ trong các cơ quan tư pháp mà còn là các luật gia, luật sư”
được nêu trong Nghị quyết số 49-NQ/TW.
+ Chưa thực sự đổi mới tư duy, nội dung, phương pháp đào tạo cán bộ
nguồn cho các chức danh tư pháp, việc đổi mới nội dung này cịn mang tính cục
bộ, chưa mang tính chỉnh thể, hệ thống, đồng bộ, chất lượng chưa được nâng lên
như mong muốn. Việc đào tạo, bồi dưỡng, cán bộ, cơng chức cịn đơn giản về
mơ hình tổ chức, thiếu nhân lực, làm theo kinh nghiệm; cơ chế chính sách
khuyến khích đào tạo, bồi dưỡng cịn bất cập.
+ Công tác xây dựng đội ngũ cán bộ chưa được quan tâm đúng mức, chưa
coi phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là
một nội dung đột phá chiến lược của ngành.
- Về chế độ chính sách, chế độ đãi ngộ: Chưa xây dựng được cơ chế thu
hút, tuyển chọn những người có đủ tâm huyết, đủ đức, tài vào làm việc ở Tịa án
nhân dân các cấp; chế độ chính sách tiền lương chưa phù hợp với lao động của
đội ngũ cán bộ Tịa án. Cơ chế xác định vị trí việc làm, biên chế cán bộ chưa
phù hợp với sự gia tăng của khối lượng công việc cần giải quyết dẫn đến tình
trạng thiếu cán bộ, gây tồn đọng các vụ việc không được xem xét, giải quyết
đúng thời hạn theo quy định của pháp luật, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp
pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
IV. Một số giải pháp khắc phục những bất cập, hạn chế của ngành
Tòa án trong việc thực hiện đường lối của Đảng về nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực
1. Bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Cải cách tư
pháp đến năm 2020 đã chỉ rõ: “Tăng cường công tác xây dựng Đảng, giáo dục,
quản lý, kiểm tra hoạt động của các tổ chức đảng, đảng viên; chăm lo công tác
quy hoạch, đào tạo, tuyển chọn, bố trí, sử dụng đúng cán bộ trong các cơ quan
tư pháp. Phân công đồng chí cấp ủy viên có trình độ, năng lực, uy tín và bản
lĩnh bổ nhiệm làm Viện trưởng Viện kiểm sát và Chánh án Tòa án các cấp”.
Thời gian qua, lãnh đạo của cấp ủy các cấp đã tập trung lãnh đạo sát thực
về chính trị tư tưởng, tổ chức và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Tòa án cũng như
cơng tác đào tạo, quy hoạch, tuyển chọn, bố trí, sử dụng, luân chuyển cán bộ
trong cơ quan Tòa án. Các cấp ủy đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo tăng cường
cơng tác giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống cho đội ngũ cán bộ Tòa
án, nâng cao tinh thần trách nhiệm của đội ngũ này trong thực thi nhiệm vụ. Tuy
nhiên, cần tiếp tục đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với phát triển nguồn nhân
lực của Tòa án theo hướng, đưa ra các tiêu chí và chủ trương thể chế hóa các
tiêu chí tuyển chọn, sử dụng, cũng như chế độ, chính sách đối với nguồn nhân
lực của Tòa án.
2. Nâng cao nhận thức về vai trò, trách nhiệm đối với cán bộ lãnh
đạo, quản lý về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Trong thời gian qua, một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng
thiếu hụt nguồn nhân lực của Tịa án nhân dân đó là nhận thức và trách nhiệm
của các cấp, nhất là của cán bộ lãnh đạo, quản lý chỉ mới quan tâm đến nhu cầu
trước mắt mà chưa tính chiến lược lâu dài. Vì vậy, để thực hiện được quy hoạch
phát triển nhân lực của Tòa án, đòi hỏi Lãnh đạo Tào án nhân dân các cấp phải
nhận thức đầy đủ về vai trò của việc phát triển nguồn nhân lực đối với cơng tác
xây dựng Tịa án, nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp phát triển đất nước trong
thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trên cơ sở đó, đề ra các giải pháp cụ thể
phù hợp với điều kiện đặc thù của địa phương, đơn vị.
3. Bảo đảm số lượng biên chế, số lượng các chức danh tư pháp theo lộ
trình phù hợp để Tịa án nhân dân đáp ứng tốt yêu cầu, nhiệm vụ
Qua thực tiễn hoạt động cho thấy, biên chế của Tòa án nhân dân thiếu rất
nhiều so với yêu cầu, nhiệm vụ, làm ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả công
tác. Tính từ năm 2012 đến ngày 30-9-2020, số lượng các loại vụ việc thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án tăng gần gấp đôi (từ 303.484 vụ việc được thụ lý
năm 2012, tăng lên hơn 602.000 vụ việc vào năm 2020). Trước xu thế hội nhập
và sự phát triển kinh tế - xã hội, tính chất các loại vụ, việc ngày càng phức tạp,
phát sinh nhiều loại tội phạm mới; tranh chấp xuyên biên giới, hơn nhân đa quốc
tịch, tranh chấp, khiếu kiện có yếu tố nước ngồi tăng mạnh. Thẩm quyền của
Tịa án mở rộng và được giao bổ sung nhiều nhiệm vụ mới theo các luật về tư
pháp ban hành thời gian qua. Cơ cấu chức danh tư pháp hiện có của Tịa án các
cấp khơng hợp lý (nhiều Thẩm phán, ít Thư ký Tòa án) cũng gây áp lực cho đội
ngũ Thư ký Tòa án, đồng thời thiếu nguồn để đào tạo, bổ nhiệm Thẩm phán.
Để tháo gỡ một bước những khó khăn đặt ra, Tòa án nhân dân tối cao đã
triển khai xây dựng Đề án vị trí việc làm, Đề án đổi mới tổ chức bộ máy Tòa án
nhân dân và một số đề án khác để trình cấp có thẩm quyền. Theo đó, căn cứ vào:
Vị trí việc làm; quy mơ dân số, diện tích tự nhiên; quy mơ phát triển kinh tế - xã
hội; tình hình vi phạm pháp luật và tội phạm; số lượng, tính chất phức tạp của
các loại vụ, việc thuộc thẩm quyền giải quyết; chức năng, nhiệm vụ mà pháp
luật giao thêm cho Tòa án thì từ nay đến năm 2022, đề xuất cho phép Tịa án có
tổng biên chế như Nghị quyết số 473a/2012/NQ-UBTVQH13, ngày 28-3-2012,
của Ủy ban Thường vụ Quốc hội (15.237 người). Điều này cũng phù hợp với
Nghị quyết số 161/2021/QH14, ngày 8-4-2021, trong đó nêu rõ “bảo đảm số
lượng biên chế để tòa án nhân dân đáp ứng tốt yêu cầu, nhiệm vụ”.
4. Bảo đảm chất lượng nhân lực, nhất là các chức danh tư pháp và
tăng cường công tác tuyển chọn, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng và hợp tác
quốc tế về đào tạo nguồn nhân lực
- Bảo đảm chất lượng nhân lực: Xét cho cùng, chất lượng hoạt động xét
xử và uy tín của Tịa án là do cán bộ Tòa án, nhất là đội ngũ Thẩm phán quyết
định. Vì vậy, thời gian tới, hệ thống Tịa án cần tiếp tục tăng cường xây dựng và
chỉnh đốn Đảng; thực hiện nghiêm các nghị quyết của Đảng, nhất là Nghị quyết
Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI, XII), gắn với thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW,
của Bộ Chính trị, “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong
cách Hồ Chí Minh”. Đề cao kỷ cương, kỷ luật công vụ, nâng cao hiệu lực, hiệu
quả hoạt động thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm. Tăng cường giáo dục chính
trị, tư tưởng; tổ chức thực hiện Bộ quy tắc đạo đức và ứng xử của Thẩm phán
một cách thực chất, đồng thời áp dụng nghiêm các quy định về xử lý các chức
danh tư pháp trong Tịa án nhân dân. Bên cạnh đó, cần tiếp tục đổi mới phương
pháp đào tạo, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng các chức danh tư pháp; tổ
chức nghiêm các kỳ thi tuyển chọn, nâng ngạch thẩm phán quốc gia. Nâng cao
chất lượng, hiệu quả của công tác cán bộ (từ việc bố trí, đánh giá, quy hoạch đến
việc điều động, luân chuyển, bổ nhiệm...)
- Công tác tuyển chọn, sử dụng: Tuyển chọn phải xuất phát và dựa vào
quy hoạch, kế hoạch, đề án phát triển nhân lực tư pháp và theo nguyên tắc cạnh
tranh, dân chủ, công khai, minh bạch, công bằng, khách quan, để chọn được
người tài, người giỏi, người có khả năng thực hiện tốt, có chất lượng chức năng,
nhiệm vụ được giao. Sử dụng nhân lực phải đúng đắn và hợp lý, sử dụng đúng
năng lực, khả năng, sở trường, năng khiếu, phát huy tài năng, khuyến khích sự
sáng tạo, làm việc có trách nhiệm cao, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác.
Việc đổi mới cơ chế tuyển chọn, sử dụng cần được tiến hành theo hệ tiêu chuẩn
ngày càng cao, đúng thực chất, đúng quy trình chặt chẽ, khoa học, đổi mới tư
duy, nhận thức, hành động của những người làm công tác tuyển chọn, sử dụng
nguồn nhân lực và có cơ chế giám sát chặt chẽ đối với cơng tác đó.
- Cơng tác đào tạo, bồi dưỡng: Tập trung đổi mới và hoàn thiện việc tổ
chức đào tạo, bồi dưỡng ở trong nước và chú trọng việc đưa cán bộ, công chức
trong diện quy hoạch nguồn đi đào tạo ở các cơ sở đào tạo có uy tín của các
quốc gia trên thế giới nhằm tận dụng, khai thác thế mạnh về đào tạo kiến thức
chuyên môn sâu với kỹ năng nghề nghiệp, sử dụng tốt ngoại ngữ, tin học. Đổi
mới mạnh mẽ về nội dung, chương trình, đội ngũ giảng viên, cơ chế tổ chức đào
tạo, bồi dưỡng và đầu tư có trọng tâm, trọng điểm về cơ sở vật chất, kinh phú
cho công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức. Đồng thời, cần tăng
cường sự quan tâm phối kết hợp giữa các cơ quan tư pháp với chính quyền địa
phương trong đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức
- Hợp tác quốc tế về đào tạo: Tăng cường hợp tác và thu hút tài tợ của các
dự án quốc tế cho công tác đào tạo, bồi dưỡng nhân lực; trang bị tốt các điều
kiện, nhất là về trình độ ngoại ngữ cho cán bộ, cơng chức đáp ứng tiêu chuẩn để
được cử đi học ở nước ngồi theo các Đề án của Chính phủ Việt Nam, Ban tổ
chức Trung ương Đảng hoặc dự án, quỹ hoạch bổng của một số nước và tổ chức
quốc tế. Ngoài ra, để chương trình đào tạo được tiếp cận với những phương
pháp giảng dạy tiên tiến của các nước thì cần phải mời giảng viên, chuyên gia
nước ngoài tham gia giảng dạy cho đội ngũ chức danh tư pháp tại Việt Nam
5. Xây dựng thể chế pháp luật, hoàn thiện cơ chế quản lý, thực hiện
tốt công tác quy hoạch, quản lý, giám sát, đánh giá, sử dụng nguồn nhân lực
- Xây dựng thể chế pháp luật: Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005
của Bộ Chính trị về Cải cách tư pháp đến năm 2020 đã chỉ rõ: việc xây dựng thể
chế về nhân lực tư pháp “theo hướng đề cao quyền hạn, trách nhiệm pháp lý,
nâng cao và cụ thể hóa tiêu chuẩn về chính trị, phẩm chất, đạo đức, chuyên môn
nghiệp vụ và kinh nghiệm, kiến thức xã hội đối với từng loại cán bộ”. Theo đó,
cần phải hoàn thiện pháp luật về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của Tòa án
theo hướng điều chỉnh tập trung, đúng tầm vị thế, vai trị, vị trí, chức năng,
quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ của cán bộ Tịa án bằng các đạo luật cụ thể.
- Hồn thiện cơ chế quản lý, thực hiện tốt công tác quy hoạch, quản lý,
giám sát, đánh giá, sử dụng nhân lực
+ Nghiện cứu, kiện toàn cơ cấu tổ chức và bộ máy của các Tòa án nhân
dân bảo đảm phân định rõ tàng chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của từng đơn
vị.
+ Xây dựng cơ chế, chính sách để giữu và thu hút những chun gia có
trình độ cao, những người có khả năng đóng góp nhiều cho Tịa án nhân dân; ghi
nhận, tôn vinh và khen thưởng xứng đáng những cán bộ, cơng chức có thái độ
làm việc tận tâm, đưa ra nhiều giải pháp chiến lược, đột phá về xây dựng Tòa án
hoặc tham mưu đề xuất giải quyết tốt về chun mơn, nghiệp vụ, góp phần tạo
dựng uy tín và sức mạnh ngày càng lớn cho Tịa án; tạo dựng môi trường làm
việc minh bạch, công bằng và lành mạnh để mọi cán bộ, cơng chức đều có cơ
hội thể hiện khả năng làm việc, cống hiến cho Tòa án và phát triển bản thân.
+ Thực hiện tốt công tác quy hoạch nguồn cán bộ lãnh đạo, quản lý công
tác quy hoạch phải là cơ sở tốt cho công tác đào tạo nguồn nhân lực theo tiêu
chuẩn đối với từng ngạch công chức, từng loại chức vụ lãnh đạo, quản lý; chú
trọng công tác đánh giá cán bộ, gắn liền vưới việc bố trí, sắp xếp cán bộ, công
chức phù hợp với năng lực, sở trường, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
+ Tăng cường công tác quản lý, kiểm tra các hoạt động công vụ, phát hiển
và xử lý kịp thời những vi phạm, thiếu sót, bảo đảm xây dựng đội ngũ nhân lực
trong sạch, vững mạnh.
6. Đổi mới chế độ tiền lương và chính sách đãi ngộ đối với cơng chức,
Thẩm phán Tịa án nhân dân
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Cải cách tư
pháp đến năm 2020 đã chỉ rõ: “Có chế độ, chính sách tiền lương, khen thưởng
phù hợp với lao động của cán bộ tư pháp. Tăng cường kiểm tra, thanh tra và có
cơ chế thanh tra, kiểm tra từ bên ngoài đối với hoạt động của các chức danh tư
pháp”.
Thực tế hoạt động tư pháp thời gian qua cho thấy tình hình tội phạm diễn
biến phức tạp với tính chất và hậu quả ngày càng nghiêm trọng. Các khiếu kiện
hành chính, tranh chấp dân sự, kinh tế, lao động, các loại khiếu kiện, tranh chấp
có yếu tố nước ngồi có chiều hướng tăng về số lượng và đa dạng, phúc tạp hơn
về tính chất, địi hỏi cường độ lao động của cán bộ Tịa án nhân dân gia tăng,
tính chất cơng việc ngày một phức tạp, thế nhưng chế độ tiền lương, phụ cấp
chưa được cải thiện nên chưa phát huy hết năng lực, khả năng, sự cống hiến của
cán bộ tư pháp nói chung và cán bộ Tịa án nói riêng. Do vậy, cần phải tiếp tục
đổi mới mạnh mẽ, mang tính đột phá về chế độ, chính sách đối với nhân lực tư
pháp, đặc biệt là chính sách tiền lương và các ưu đãi khác đối với Thẩm phán.
7. Tạo lập môi trường, điều kiện làm việc tốt nhất để nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực
Để tạo lập môi trường, điều kiện làm việc tốt nhất nhằm nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực cho Tịa án thì cần thực hiện đồng bộ một sốc giải pháp
như:
- Tập trung kinh phí và rà sốt, xác định trọng điểm đầu tư xây dựng mới
hoặc sửa chữa cải tạo trụ sở làm việc cho các Tòa án nhân dân đảm bảo các tiêu
chí về diện tích đất theo định hướng chung, đặc biệt đối với các Tịa án nhân dân
chưa có trụ sở.
- Phối hợp các cơ quan hữu quan xây dựng định mức trang thiết bị,
phương tiện làm việc cho Thẩm phán, Thẩm tra viên, Thư ký và các loại phương
tiện chuyên dùng khác phục vụ nhiệm vụ đặc thù của Tòa án nhân dân
- Phát triển việc ứng dụng tin học vào việc thực hiện các hoạt động của
Tòa án theo hướng tạo sự đồng bộ và hiện đại hóa về cơ sở hạ tầng, thiết bị; hệ
thống các phần mềm ứng dụng chun biệt của Tịa án có đủ về số lượng với
công nghệ hiện đại thuận tiện, dễ sử dụng, bảo đảm phục vụ cho việc chỉ đạo,
lãnh đạo, điều hành của lãnh đạo Tòa án nhân dân các cấp chủ yếu thơng qua hệ
thống mạng máy tính, từng bước tiến tới xây dựng hệ thống “Tòa án điện tử”
đáp ứng các u cầu về cơng khai hóa, minh bạch hóa các hoạt động của Tịa án
theo tinh thần cải cách tư pháp.
KẾT LUẬN
Tịa án nhân dân có vai trò quan trọng trong việc giữ vững an ninh chính
trị, trật tự an tồn xã hội, tạo mơi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế, hội
nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; là chỗ dựa vững chắc của nhân dân
trong việc bảo vệ công lý, quyền con người, đồng thời là công cụ hữu hiệu bảo
vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh có hiệu quả với các loại tội
phạm và vi phạm. Trong hệ thống Tòa án, chất lượng nguồn nhân lực nói chung
và chất lượng đội ngũ Thẩm phán nói riêng giữ vai trị quan trọng trong việc xét
xử, là một trong những yếu tố mang tính quyết định đến hiệu quả quá trình giải
quyết, xét xử các vụ án. Chính vì vậy, vấn đề nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực trong ngành Tòa án nhân dân hiện nay là vấn đề mang tính cấp thiết. Với tư
cách là một cán bộ của ngành Tòa án nhân dân, bản thân học viên cần chủ động,
tích cực học tập, tu dưỡng, rèn luyện để nâng cao trình độ chun mơn, trình độ
lý luận chính trị, nâng cao thể lực, trí lực, ý thức lao động cũng như kỹ năng
mềm để hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao, từ đó đóng góp một phần nhỏ
vào việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của ngành.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII
2. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Cải cách
tư pháp đến năm 2020
3. Giáo trình Kinh tế phát triển, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
NXB lý luận chính trị - năm 2021
4. Tham luận Hội nghị sơ kết công tác 6 tháng đầu năm và triển khai
nhiệm vụ 6 tháng cuối năm 2021, Phó Vụ trưởng Vụ GĐKT II TANDTC
Nguyễn Thị Hà
5. Báo cáo sơ kết 05 năm thực hiện chiến lược quy hoạch phát triển nhân
lực Việt Nam và quy hoạch phát triển nhân lực Tòa án nhân dân giai đoạn 2011
– 2020 ngày 30/6/2017 của Tòa án nhân dân tối cao
6. Bài viết Đổi mới tổ chức bộ máy tòa án nhân dân tinh gọn, hoạt động
hiệu lực, hiệu quả đáp ứng yêu cầu tình hình mới, PGS.TS Nguyễn Hịa Bình Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Chánh án Tòa án nhân dân tối
cao, bài đăng trên Tạp chí cộng sản ngày 23/7/2021
7. Bài viết Những thành tựu nổi bật của Tòa án nhân dân nhiệm kỳ 20162020, đăng ngày 23/12/2020 trên Cổng thơng tin điện tử Tịa án nhân dân tối cao
8. Bài viết Về chiến lược phát triển nhân lực tư pháp quốc gia, GS.TS Võ
Khánh Vinh – Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam, đăng ngày 13/9/2021
trên Tạp chí Tịa án nhân dân điện tử
9. Bài viết Thực trạng cải cách tư pháp ở nước ta thời gian qua và những
vấn đề đặt ra, GS.TS Võ Khánh Vinh – Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam,
bài đăng trên Tạp chí điện tử Luật sư Việt Nam ngày 25/9/2021