TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GỊN
SAIGON UNIVERSITY
TẠP CHÍ KHOA HỌC
SCIENTIFIC JOURNAL
ĐẠI HỌC SÀI GÒN
OF SAIGON UNIVERSITY
Số 79 (01/2022)
No. 79 (01/2022)
Email: ; Website: />
BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY DI SẢN VĂN HÓA
CỦA TỘC NGƯỜI THÁI Ở CÁC BẢN DI DÂN,
TÁI ĐỊNH CƯ VÙNG LÒNG HỒ THỦY ĐIỆN SƠN LA
Preserving and promoting cultural heritage of Thái ethnicity in the immigration
and resettlement villages in Sơn La hydropower reservoir area
ThS. Nguyễn Thị Tơ Hồi
Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam
TÓM TẮT
Từ sau khi thực hiện công cuộc đổi mới đến nay, đời sống kinh tế, văn hóa của đồng bào các tộc người
thiểu số ở Việt Nam ngày càng được nâng lên rõ rệt. Bên cạnh các chính sách chung thì các chính sách
về bảo tồn và phát huy di sản văn hóa cũng được thực thi trên cơ sở đặt văn hóa là “mục tiêu và động
lực cho q trình phát triển kinh tế - xã hội”. Điều đó góp phần làm cho nhiều di sản văn hóa của các
tộc người được bảo tồn và được phổ biến ra ngoài cộng đồng. Tuy nhiên, bên cạnh những điểm tích cực
thì thực tiễn ở nhiều địa phương cũng cho thấy xu hướng mai một, biến mất của nhiều di sản văn hóa
truyền thống. Qua nghiên cứu thực trạng bảo tồn và phát huy di sản văn hóa của cộng đồng tộc người
Thái ở một số bản di dân tái định cư xây dựng dự án hồ thủy điện Sơn La, bài viết đưa ra một vài đề
xuất, khuyến nghị cho công tác này trong thời gian tới.
Từ khóa: bảo tồn và phát huy, di sản văn hóa, di dân, tái định cư, tộc người Thái
ABSTRACT
Since the implementation of the renovation until now, the economic and cultural of ethnic minorities in
Vietnam has been markedly improved. In addition to general policies, policies on conservation and
promotion of cultural heritage are also implemented on the basis of establishing culture as “the goal and
driving force for the socio-economic development process.” That contributes to the preservation of
many cultural heritages of the ethnic groups and disseminates to the community. However, besides the
positive points, the reality in many localities also shows the trend of disappearance of many traditional
cultural heritages. Through studying the status of conserving and promoting cultural heritage of Thái
ethnic community in some resettled immigrant villages for Sơn La hydropower project, the article
makes some recommendations for the implementation in the near future.
Keywords: preserve and promote, cultural heritage, migration, resettlement, Thái ethnicity
dân tộc, Đảng đã nhiều lần khẳng định:
“Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội,
vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy
sự phát triển kinh tế - xã hội” (Đảng Cộng
sản Việt Nam, 2005b, p. 303). Nghị quyết
1. Đặt vấn đề
Trong quá trình lãnh đạo thực hiện đổi
mới, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, với chủ trương xây dựng nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc
Email:
109
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY
No. 79 (01/2022)
Hội nghị lần thứ chín, Ban Chấp hành
Trung ương khóa XI về xây dựng và phát
triển văn hóa, con người Việt Nam đáp
ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước,
Đảng tiếp tục khẳng định: “Văn hóa thực
sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc
của xã hội, là sức mạnh nội sinh bảo đảm
sự phát triển bền vững và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh”
(Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016, pp. 141142). Và, để xây dựng được nền văn hóa
Việt Nam tiến tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc, thực sự là nền tảng tinh thần của xã
hội, là sức mạnh nội sinh bảo đảm cho sự
phát triển bền vững và bảo vệ Tổ quốc thì
việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn
hóa các tộc người là điều bắt buộc được
Đảng nhiều lần nhấn mạnh.
Trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XIII (2021), Đảng tiếp tục
khẳng định: “… lấy giá trị văn hóa, con
người Việt Nam là nền tảng, sức mạnh nội
sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền
vững” (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2021, p.
216) và “Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa
tốt đẹp của các dân tộc và di sản văn hóa,
danh lam thắng cảnh” (Đảng Cộng sản
Việt Nam, 2021, p. 263). Như vậy, có thể
thấy, vấn đề bảo tồn và phát huy các giá trị
văn hóa của các tộc người đã được Đảng
coi trọng và quán triệt trong suốt tiến trình
lãnh đạo cơng cuộc đổi mới, cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập
quốc tế.
Thực hiện những quan điểm, chủ
trương đó của Đảng, nhiều văn bản Luật và
dưới luật đã được Nhà nước ban hành để
bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa
các dân tộc Việt Nam. Luật di sản văn hóa
được ban hành năm 2001 và liên tục được
sửa đổi vào các năm 2009, 2013 là công cụ
pháp lý để thực hiện việc bảo tồn và phát
huy giá trị các di sản văn hóa dân tộc. Đối
với những cộng đồng bị tác động bởi
những chương trình, dự án phục vụ cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hàng
loạt các chính sách cụ thể cũng đã được
ban hành nhằm bảo tồn và phát huy giá trị
các di sản văn hóa của các cộng đồng này.
Việc Nhà nước ban hành khung pháp lý
cùng các chính sách bổ trợ để thực hiện
bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn
hóa đã làm cho nhiều di sản văn hóa của
các tộc người thiểu số được phục dựng,
thực sự trở thành nền tảng tinh thần cho sự
phát triển của các tộc người và của quốc
gia. Tuy nhiên, trong những trường hợp cụ
thể thì thực tiễn triển khai bảo tồn và phát
huy di sản văn hóa cũng cho thấy nhiều bất
cập. Đặc biệt là những chính sách về bảo
tồn và phát huy các giá trị văn hóa tộc
người ở vùng cao trong quá trình di dân tái
định cư mà cộng đồng người Thái ở Sơn
La có thể coi là một trường hợp như vậy.
2. Thực trạng bảo tồn và phát huy di
sản văn hóa của tộc người Thái ở các
bản di dân, tái định cư thực hiện dự án
hồ thủy điện Sơn La
Luật Di sản Văn hóa năm 2013 nêu
rõ: “Di sản văn hóa Việt Nam là tài sản
quý giá của cộng đồng các dân tộc Việt
Nam và là một bộ phận của di sản văn
hóa nhân loại, có vai trò to lớn trong sự
nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân
dân ta” (Quốc hội nước CHXHCNVN,
2013). Luật này quy định Di sản văn hóa
bao gồm: “di sản văn hóa phi vật thể và di
sản văn hóa vật thể, là sản phẩm tinh
thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa,
khoa học, được lưu truyền từ thế hệ này
qua thế hệ khác ở nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam” (Quốc hội nước
CHXHCNVN, 2013).
110
NGUYỄN THỊ TƠ HỒI
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GỊN
Căn cứ theo Luật di sản văn hóa năm
2013 thì có thể định dạng các di sản văn
hóa của tộc người Thái bao gồm: không
gian kiến trúc cư trú, tâm linh (như
miếu/đền thờ nàng Han); các loại hình
nghệ thuật diễn xướng (như Nghệ thuật
Xòe Thái), các điệu múa dân gian, các điệu
then và đàn tính tẩu, các điệu chiêng, trống,
sáo, v.v.
Ngày 29/6/2001, dự án Thủy điện Sơn
La được Quốc hội khóa X thảo luận và
thơng qua chủ trương đầu tư. Đến ngày
15/1/2004, Thủ tướng đã ra quyết định số
09/QĐ-TTg phê duyệt dự án Thủy điện
Sơn La. Ngày 2/12/2005, cơng trình Thủy
điện Sơn La được khởi công xây dựng.
Đây là một cơng trình trọng điểm, đa mục
tiêu, có vai trị quan trọng đối với sự phát
triển của đất nước. Song, việc triển khai
xây dựng hồ thủy điện Sơn La đã làm cho
một số lượng lớn cư dân ở Sơn La phải di
dân tái định cư. Trong đó, số hộ bị ảnh
hưởng của tái định cư tính đến giữa năm
2009 là 7.556 hộ thuộc 202 bản, 51 xã
phường của 8 huyện, thành phố của tỉnh
Sơn La và tộc người Thái chiếm 84% (Lê
Hải Đường, 2009).
Quá trình triển khai di dân, tái định cư
theo quy hoạch tổng thể của Nhà nước đã
dẫn đến sự thay đổi môi trường cư trú của
các bản truyền thống của người Thái và
hình thành nên nhiều bản mới trong khu tái
định cư. Sự chuyển đổi địa vực cư trú, hình
thành lối sống mới cùng những tác động
của kinh tế thị trường đã tạo ra sự đứt gãy,
mai một thậm chí mất đi của nhiều di sản
văn hóa truyền thống tộc người Thái ở khu
tái định cư. Nhằm bảo tồn, phát huy giá trị
các di sản văn hóa truyền thống phục vụ
cho sự ổn định, phát triển kinh tế - xã hội
của các bản người Thái ở vùng di dân tái
định cư, nhiều chính sách hỗ trợ của Nhà
nước và địa phương đã được triển khai.
Năm 2010, Sở Văn hóa Thể thao và
Du lịch tỉnh Sơn La đã xây dựng Đề tài
“Nghiên cứu bảo tồn và phát triển đời sống
văn hóa vùng tái định cư thuỷ điện Sơn
La”. Trong đó “chú trọng vào việc sưu tầm
hiện vật dân tộc học; nghiên cứu nét sinh
hoạt văn hoá đặc trưng của từng dân tộc,
trên cơ sở đó sẽ trưng bày, giới thiệu các
hiện vật sưu tập được tại bảo tàng, nhà văn
hóa thơn bản; đồng thời khơi phục, phát
triển các lễ hội truyền thống để người dân
có điều kiện tham gia. Bên cạnh đó, cán bộ
văn hố cịn xuống khu tái định cư “ba
cùng” với dân, dàn dựng chương trình tiết
mục văn nghệ mới cho các đội văn
nghệ…” (Tuấn Yến, 2010). Việc vào cuộc
của ngành văn hóa với các biện pháp thực
thi như vậy là cần thiết trong bối cảnh sự
mai một và biến mất của di sản văn hóa
truyền thống của các tộc người phải di dân,
tái định cư xây dựng hồ thủy điện Sơn La
đang diễn ra ngày càng nhanh.
Từ năm 2011, chúng tôi triển khai các
nghiên cứu trường hợp ở hai bản di dân tái
định cư Nà Noong (Chiềng Lao, Mường
La) và Mai Quỳnh (Mường Bon, Mai Sơn)
nhằm tìm hiểu đời sống văn hóa của các
nhóm cư dân Thái ở những bản này. Qua
các thời điểm nghiên cứu vào các năm
2011, 2015, 2018 và 2020, chúng tôi nhận
thấy có những sự biến đổi về đời sống văn
hóa của cư dân các bản đó; và, cơng tác
bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn
hóa truyền thống ở mỗi bản cũng có những
sự khác biệt, do nhiều nguyên nhân.
Bản Nà Noong, một bản di dân tái định
cư của một nhóm người Thái Đen, thuộc xã
Chiềng Lao, huyện Mường La, tỉnh Sơn La.
Trước đây, nhóm cư dân này thuộc Mường
Chùm, xã Chiềng Lao. Năm 2003, thực
hiện quyết định di dân, tái định cư để
111
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY
No. 79 (01/2022)
nhường đất xây dựng lòng hồ cho nhà máy
thủy điện Sơn La, Mường Chùm đã bị tách
ra và di dời đến nhiều nơi tái định cư khác
nhau, đến đợt di dời lần 2 năm 2006, nhóm
này đã tụ họp lại và quyết định thành lập
bản mới, lấy tên là Nà Noong.
Cư dân Thái ở Nà Noong trước kia
vốn quen với điều kiện sinh sống và canh
tác lúa nước ở vùng trũng thấp. Sau khi
được di vén lên khu vực cao hơn, nằm sát
đường quốc lộ với diện tích hẹp hơn, độ
dốc cao hơn thì họ khơng cịn trồng lúa
nước mà chuyển sang các hình thức sinh kế
khác như trồng cây lương thực ngắn ngày
(ngô, khoai, sắn...), nuôi trồng thủy sản và
kinh doanh thương mại. Sự thay đổi về
điều kiện sống đó đã làm biến đổi các
phong tục, tập quán và sinh hoạt văn hóa ở
Nà Noong. Hiện nay cộng đồng cư dân của
bản đã khơng cịn tổ chức các lễ hội cầu
mùa, xuống đồng, lên nhà mới, mừng cơm
mới, v.v. Họ chỉ tổ chức 3 dịp lễ lớn là Tết
Xíp Xí (ngày 14 tháng 7 âm lịch), Tết
Nguyên Đán (tết của người Kinh) và Lễ
Xên Bản vào các ngày 29, 30 tháng 12 âm
lịch (đôi khi cũng được tổ chức chung,
ghép với ngày Hội đoàn kết toàn dân vào
khoảng cuối tháng 12, đầu tháng 1 dương
lịch hằng năm). Ở những dịp lễ này, trưởng
bản là người đứng ra phụ trách việc cúng
cho cả bản chứ không phải là thày mo như
trước đây. Bản cũng đã bỏ tục mổ trâu, bị
thay vào đó là đặt mua thịt có sẵn và chỉ
duy trì việc mổ lợn để làm lễ cúng Nàng
Han rồi liên hoan chung. Các lễ lên nhà
mới của các hộ gia đình trong bản khơng
cịn tổ chức với quy mơ cả bản như trước
đây mà thường được tổ chức gói gọn ở
trong từng gia đình. Riêng Tết Nguyên
Đán thì trước kia hầu như người bản cũ
đều khơng tổ chức nhưng khi đến bản mới
thì Tết Nguyên Đán được tổ chức như là
một trong ba dịp lễ tết lớn và quan trọng
của bản.
Về nơi thờ tự chung, trước đây ở bản
cũ, bản vẫn có một miếu thờ Nàng Han ở
dưới gốc một cây lim to, mọc giữa bản.
Nhưng hiện nay ở bản mới, cư dân đã
không xây lại miếu thờ Nàng Han nữa, mà
gộp chung tất cả lại, cúng vào đầu năm mới
ở nhà văn hóa. Khi lễ cúng diễn ra, trưởng
bản sẽ lập một bàn thờ ở ngồi sân nhà văn
hóa của bản để thực hiện nghi thức cúng tế.
Về đời sống sinh hoạt văn hóa văn
nghệ, đàn ơng của bản trước kia thường
thổi sáo trong những dịp tổ chức văn nghệ,
hát giao duyên, hoặc là để gọi bạn tình.
Nhưng hiện nay, khơng nhiều người trong
bản biết thổi sáo và các điệu hát giao dun
cũng khơng cịn phổ biến trong giới trẻ.
Hát giao dun thì giới trẻ khơng cịn một
ai có thể hát được nữa. Hiện nay, trong bản
chỉ còn một số cụ già thuộc được một vài
điệu hát giao duyên của người Thái truyền
thống. Những năm gần đây, vào các dịp lễ
hội của bản, thanh niên và các cụ già
thường tổ chức nhảy sạp ở nhà văn hóa và
hát karaoke bằng tiếng Kinh. Đội văn nghệ
của bản đã được thành lập, nhưng chủ yếu
là học và múa các bài hát của Lào (mô
phỏng lại điệu múa Lăm Vông), hoặc là
các bài hát của người Thái đã được dịch,
chuyển làn điệu sang tiếng Kinh.
Bên cạnh sự biến đổi của văn hóa
trong các khơng gian chung thì khơng gian
riêng mang tính biểu tượng là ngơi nhà sàn
của người Thái ở Nà Noong cũng khác rất
nhiều so với trước. Ở ngôi nhà truyền
thống, người Thái thường làm 2 cầu thang
ở hai đầu chái nhà, một ở phía trước và
một ở phía sau của ngơi nhà. Nhưng khi tái
định cư, nhiều hộ gia đình trong bản đã xây
nhà bê tơng, cốt thép kiên cố theo mơ hình
nhà của người Kinh nên khơng cịn làm cầu
112
NGUYỄN THỊ TƠ HỒI
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GỊN
thang như trước hoặc chỉ cịn lại 1 cầu
thang. Số lượng bậc thang tùy theo địa
hình mặt bằng xây dựng nhà mà có thể đủ
9 bậc như trước, nhưng đa số chỉ cịn 4 đến
5 bậc. Việc bố trí thờ tự và trang trí bên
trong ngơi nhà cũng đã có sự biến đổi giữa
ngôi nhà truyền thống với nhà bê tông cốt
thép. Trước kia, bàn thờ gia tiên và thờ
Han ở một góc kín đáo, nhưng trang trọng,
nằm ngay sát buồng (gian) ngủ của chủ nhà
(thường là cặp vợ chồng già nhất trong
nhà). Nhưng khi xây dựng nhà bê tông, cốt
thép thì việc bố trí bàn thờ gia tiên và Han
cũng thay đổi. Với nhà xây một tầng, nơi
thờ tự được đặt ở ngay gian chính giữa, tức
là phịng khách và có thể có tủ thờ; với nhà
xây nhiều tầng thì tầng hai hoặc tầng trên
cùng được bố trí một phịng thờ riêng.
Trong các ngơi nhà truyền thống trước
kia hầu như nhà nào cũng có khung dệt,
việc dệt vải và trang trí hoa văn từ các sản
phẩm dệt đã làm nên sự khác biệt của người
Thái với các tộc người khác. Song ở Nà
Noong hiện nay, nghề này khơng cịn được
duy trì. Trong các chuyến khảo sát của
chúng tơi thì chỉ thống kê được 2 trong tổng
số 35 hộ gia đình ở bản cịn có các hoạt
động thêu thùa vỏ gối, cạp váy và dệt vải.
Đa phần, người phụ nữ ở đây khơng cịn dệt
vải, ngun liệu để may trang phục đều đã
được mua của người Kinh, người Mông
hoặc hàng Trung Quốc (đặc biệt là sợi thổ
cẩm giả). Những bộ trang phục truyền
thống hiện nay chỉ được cư dân sử dụng
trong các dịp lễ tết, cưới hỏi và đám ma.
Mặc dù người phụ nữ Thái ở nơi đây vẫn
giữ được tập quán tự may được quần áo khi
về nhà chồng; thêu được gối, chăn, nệm
cho cha mẹ, ông bà, anh chị em nhà chồng
và quần áo mới cho chồng. Nhưng, khác
với lúc còn ở bản cũ, hiện nay nguyên liệu
để làm nên những thứ đó được mua chứ họ
khơng tự làm. Hoa văn, họa tiết trang trí
trên nhưng bộ váy, áo, quần, thắt lưng, vỏ
gối, nệm, chăn đều đã có sự thay đổi theo
xu hướng pha trộn, không thuần như trước
đây nữa mà trở nên đơn giản hơn và chỉ cịn
mang tính chất tơ đẹp chứ khơng hoặc ít
cịn mang ý nghĩa biểu trưng cho một nét
văn hóa, tín ngưỡng như trước đây.
Tuy vậy, nguyên liệu và cách dệt, trang
trí hóa văn cũng biến đổi rất nhiều, phần
lớn nguyên liệu để may trang phục đều đã
được mua của người Kinh, người Mơng
hoặc hàng Trung Quốc, hoa văn, họa tiết
trang trí trên những bộ váy, áo, quần, thắt
lưng, vỏ gối, nệm, chăn đều đã có sự khác
biệt lớn so với trước, trở nên đơn giản hơn
và chỉ cịn mang tính chất tơ đẹp chứ khơng
hoặc ít cịn mang ý nghĩa biểu trưng cho
một nét văn hóa, tín ngưỡng như trước đây.
Sự mai một của nghề dệt vải và thêu
thùa cũng đã làm cho văn hóa mặc của cư
dân Thái ở bản Nà Noong bị biến đổi.
Những bộ trang phục truyền thống chỉ được
cư dân Thái ở bản Nà Noong sử dụng trong
các dịp lễ tết, cưới hỏi và đám ma. Ngày
nay đa số người Thái ở bản Nà Noong mặc
theo phong cách và trang phục của người
Kinh, chỉ còn lại một số cụ già là còn giữ
lại trang phục của người Thái. Những thanh
niên trong bản khi được hỏi: “Vì sao không
mặc trang phục truyền thống, mà lại mặc
theo lối của người Kinh dưới xuôi?” họ đều
trả lời: “Mặc trang phục truyền thống khó
đi lại, đặc biệt là leo lên nương, và đi xe
máy, ngồi ô tô” hoặc “Trang phục dưới
xuôi nhiều loại, nhiều kiểu, đẹp hơn, dễ
chọn để mua hơn”. Khi được hỏi: “Tại sao
bây giờ phụ nữ không dệt vải nữa mà lại đi
mua?” một phụ nữ trong bản trả lời: “Bây
giờ có tiền rồi, khơng ai dệt nữa, mua cho
tiện” và họ cho biết thêm: “Cịn ít người
phụ nữ trong bản tự may váy, áo, nệm, gối,
113
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY
No. 79 (01/2022)
chăn… lắm. Chỉ những nhà nào nghèo,
hoặc khơng có việc gì làm mới ngồi may
thơi. Cịn đa số các nhà đều ra chợ Ít Ong
(chợ này nằm ở trung tâm huyện Mường La
- TG), hoặc chợ thành phố Sơn La mua
thôi. Giờ không mấy người tự làm đâu”
(Phạm Minh Thế, 2020).
Theo trưởng bản Nà Noong thì chính
quyền địa phương cũng rất trăn trở và tích
cực trong hoạt động bảo tồn và phát huy
các di sản văn hóa truyền thống. Song, theo
trưởng bản Q.V.Đ. thì: “Chúng tơi cũng rất
buồn vì thế hệ trẻ đã khơng cịn ưa thích
những truyền thống văn hóa cũ nữa. Chúng
tơi cũng tổ chức dạy dệt vải, dạy thêu cho
các cháu nhỏ và thanh niên, nhưng chúng
không chịu học, chỉ được một vài cháu
thôi. Ở những ngày sinh hoạt cộng đồng,
chúng tơi cũng tổ chức mở vịng Xịe đấy
chứ, nhưng chỉ có lớp trung niên và các cụ
già là hào hứng, cịn tụi thanh niên chúng
chỉ thích hát karaoke thơi” (Phạm Minh
Thế, 2020). Thực trạng đó cho thấy những
khó khăn của cán bộ địa phương trong việc
bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa
truyền thống của nhóm cư dân Thái ở bản
Nà Noong khi mà các không gian truyền
thống mất đi và giới trẻ thì ngày một thờ ơ
với di sản của cha ông.
Khác với bản Nà Noong, bản Mai
Quỳnh lại có thực trạng bảo tồn và phát
huy di sản văn hóa truyền thống tích cực
hơn. Bản Mai Quỳnh là một bản di dời tái
định cư của một nhóm người Thái Trắng,
thuộc xã Mường Bon, huyện Mai Sơn, tỉnh
Sơn La. Trước đây, nhóm cư dân này thuộc
bản Pắc Ma, xã Pha Khinh (Tên khác là Pá
Ma Pha Khinh - Tên gốc của bản Pắc Ma),
huyện Quỳnh Nhai. Năm 2003, thực hiện
quyết định di dời tái định cư để nhường đất
xây dựng lòng hồ cho nhà máy thủy điện
Sơn La, bản Pắc Ma, xã Pắc Ma đã bị tách
ra và di dời đến nhiều nơi tái định cư khác
nhau. Một nhóm cư dân của Pắc Ma được
di dời đến tái định cư tại xã Mường Bon,
huyện Mai Sơn, lấy tên bản mới là bản Mai
Quỳnh, là tên ghép của hai huyện Mai Sơn
và Quỳnh Nhai (Phạm Minh Thế, 2015, p.
62). Khi đến bản mới, dù điều kiện sinh
sống còn tương đối khó khăn, song chính
quyền nơi đây cũng rất “quyết liệt” trong
việc triển khai các hoạt động nhằm bảo tồn
văn hóa truyền thống. Bản đã khơi phục lại
được đội văn nghệ với hơn 30 người và
phục dựng các điệu múa cổ như múa Bật
bông, Mừng xuân, Vào mùa, Chèo thuyền,
v.v. Điều đặc biệt là, đội văn nghệ của bản
bao gồm đủ các lứa tuổi: già (trên 60 tuổi),
trung niên (trên dưới 40 tuổi), thanh niên
và thiếu niên, nhi đồng. Các cháu thiếu
niên, nhi đồng của bản vào mỗi buổi chiều
tối các ngày thứ Bảy, Chủ nhật hằng tuần
được học múa hát các điệu múa và bài ca
truyền thống bằng tiếng Thái. Năm 2011,
số nghệ nhân chơi được đàn tính tẩu chỉ có
02 người thì đến năm 2018 đã tăng lên 7
người và đội hát then có số lượng là 12
người. Bản cũng đã xây dựng được miếu
thờ Han chung của bản từ nguồn vốn di
dân, tái định cư và sự góp cơng góp sức
của chính người dân trong bản.
Về cơ bản, Mai Quỳnh đã làm khá tốt
việc bảo tồn và phát huy những di sản văn
hóa truyền thống ở nơi tái định cư. Tuy
nhiên, cũng giống bản Nà Noong, cuộc
sống tái định cư của Mai Quỳnh cũng đã
làm cho việc bảo tồn và phát huy các di sản
văn hóa truyền thống gặp nhiều khó khăn,
nhiều nét văn hóa xưa cũng không tránh
khỏi nguy cơ mai một và biến mất. Ví dụ
như nghề dệt vải và thêu thùa đã mai một
dần, trang phục truyền thống đã khơng cịn
được coi trọng nữa, đặc biệt là ở thế hệ trẻ;
không gian thiêng cũng đã có sự thay đổi
114
NGUYỄN THỊ TƠ HỒI
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GỊN
trong từng gia đình đến khn viên chung
của cả cộng đồng… do sự thay đổi về
không gian sống, sinh tồn và sinh kế. Và
một thực tế khác ở Mai Quỳnh cịn cho
thấy sự biến mất khơng chỉ là di sản truyền
thống của cư dân nơi đi mà còn là sự biến
mất các di sản của chính cư dân nơi đến,
khu đất nơi đặt bản tái định cư Mai Quỳnh
vốn là khu đất của hai bản Tra và Xa Căn.
Trước đó, trên địa bàn này có một hang cá
thần được cư dân bản Tra và Xa Căn thờ
cúng. Khi cư dân Pắc Ma chuyển về đây
định cư, thì cư dân của các bản Tra và Xa
Căn cũng khơng duy trì việc thờ cúng ở
hang cá thần nữa (Phạm Minh Thế, 2018,
p. 176).
Những thực tế của Nà Noong và Mai
Quỳnh như trên cho thấy những khó khăn
trong bảo tồn và phát huy các giá trị di sản
văn hóa truyền thống của tộc người Thái ở
vùng di dân tái định cư xây dựng hồ thủy
điện Sơn La. Có nơi việc bảo tồn, phát huy
giá trị di sản văn hóa được coi trọng và
thực thi dần có hiệu quả, nhưng có nơi vẫn
đang phải đối diện với nguy cơ bị mai một,
biến mất ngày càng cao. Việc tìm ra chìa
khóa cho sự thành cơng trong công tác bảo
tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa
truyền thống ở các bản di dân, tái định cư
ấy địi hỏi phải có những nghiên cứu cụ thể
và rộng hơn nữa mà trong bài viết ngắn này
chưa thể thể hiện hết được.
3. Một số giải pháp bảo tồn và phát
huy di sản văn hóa của người Thái tại
khu tái định cư vùng lòng hồ thủy điện
Sơn La
Từ những nghiên cứu thực tế ở các bản
Nà Noong và Mai Quỳnh khoảng 10 năm
trở lại đây đã được trình bày ở phần trên,
chúng tơi cho rằng, cần có những giải pháp
cụ thể hơn nữa để công tác bảo tồn, phát
huy các giá trị di sản văn hóa truyền thống
được thiết thực và đồng nhất hơn.
Trước hết, đối với công tác bảo tồn di
sản, ngoài việc sưu tầm, kiểm kê ngành
văn hóa thì cần có sự đánh giá mang tính
chun mơn để thấy được giá trị lịch sử,
văn hóa, khoa học và vai trị, ý nghĩa của di
sản văn hóa truyền thống tộc người Thái ở
khu tái định cư ngày nay. Đồng thời, căn
cứ trên Luật Di sản văn hóa năm 2013,
ngành văn hóa cũng cần đánh giá và định
rõ đâu là các di sản cần bảo tồn để vào
cuộc một cách tập trung và thiết thực nhất.
Trên cơ sở đó, đẩy mạnh việc tổ chức lập
hồ sơ khoa học của các di sản để trình các
cấp đưa vào danh mục Di sản cấp tỉnh, cấp
Quốc gia, Quốc tế.
Bên cạnh đó, việc thiếu khơng gian thờ
tự, khơng gian trình diễn làm cho các sinh
hoạt cộng đồng ở các bản tái định cư trở
nên mờ nhạt hơn. Trong khi đó, cộng đồng
người Thái vốn có truyền thống giao lưu
diện rộng, họ khơng chỉ mở vịng Xịe ở
bản mà cịn sang các bản khác, vùng khác
giao lưu và mở các vòng Xòe lớn; hoặc
hành hương sang những nơi có miếu thờ
Han lớn ở các huyện khác trong vùng,
trong tỉnh để lễ bái. Vì vậy, việc quy hoạch
và xây dựng các khơng gian cộng đồng,
trong đó có khơng gian thiêng để thực hành
và bảo tồn các sinh hoạt văn hóa truyền
thống trong cộng đồng người Thái ở vùng
tái định cư là điều cần thiết. Điều đó cũng
sẽ góp phần tạo ra sự gắn kết cộng đồng
giữa người di dân (nơi đi) với cư dân bản
địa (nơi đến) và góp phần bảo tồn những
thực hành văn hóa của họ trước những sự
thay đổi về nơi cư trú và sức ép từ giao lưu,
trộn cư. Điều đương nhiên, quy hoạch, xây
dựng thế nào cũng cần hết sức thận trọng
và phải đạt được sự đồng thuận cao từ cả
phía người dân nơi đi cũng như người dân
nơi đến.
115
SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY
No. 79 (01/2022)
Cuối cùng, điều quan trọng hơn cả
trong công tác bảo tồn và phát huy di sản
văn hóa tộc người hiện nay và đối với tộc
người Thái nói riêng là phải do chính tộc
người ấy trực tiếp tham gia vào quá trình
bảo tồn và phát huy di sản. Qua thực tế quá
trình biến đổi đời sống văn hóa ở các bản
tái định cư của người Thái vùng lịng hồ
thủy điện Sơn La, có thể thấy rõ hai nguy
cơ đáng lo ngại là di sản bị “tước đoạt”
khỏi cộng đồng và cộng đồng thờ ở với di
sản của chính họ. Vì vậy, để bản thân cộng
đồng cư dân nơi đây cùng tham gia vào bảo
tồn và phát huy di sản của họ thì cần đặt
cộng đồng tộc người Thái ở các bản tái
định cư không chỉ là điểm đến của chính
sách mà cịn là điểm xuất phát cho các
chính sách bảo tồn và phát huy di sản. Di
sản văn hóa là của cộng đồng, chỉ khi cộng
đồng chủ nhân của di sản có quyền quyết
định và chủ động bảo vệ di sản của họ thì
di sản mới thực sự có sức sống và phát huy
vai trị của nó trong cuộc sống. Chính vì
thế, để người Thái được trực tiếp tham gia
vào q trình xây dựng chính sách, nói
tiếng nói của họ, phản ánh nhu cầu và
mong muốn về di sản của cha ơng họ chính
là một cách thức quan trọng để phát huy tối
đa quyền của cộng đồng trong bảo tồn và
phát huy di sản ở địa bàn di dân, tái định
cư xây dựng thủy điện Sơn La hiện nay.
4. Kết luận
Từ những gì đã trình bày trên đây có
thể thấy việc tiến hành di dân, tái định cư
đã và đang làm biến đổi đời sống văn hóa
của nhóm tộc người Thái ở nơi cư trú mới.
Bên cạnh những nét văn hóa, phong tục tập
quán mới đã được hình thành một cách tích
cực, góp phần ổn định đời sống của đồng
bào thì sự mai một và biến mất của nhiều
giá trị, nét đẹp văn hóa truyền thống cũng
làm cho tinh thần cộng đồng và ý thức tộc
Đối với cơng tác phát huy di sản,
ngồi việc tun truyền quảng bá bằng
hình ảnh ngành văn hóa thì cũng cần thực
hiện việc giáo dục, phổ biến rộng rãi các
giá trị di sản văn hóa truyền thống của tộc
người Thái. Đẩy mạnh và đổi mới công tác
trưng bày tuyên truyền, đưa di sản về với
công chúng và học đường thông qua các
cuộc trưng bày lưu động tới các cơ sở,
trường học trong bản/mường, tổ chức các
cuộc trưng bày chuyên đề tại chỗ. Từ đó,
khuyến khích, duy trì, phục hồi, truyền dạy
và tổ chức trình diễn tại nhà văn hóa các
thơn bản; tránh lãng phí hệ thống cơ sở vật
chất đã được đầu tư, xây dựng trong quá
trình tái định cư.
Song song với các q trình đó, cần
tích cực triển khai làm tốt công tác lập hồ
sơ đề nghị nhà nước phong tặng Nghệ nhân
nhân dân, Nghệ nhân ưu tú và chính sách
đãi ngộ đối với các nghệ nhân nắm giữ và
có cơng truyền dạy các giá trị di sản văn
hóa của người Thái. Năm 2019, ngành văn
hóa đã xây dựng và hồn thiện hồ sơ trình
UNESCO cơng nhận Nghệ thuật Xịe Thái
là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của
nhân loại. Đó là niềm vui, niềm tự hào và
vinh dự của cộng đồng người Thái nói
riêng, Việt Nam nói chung. Tuy nhiên, để
di sản khơng bị mai một và ngày càng biến
đổi thì rất cần có các nghiên cứu cụ thể để
tìm ra các giải pháp thiết thực để bảo vệ và
phát huy di sản Xòe Thái trong cả hiện tại
và tương lai. Song, trong niềm vui thì một
yêu cầu cũng đã và đang đặt ra là rất cần có
các nghiên cứu về mặt chính sách bảo tồn
như thế nào để bảo vệ và phát huy di sản
này trong bối cảnh hiện nay. Đồng thời,
cũng cần phải tính đến ngay việc tổ chức
truyền dạy, đào tạo các lớp nghệ nhân về
Xòe Thái ở các bản, mường trước và sau
khi di sản Xòe Thái được vinh danh.
116
NGUYỄN THỊ TƠ HỒI
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN
người dần bị nhạt phai. Điều này đặt ra yêu
cầu cho cả Nhà nước, chính quyền và
người dân sở tại phải thực sự chung tay
tiến hành bảo tồn, phát huy giá trị các di
sản văn hóa truyền thống, làm cho các giá
trị của di sản văn hóa truyền thống thực sự
trở thành nguồn lực nội sinh của đồng bào
tại nơi ở mới. Thực tiễn nghiên cứu cũng
cho thấy, việc bảo tồn và phát huy giá trị
các di sản văn hóa truyền thống của nhóm
đồng bào Thái phải di dân, tái định cư ở
Sơn La đã được thực hiện ngay từ những
ngày đầu. Với sự nỗ lực của người dân
cũng như là của chính quyền địa phương,
một số di sản đã được phục hồi, phổ biến
và góp phần làm thay đổi nhận thức của cả
chính quyền cùng người dân trong bảo tồn
và phát huy giá trị di sản văn hóa của tộc
người. Dựa trên thực tế nghiên cứu, chúng
tôi đã đưa ra một số giải pháp, khuyến nghị
cho công tác bảo tồn và phát huy di sản
văn hóa tộc người Thái ở các bản di dân tái
định cư hiện nay. Dù rằng, những giải pháp
nêu ra chưa hẳn hoàn chỉnh nhưng chúng
tôi tin tưởng nếu được thực hiện tốt sẽ giúp
cho công tác này đạt được những kết quả
tốt, bền vững khơng chỉ riêng với tộc người
Thái mà cịn hiệu quả hơn với các tộc
người thiểu số đang phải di dân tái định cư
hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Đảng Cộng sản Việt Nam (2005a). Văn kiện Đảng toàn tập. tập 1, Hà Nội: NXB Chính trị
Quốc gia.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2005b). Văn kiện Đảng toàn tập. tập 57, Hà Nội: NXB Chính
trị Quốc gia.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2016). Các nghị quyết của Trung ương Đảng 2011-2015.
Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII.
Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia.
Lê Hải Đường (2009). Kết quả thực hiện dự án di dân tái định cư tại tỉnh Sơn La.
Retrieved from
Phạm Minh Thế (2015). Biến đổi đời sống văn hóa của đồng bào Thái dưới tác động của di
dân, tái định cư: Trường hợp bản Mai Quỳnh, xã Mường Bon, huyện Mai Sơn, tỉnh
Sơn La. Tạp chí Phát triển bền vững vùng, quyển 5, số 2 (6-2015).
Phạm Minh Thế (2018). Tác động của chính sách dân tộc đến sự dịch chuyển xã hội của
các tộc người thiểu số. Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, tập 4, số 2b.
Phạm Minh Thế (2020). Tài liệu điền dã trong các năm 2011, 2015, 2018 và 2020.
Quốc hội nước CHXHCNVN (2013). Luật Di sản văn hóa. Cơng báo số 463-464 ngày 8
tháng 8 năm 2013.
Tuấn Yến (2010). Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống vùng tái định cư thủy
điện Sơn La. Retrieved from
Ngày nhận bài: 13/3/2021
Biên tập xong: 15/01/2022
117
Duyệt đăng: 20/01/2022